T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không :Tác Giả và Tác Phẩm- Hồ Trường An

clip_image001

Tiểu sử

Tên thật: Nguyễn Viết Quang. Các bút hiệu khác: Đinh Xuân Thu, Đào Huy Đán.
Sinh ngày 11.11.1938 tại Vĩnh Long. Hiện sống Troyes, Pháp.

Tác phẩm

Lớp sóng phế hưng, Nửa chợ nửa quê, Tình đẹp đất Long Hồ

Gả thiếp về vườn, Tình sen ý huệ, Cảo thơm,  . . .

“Mối Tình Trai”

LD Vân

LDV: Giới tính là một đề tài khá nhạy cảm và đòi hỏi sự bộc bạch hết sức can đảm từ phía người chia sẻ. Không thiếu những nhà văn Việt viết nhiều về đề tài giới tính, nhưng hầu như ít ai thích nói về nó một cách cởi mở trong những trang viết có tính cách cá nhân, trừ Hồ Trường An?

HTA: Cô Vân, tôi chấp nhận cuộc phỏng vấn này là môt lời tự thú trong buổi tàn thu cuộc đời. Tôi đã vào tuổi thất tuần rồi, cô ơi! Mỗi đêm, trước khi đi ngủ tôi luôn tự hỏi: sáng mai, mình có thức dậy được không đây? Hay là mình phải làm một chuyến đi tàu suốt vào giấc ngủ miên viễn? Vậy tại sao mình lại giấu diếm cái bí mật trong cuộc sống tình cảm lẫn tình dục của mình? Chấp nhận cuộc phỏng vấn của cô, tôi muốn cho lớp thế hệ bọn gay sau tôi một vài kiến thức hay một vài kinh nghiệm nhỏ nhoi nào chăng?

Vào những năm đầu của thập niên 80, tiết lộ giới tính và khuynh hướng tình dục của mình mới là hành động can đảm. Hồi đầu thập niên 60, tôi chỉ tiết lộ thân phận mình cho chị Thụy Vũ của tôi cùng một số bạn thân. Bắt đầu năm 1980 tôi có người yêu là dân Pháp chánh gốc, tôi ngang nhiên sống chung với đương sự, tới nay kể ra cũng gần 30 năm. Một phần là tôi tức giận tên Thi Vũ Võ Văn Ái (nhà báo/nhà thơ), nó nỡ đem tâm sự của tôi đi bán rao tùm lum tà la. Cho nên từ đó, khi đi dự các cuộc tiếp tân nào trong giới văn nghệ sĩ kiều bào ở Paris, tôi cũng dắt người bạn lòng của tôi theo. Đương sự nhỏ hơn tôi 9 tuổi, nhưng cái tác của hắn lớn hơn tôi khá nhiều.

Năm 1983, tôi tung ra quyển Hợp Lưu trong đó có nhân vật gay tên Quế, phản ảnh đôi chút tâm trạng của tôi. Trước tôi, vào năm 1967, bạn tôi tên Đỗ Quế Lâm có viết tiểu thuyết tự truyện tựa là ‘‘Vết Hằn Rướm Máu’’ do chính chị Thụy Vũ tôi viết lời tựa. Sau đó, ở hải ngoại, vào năm 1979, thằng bạn khác của tôi tên Lucien Trọng, một kỷ sư thủy lâm có viết quyển L’Enfer Rouge, Mon Amour do Seuil xuất bản. Sau đó nó dịch ra tiếng việt Hỏa Ngục Đỏ, Mối Tình Tôi kể lại mối tình của nó với một chàng trai bụi đời tên Hải trong thời gian hai đứa bị Cộng Sản giam cầm. Đúng như cô Vân nghĩ, hình như những cây bút gay như Đổ Quế Lâm lẫn Lucien Trọng không dám diễn tả huỵch tẹt như HTA, không mô tả cuộc làm tình tỉ mỉ và tới nơi tới chốn như HTA. Tôi diễn tả chuyện giao hợp giữa cậu trai việt và anh chàng gay quí tộc Pháp khá táo bạo và khá đậm đà. Chính nữ ca sĩ Quỳnh Giao thuở thập niên 80 bảo rằng đây là quyển sách mà Quỳnh Giao thích. Song song, cũng có rất nhiều độc giả chửi tôi khá nặng. Họ gọi điện thoại xài xể luôn anh Mai Thảo vốn là người chủ trương tờ tạp san văn chương Văn, tại sao có thể đăng từng kỳ những chương “dơ dáy nhớp nhúa” của quyển Hợp Lưu?

LDV: Đó là thế giới văn chương, còn trong cuộc sống hiện thực, ông đã từng chứng kiến những người đồng tính luyến ái bị ngược đãi quá mức?

HTA: Tôi thường nghĩ đồng tính luyến ái là do trời sanh ra, do cái ác nghiệp từ tiền kiếp hiện hành ở kiếp này. Bản tính mình như thế nào thì mình sống theo bản tính ấy, can gì phải giấu diếm? Đau khổ nhứt cho những kẻ vì bảo vệ nghề nghiệp trong các công sở, vì đã lỡ tạo lập gia đình, nên có cuộc sống song đôi. Họ lén lút ăn nằm với bọn gay bán tình và luôn nơm nớp lo sợ chuyện bí mật của mình bị tiết lộ. Đồng tính luyến ái là cái bản tính tự nhiên của một số người. Bắt những chàng gay sống như người bình thường, cưới vợ để sanh con đẻ cái là bắt họ chống lại thiên nhiên.

LDV: Nhà văn Hồ Trường An định nghĩa giới tính của mình bằng đường lối nào?

HTA: Cô Vân ơi, câu hỏi nầy trặc trẹo lắm. Tôi không sao có thể định nghĩa giới tính chính mình. Tôi chỉ biết giới tính chia ra làm ba hạng người: hạng thứ nhất là hạng người yêu đương và thích làm tình cùng người khác phái của mình. Đó là những người dị tính luyến ái (les hétérosexuels). Hạng thứ hai là những người yêu đương và thích làm tình với người đồng phái. Đó là những người đồng tính dục (les homosexuels), nhưng nói cho nhẹ nhàng bóng bẩy một chút thì gọi là đồng tính luyến ái (les homophiles); bên nam giới gọi là gay, bên nữ giới thì được gọi là lesbiennes. Lại có người thích làm tình với người khác phái tính lẫn người đồng phái tính. Đó là những người lưỡng tính luyến ái (les bisexuels).

LDV: Sự chấp nhận một cách hân hoan về khuynh hướng tính dục đặc biệt của mình đã đem lại cho nhà văn những gì ngoài cõi lòng yên tĩnh cần thiết để cho ra đời những trang viết đầy tình người và sức sống?

HTA: Sống thành thật với chính mình thì dĩ nhiên được thoải mái về mặt tinh thần lắm, có phải không cô Vân? Hồi chưa tiếp xúc với giới đồng tính luyến ái tôi ấm ức trong lòng, khao khát được giao hợp với người mình yêu. Nhưng ở tại một tỉnh lỵ đất Tiền Giang, tôi tìm đâu ra một đối tượng tình yêu thuộc loại người như mình? Cho nên tôi đau khổ, tuyệt vọng, lại còn sợ mọi người chế nhạo mình yêu trai, cho nên tôi không biết ngỏ tâm sự cùng ai. Năm tôi 25 tuổi, tôi lên Sài Gòn học lớp tập sự ngành Dược Khoa, tôi được thằng bạn thân học chung với tôi suốt 6 năm bậc trung học. Nó cũng là dân gay như tôi, nhưng cả hai chỉ là bạn suông trơn mà thôi. Nó giới thiệu cho tôi một ký giả người Pháp, gốc Ba-lan tên là Ilya Mustkatblatz. Sau đó, nó chỉ cho tôi những chỗ hội họp của bọn gay Việt lẫn gay từ các xứ như Mỹ, Pháp, Thụy Sĩ, Phi-luật-tân, Đại Hàn, Tàu Chợ Lớn qua làm việc hoặc định cư ở Sài Gòn. Họ thường lui tới rạp chớp bóng Vĩnh Lợi (mà bọn tôi gọi là Vĩnh Lạc Cung) ở đường Lê Lợi và gần Bệnh Viện Đô Thành, rạp chớp bóng Moderne (mà chúng tôi gọi là Mẫu Đơn Đình) ở gần chợ Tân Định. Ngoài ra còn ở nhà hàng Continental, nhà hàng Givral, Bùng Binh trước chợ Bến Thành là những nơi để bọn gay kiếm bồ bịch. Ngoài ra ngôi chùa thuộc Nghĩa Trang Bắc Việt, đền thánh ở Thủ Thiêm cũng là nơi hò hẹn bọn gay.

Vào năm 1966, trước hết, tôi viết truyện ngắn, thơ, kế đó mới tập tành điểm sách, viết tạp ghi. Và sau hết, tôi viết các bài nhận định về kịch ảnh & tân nhạc. Tôi đã từng cộng tác với các tạp san Bách Khoa, Tin Văn, Tiểu Thuyết Tuần San, Minh Tinh, Sinh Hoạt Nghệ Thuật, công tác với các nhật báo Tranh Thủ, Tiền Tuyến… Hứng thú đưa đẩy ngòi bút tôi chạy tốc hành trên xấp trang bản thảo khi tôi ngồi vào bàn viết. Nhưng tôi không dám viết cái tôi của mình là gay. Tôi dệt ra những cảnh giao hợp bỏng cháy, tôi nhập vai vào các nữ nhân vật, còn nam nhân vật tuy có tên Việt như Cảnh, Hạo Minh, Tường Ngọc, Huy Châu v.v…, Lại nữa, các nhân vật đẹp trai được tôi xe duyên chỉ thắm với những nữ nhân vật nếu không kiều diễm thì cũng duyên dáng mặn mòi. Nếu các cô lỡ có chửa với người chồng bô trai ngó hoài…vẫn thích ngó của họ, tôi cho họ xổ bầu đập chum để họ có cái eo thon đẹp, để họ diện áo đẹp đi rước đèn, đi bát phố cùng chồng.

LDV: Văn của Hồ Trường An đầy chi tiết, sống động và tràn ngập nhiều nhân vật nữ với tạo hình thật rõ nét. Định hình giới tính của một nhà văn giữ tầm ảnh hưởng như thế nào đến giọng văn, chủ đề, và thông điệp gởi gấm?

HTA: Văn chương tôi có nhiều chi tiết sống động? Có thể lắm chớ? Tôi viết theo cảm hứng, có nhiều khi rất máy móc, không cần suy nghĩ cho nhuần nhuyện trước khi viết. Thường thường bọn gay chúng tôi thích trào lộng và có óc quan sát mãnh liệt. Do đó tôi tìm những nhân vật độc đáo, xem cách sống, cách suy nghĩ và cách ăn nói của họ. Ai chê hạng người ngồi lê đôi mách là hạng người mất nhân phẩm. Sức mấy mà tôi suy nghĩ như vậy. Các cuộc ngồi lê đôi mách giúp tôi khám phá và tìm hiểu các nhân vật độc đáo, những nhân vật có cá tính mạnh.

Tôi nhớ, hồi xa xưa, tôi ở chung với chị Thụy Vũ. Hôm đó, Tô Thùy Yên và chị nằm trên gác. Cô tớ gái của chị đang lục đục dưới bếp. Tôi và lũ bạn kéo về, quây quần bêm mâm gải khát, bắt đầu kể chuyện ngồi lê đôi mách pha trộn chuyện tiếu lâm. Bọn tôi không hay trên gác có người nên chúng tôi tha hồ mà xả máy đía dóc. Khi câu chuyện bắt đầu rời rạc dần thì chị tôi bước xuống, cười ngất: Nãy giờ tao với ông Tiên (chỉ TTY) nằm ngủ trên gác. Nghe bọn bây đấu hót bừ bãi mà cả hai cười muốn bể bụng, muốn tróc mỡ sa ra. Tao lại mắc tiểu. Nhưng ông Tiên cản tao lại để có thể tiếp nghe câu chuyện tụi bây. Trời ơi, tao nín đái, bọng đái căng phồng muốn bể như cái pháo chuột đây nè. Mấy tên này nên tìm gánh hát gia nhập làm hề là phải hơn.

LDV: Chúng ta đã làm được gì và cần làm thêm những gì để đẩy lùi những sự phân chia kỳ thị giới tính?

HTA: Chỉ cầu mong cho mọi người hiểu rằng đồng tính luyến ái là cái sở thích bẩm sinh, chứ không phải là cái căn bịnh do xã hội tạo ra. Có kẻ bảo rằng người đồng tính luyến ái là do trong người đương sự có những cái gènes (mầm mống) tạo cho đương sự cái khuynh hướng yêu người đồng phái. Dù tôi không nắm vững vấn đề nầy, nhưng tôi không bao giờ để cho Ông Trời hay nhà khoa học hay nhà tâm ly học hoặc nhà phân tâm học nào chữa trị tôi trở thành người đàn ông bình thường. Tôi rất hạnh phúc được làm chàng gay.

Để đẩy lùi sự phân chia giới tính, người đồng tính luyến ái phải tỏ ra có tư cách. Trước hết đừng ve vãn cọ quẹt với những người không phải là gay như mình. Đừng tỏ ra âu yếm quá lố với người tình của mình trước công chúng hoặc làm trò õng ẹo nữ tính. Có vậy các nhà soạn kịch, các nhà viết kịch bản không viết tuồng hát hay viết truyện phim phơi bày cái lố lăng của bọn gay ra. Như thế, bọn gay chúng tôi mới tránh khỏi bị họ vẽ vời qua những đường nét biếm họa lố lăng. Phải sống như người bình thường. Đừng mặc cảm, có vậy mới hóa giải đươc một phần lớn sự phân chia gới tính của kẻ dị tính luyến ái. Còn những người dị tính luyến ái nào vốn thiếu tấm lòng thông cảm bao dung phải tìm hiểu vì sao thời buổi này vấn đề đồng tính luyến ái được một vài nước nới lỏng, không bị ngăn cấm gắt gao. Đó có phải là cái kết quả tích cực của biết bao công việc nghiên cứu của các nhà tâm lý học, nhà phân tâm học, nhà xã hội học, nhà nhân chủng học, nhà sinh lý học, nhà tình dục học v.v… Dần dần họ mới khám phá cái bí nhiệm của kẻ đồng tính luyến ái và đi đến kết luận tích cực như sau: đồng tính luyến ái không phải là cái bệnh, cũng không phải là tật xấu mà là một trạng thái tâm lý học, sinh lý học như bao nhiêu trạng thái muôn màu muôn vẻ của con người sống trên trái đất này.

LDV: Với tư cách là một nhà văn và một người trong cuộc, ông có những lời khuyên nào cho những ai vẫn còn chưa tìm được sự bình an trong tâm hồn về định hình giới tính của riêng họ?

HTA: Mình hạnh phúc hay không là do chính mình. Mình phải thành thật với chính mình, phải xem xét hoài bão và nguyện vọng của mình để tìm một lối sống riêng biệt cho mình với điều kiện mình không làm mất lòng ai, không dẫm chân và phóng uế vào đời tư kẻ khác. Mình phải chủ trương đời mình miễn sao đừng làm hại kẻ khác. Tôi xin nhấn mạnh những gì tôi đã phô bày, cạn tỏ mình nên sống bằng cuộc đời của mình, đừng sống bằng đời của kẻ khác. Đó là sống theo cái ĐỨC. Sống bằng đời kẻ khác, hoặc sống tuân theo luật lệ xã hội một cách khít khao mà không để một khe hở nhỏ nhoi cho ánh nắng tượng trưng cho sự tự do, cho sự quyền biến, cho sự cảm thông lọt vào thì cuộc sống của mình trở nên lệch lạc nếu không bảo là què quặt tật nguyền.

LDV: Xin trân trọng cảm tạ nhà văn Hồ Trường An đã dành cho độc giả những tâm sự hết sức cá nhân và lòng chân thật đáng quý trong cuộc nói chuyện này

Chú thích: Anh Yên đây là nhà thơ Tô Thùy Yên, chồng cũ của nhà văn Thụy Vũ.

 

Giữa đất trời giao hưởng/Theo sóng từ trường/

Gặp gỡ Thụy Khuê/Trên một chặng bút trình

1/ Hồ Trường An: Chào chị Thụy Khuê, động cơ nào thúc đẩy chị soạn cuốn biên-khảo-mạn-đàm ‘’Nói Chuyện Với Hoàng Xuân Hãn Và Tạ Trọng Hiệp’’? Có phải chị muốn chính mình được biết tư tưởng, hành động, hoài bão, dự phóng của những kẻ tuy nổi trôi trên dòng lịch sử mà vẫn làm văn hóa không? Có phải chị muốn tìm hiểu thời đại và xã hội mà họ dấn thân suốt chiều dài hành trình của họ không? …

Thụy Khuê: Thưa anh, khi soạn cuốn Nói chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp tôi chỉ muốn tập hợp những bài nói chuyện với hai học giả đã được phát thanh trên đài RFI từ năm 1993 đến 1997 và đã in trên tạp chí Hợp Lưu. Cuốn sách phát hành sau khi họ qua đời như một tác phẩm tưởng niệm, nhưng cũng để sửa lại những sai lầm về văn bản, bởi loạt bài nói chuyện với bác Hãn (xin phép anh được dùng chữ bác Hãn, vì tôi đã quen gọi bác như vậy) in trên Hợp Lưu, đã được sách báo trong nước lấy lại, nhiều chỗ tùy tiện thêm bớt, trái với tinh thần nghiên cứu khoa học và làm sai ý bác Hãn. Đó là lý do thực tiễn. Động cơ sâu xa hơn, và cũng để trả lời chính xác câu hỏi của anh, tại sao tôi tìm gặp hai nhà văn hoá trên, là như thế này:

Về bác Hãn, có lẽ phần đông chúng ta đều đã «biết» Hoàng Xuân Hãn qua sách vở giáo khoa, nhưng không mấy ai có dịp tiếp xúc với con người. Khoảng 1983-84, tôi được đọc bài Hồ Xuân Hương với vịnh Hạ Long của bác in trên tập san Khoa Học Xã Hội ở Paris, bài viết đưa ra một Hồ Xuân Hương chưa từng có trong hình ảnh Hồ Xuân Hương «của tôi». Năm 1988, tôi lại có dịp nghe bác nói chuyện về Hồ Xuân Hương. Vì thế, từ (1990) khi phụ trách chương trình văn học nghệ thuật hàng tuần của đài RFI, tôi vẫn muốn giới thiệu với thính giả những khám phá mới của Hoàng Xuân Hãn về Hồ Xuân Hương, và đầu năm 1993, tôi thực hiện chương trình nói chuyện đầu tiên với bác Hãn về Hồ Xuân Hương. Sau khi loạt bài này được phát thanh về nước, có một số người đã sang Pháp, tìm đến bác để học hỏi thêm. Có lẽ vì thấy ảnh hưởng nhanh chóng và rộng rãi của truyền thanh, cho nên những lần sau, khi tôi tìm gặp, bác đã nói về tất cả mọi vấn đề, trả lời mọi câu hỏi mà không ngần ngại gì cả. Điều đó làm cho anh Hiệp có lúc đã hỏi tôi: «Thụy Khuê làm thế nào mà hỏi bác được những «chuyện ấy», trong khi bao nhiêu năm tôi ở cạnh, hỏi bác mà bác không trả lời». Điều mà anh Hiệp gọi là «những chuyện ấy», chính là cái mà anh (Hồ Trường An) gọi là «tư tưởng, hành động, hoài bão, dự phóng của những kẻ tuy nổi trôi trên dòng lịch sử mà vẫn làm văn hóa».

Vâng đúng như anh nghĩ, chủ đích của tôi là muốn cho người nghe cũng như người đọc biết được con đường Hoàng Xuân Hãn đã đi, trên hai mặt lịch sử và văn hóa trong bao nhiêu năm sống xa đất nước. Hoàng Xuân Hãn (cũng như Tạ Trọng Hiệp) đã làm những gì cho văn hoá nước nhà. Gặp bác tôi mới biết công trình đồ sộ bác nghiên cứu từ nửa thế kỷ qua là Kiều, bản thảo nhiều trang mực đã nhoè, mà hầu như ít người biết đến. Hoặc là giới trí thức thân cận bác thời ấy có biết nhưng họ không để ý. Bác say sưa nói về những khám phá mới, về những chữ trong Kiều bị tam sao thất bản mà bác đã tìm ra, chỉnh sửa lại…

Hoàng Xuân Hãn là nhà nho kín đáo, thận trọng, không thích nói về mình, cho nên bác không tự nhiên «thổ lộ» những điều có tính cách riêng tư, nếu không vì lợi ích chung. Xin kể anh nghe một chi tiết này: Một hôm tôi đến, bác dẫn vào phòng trong chào bác gái, lúc ấy đang bận tiếp một bà bạn. Chào xong, đi ra, bác cười và nói nhỏ với tôi: «Chuyện của các bà thì có đến 90% là thừa». Ý nghĩ hóm hỉnh ấy của bác cứ theo tôi mãi, nhiều khi đang nói chuyện với ai, tôi cũng thử kiểm soát xem những điều mình nói có cần thiết không, hay là «thừa». Anh thử để ý mà xem, mình nói thừa, viết thừa nhiều lắm. Cho nên tôi lại càng hiểu sự kiệm lời của những người như Hoàng Xuân Hãn. Gặp tôi đúng lúc bác thấy có những điều cần nói và có lẽ chính bác cũng cảm thấy không còn thì giờ viết hồi ký, hoặc không muốn viết, cho nên bác đã «trao» những lời ấy cho tôi. Đó là cái duyên hạnh ngộ anh ạ. Theo tôi, ở đời mọi chuyện đều do nhân duyên cả. Anh Tạ Trọng Hiệp có tạng khác hẳn thầy Hãn, trong chỗ riêng tư anh ấy nói hết, anh Hiệp có những lời phê bình «kinh khủng» đối với những kẻ mà anh không thích. Anh Hiệp là thày đồ Tây, tôi thích tính nói thẳng của anh. Theo tôi, hai thày trò là hai khuôn mặt văn hoá dấn thân, nhưng không dấn thân theo nghĩa thông thường, như xuống đường hành động, viết tham luận chống đối, hoặc làm chính trị (Hoàng Xuân Hãn có làm chính trị, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn) mà họ dấn thân trong nghiã sâu hơn, dấn thântrong suy nghĩ, và đó, tình cờ, cũng là một trong những định nghiã dấn thân rất sâu xa của Sartre.

2/ HTA: Xin chị tóm tắt phương pháp biên khảo của Hoàng Xuân Hãn và của Tạ Trọng Hiệp ở những điểm đặc sắc cùng những điểm tương đồng và dị dòng của họ.

TK: Hoàng Xuân Hãn có kiến thức hết sức rộng bao trùm cả Hán học lẫn Việt học, có cái nhìn vừa tổng hợp, vừa phân tích trên mọi vấn đề, và có thể nói về bất cứ vần đề gì mà không cần tra cứu. Tạ Trọng Hiệp không có được kiến thức toàn diện của thày, nhưng anh rất thận trọng, và khi làm việc anh khoanh vùng, đào sâu vào chi tiết, muốn tất cả phải toàn bích, do đó anh viết rất kỹ và rất ít. Khi hỏi anh Hiệp một điều gì, thì anh tra cứu trước khi trả lời, khác hẳn bác Hãn, trả lời ngay. Theo tôi, cả hai cùng có một tinh thần nghiên cứu khoa học mà ít nhà nghiên cứu (Việt Nam) đạt được: Hoàng Xuân Hãn đi rộng và đi xa, đưa ra những nghi vấn trong văn học, mở những hướng mới cho người sau tiếp tục tìm kiếm. Tạ Trọng Hiệp xới lên những thiếu sót, sai lầm không chấp nhận được trong những văn bản cổ (ví dụ tìm những chỗ Lê Quý Đôn đã chép lại sách Tàu mà không đề xuất xứ). Tạ Trọng Hiệp dịch thuật, hiệu đính và phát hiện ra những cái mới.

3/ HTA: Cũng đồng thời làm thơ chữ Hán, nhưng sao tập ‘’Lưu Hương Ký’’ của bà Hồ Xuân Hương được cụ Hoàng và ông Tạ cùng ông Nguyễn Ngọc Bích (trong quyển ‘’Hồ Xuân Hương : Tác Phẩm’’) chiếu cố tận tình trong khi 3 bà công chúa con vua Minh Mạng và cũng là em cùng mẹ của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm là Nguyệt Đình, Mai Am và Huệ Phố cũng làm thơ chữ Hán nổi tiếng khắp Đế Đô Huế lại bị văn học sử lãng quên (hoặc bỏ rơi cũng thế).

TK: Hồ Xuân Hương là tác giả nổi tiếng trong văn học Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Nhưng chúng ta chỉ biết văn chương của bà qua những gì đã truyền tụng như một huyền thoại. Cho tới thập niên 60, người ta vẫn chưa biết, bà sống đích thực vào thời nào, sinh quán ở đâu. Từ lâu Hoàng Xuân Hãn đã lưu ý đến việc này. Thập niên 50, bác có đọc một tài liệu nói rằng Hồ Xuân Hương là tiểu thiếp của một ông quan hiệp trấn tỉnh Quảng Yên. Đến năm 1952, qua Pháp, làm việc ở thư viện quốc gia, tình cờ bác tìm thấy trong một cuốn sách địa dư có nói đến tỉnh Quảng Yên, và ở cuối phần ấy ghi sáu bài thơ đề là của Hồ Xuân Hương. Bác Hãn bèn liên lạc hai sự kiện ấy với nhau và bắt đầu tìm lại dấu vết Hồ Xuân Hương. Bác liên kết những dữ kiện lẻ tẻ mà một số nhà nghiên cứu trước đã tìm ra, với những điều bác vừa tìm được, để chứng minh về mặt văn bản rằng: Những bài thơ trong tập Lưu Hương Ký (do một ông cử nhân người làng Hành Thiện đã phát hiện trong tủ sách gia đình của mình và gửi cho Trần Thanh Mại thập niên 50), là đích thực của Hồ Xuân Hương. Trong khi khảo sát văn bản, bác lại tìm ra một số tình nhân của bà.

Như vậy Hoàng Xuân Hãn đã làm hai việc: xác định tác phẩm chính của Hồ Xuân Hương (là Lưu Hương Ký) và xác định những nét chính về cuộc đời Hồ Xuân Hương (mà trước đó chúng ta chỉ mới biết huyền thoại).

Từ đó, sinh ra một giả thiết mới là có một Hồ Xuân Hương (tác giả Lưu Hương Ký, thơ chữ Hán rất đứng đắn) và một hay nhiều, gọi chung là trường phái Hồ Xuân Hương, tác giả những bài thơ nôm nổi tiếng mà chúng ta đã biết.

Trở về với câu hỏi của anh: Trường hợp Hồ Xuân Hương khác với trường hợp của các công chúa con vua Minh Mạng. Các công chúa, tên tuổi, sự nghiệp, trước tác, đều đã được ghi nhận rõ ràng trong sử sách triều đình, nhưng lại không nổi tiếng trên văn đàn. Còn Hồ Xuân Hương là người nổi tiếng trên văn đàn, nhưng tác phẩm và tiểu sử lại rất mơ hồ. Vì vậy mà các nhà nghiên cứu đều cố gắng tìm hiểu để soi tỏ những chỗ mơ hồ ấy. Còn như nếu cần phải đánh giá (lại) tác phẩm của các công chúa con vua Minh Mệnh, thì việc ấy thuộc về các nhà phê bình.

4/ HTA: Cụ Hoàng Xuân Hãn phủ nhận bà Đoàn thị Điểm không phải là tác giả bản dịch thiên trường ca ‘’Chinh Phụ Ngâm’’ và cụ có đủ tài liệu để củng cố cho lập luận của mình. Nhưng cụ lại hoài nghi Ngọc Hân Công Chúa không phải là tác giả thiên trường ca đẫm lệ ‘’Ai Tư Vãn», mà là do người khác trước tác theo cái sentiment (sic/ tỉnh cảm) của bà mà thôi. Cụ Hoàng Xuân Hãn không có tài liệu nào chứng minh lập luận của mình. Cái hoài nghi của cụ cũng dựa trên cái sentiment của cụ đấy thôi. Nhưng chị nghĩ sao đây? Bài ‘’Văn Tế Vua Quang Trung’’ do Ngọc Hân Công Chúa soạn ra để truy điệu ngài rất đẹp lời, rất thiết tha tình ý và có giọng điệu của bài ‘’Ai Tư Vãn’’. Không lẽ bài văn tế đó cũng do kẻ khác viết hay sao?

T K: Trước hết, xin nói rõ hơn về câu tôi hỏi bác: «Thưa bác, Ai Tư Vãn có thể không phải do Ngọc Hân viết ra?», đó là một câu hỏi phụ, trong phần về vua Quang Trung. Sở dĩ tôi hỏi như vậy, vì trong thâm tâm vẫn có ý nghi ngờ không chắc có phải Ngọc Hân viết bài thơ ấy; một mặt vì tôi thấy văn chương bài Ai Tư Vãn rất hay, hết sức chải chuốt; một mặt lại cũng không thấy sử sách nhắc đến thi tài của Ngọc Hân như Hồ Xuân Hương hay Đoàn Thị Điểm. Về câu hỏi này, Bác Hãn, như thường lệ, cũng đã trả lời ngay: «Oui, tôi thì tôi không tin là của Ngọc Hân đâu»và bác đưa ra lý do là những người có chức vị cao như tổng thống Mitterand, thường có «nègre» viết hộ; hoặc bài Văn Tế Trận Vong Tướng Sĩ mà mọi người cứ tưởng là của Nguyễn Văn Thành, nhưng có phải Nguyễn Văn Thành viết đâu, Nguyễn Huy Lãng (tức Nguyễn Huy Lượng) tác giả Tụng Tây Hồ phú viết hộ đấy. Theo bác, người mình «duy tâm» suy nghĩ theo cảm tính, cứ thấy cô công chúa thì thích… để như thế. Nhưng bác cũng nói thêm :»Đó chỉ là một «sentiment» thôi. Cụ Lê Dư trước có nói với tôi rằng, bài văn ấy của một ông tên là Nhi, gì ấy, tôi không nhớ rõ». Tôi lại hỏi: vậy có phải Phan Huy Ích viết hộ không? Thì bác bảo: «Không phải Phan Huy Ích, nhưng nếu chúng ta có chứng cớ gì là của Phan Huy Ích thì cũng có thể tin được». Đó là lối nói của Hoàng Xuân Hãn để hướng dẫn người sau tiếp tục tìm kiếm, ít nhất về hai hướng: Phan Huy Ích và một người nữa tên là Nhi do cụ Lê Dư đề xuất. Giáo sư Trần Văn Khê kể lại một giai thoại khác: khi làm luận án về nhạc học, ông muốn tìm nguồn gốc giọng sa mạc, ông hỏi Hoàng Xuân Hãn, bác Hãn bảo: cứ thử tìm về phía Ả Rập chắc sẽ thấy. Và Trần Văn Khê cho biết: quả như lời bác Hãn, điệu sa mạc của ta có nguồn gốc Ả Rập.

Cho nên cái mà Hoàng Xuân Hãn gọi là «sentiment», chỉ có nghĩa là: tôi mới nghĩ như thế, nhưng chưa kiểm chứng được, vậy bạn hãy tìm cách kiểm chứng, để xác định hoặc phủ định ý kiến của tôi.

Trong cuốn Quốc Văn Đời Tây Sơn, Sơn Tùng (tức Hoa Bằng) Hoàng Thúc Trâm – để chứng minh Ngọc Hân mất năm Kỷ Mùi (1799), trước khi nhà Tây Sơn đổ (1802) – đã tìm ra năm bài văn tế Ngọc Hân do Phan Huy Ích viết, ông viết: «Chứng cớ ấy tôi tìm được ở năm bài văn tế, do một yếu nhân đời Tây Sơn là cụ Dụ Am Phan Huy Ích đứng thảo: Một bài cho vua Cảnh Thịnh, một bài cho các con gái vua Quang Trung, một bài cho Phù Ninh từ cung là mẹ đẻ của Ngọc Hân, một bài cho cựu hoàng Sòng là những người trong tôn thất nhà Lê và một bài cho các bà con họ ngoại bên Phù Ninh để đọc trong những tuần tế điện bà Ngọc Hân tức Vũ Hoàng Hậu» (trích Quốc Văn Tây Sơn, Sơn Tùng Hoàng Thúc Trâm, trang 82-83, Vĩnh Bảo, Sài gòn, 1950). Điều này càng chứng tỏ Phan Huy Ích là một trong những cây bút chính thức của triều đình Tây Sơn, do đó, rất có thể, ông hay một cây bút chính thức khác đã viết hộ Ngọc Hân bài Văn tế vua Quang Trung chăng? Đây cũng chỉ là một giả thiết, chúng ta chưa có bằng chứng cụ thể bằng văn bản.

5/ HTA: Cụ Hoàng Xuân Hãn cho rằng cuốn tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân là tác phẩm có giá trị làm cụ nghĩ tới văn chương của Honoré de Balzac. Nhưng khi ông Trần Trọng Kim viết bài tựa cho cuốn ‘’Truyện Thúy Kiều’’ do ông cùng ông Bùi Kỷ biên soạn thì lại chê tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân tầm thường. Theo chị, thì sao? Có ai thích xem một quyển sách tầm thường rồi phóng tác nó, để nguyên tên của nhân vật trong tác phẩm ấy không?

TK: Tôi có đọc tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân qua bản dịch tiếng Việt, tiếc rằng cuốn sách này tôi đã biếu nhạc sĩ Phạm Duy, khi ông cần tư liệu để soạn Minh Hoạ Kiều, nên không còn trong tay, để trích ra đây vài đoạn cho anh thấy cái hay của văn bản này. Về giá trị tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân, tôi đồng ý với nhận định của Hoàng Xuân Hãn: đây là một cuốn tiểu thuyết hiện thực rất hay, lối văn tả chân, sống động và lôi cuốn, cho nên bác Hãn đã so sánh với lối viết tỷ mỉ của Balzac về xã hội và phong tục. Văn viết theo lối bạch thoại (văn nói) và trong truyện lại chen rất nhiều thơ, làm theo lối bình dân, dễ hiểu. Chính bác Hãn cũng nhận xét là những người theo đường văn cử nghiệp (tức là văn chương bác học) thì chê là tầm thường, còn những người chuộng văn dân gian thì cho là hay.

Học giả Trần Trọng Kim nghiêng về lối văn bác học, cho nên ông chê là phải.

Chắc là Nguyễn Du đã đánh giá cao cuốn tiểu thuyết này, nên cụ mới chọn để viết lại nó bằng thể thơ. Sở dĩ tôi dùng chữ «viết lại» mà không dùng «phóng tác» vì bác Hãn cũng nói là: «Cụ Nguyễn Du có quyển ấy rồi thì cụ cứ theo trong truyện Tàu như thế nào thì cụ kể như thế. Không thêm tí nào. Nhưng cụ bỏ những cái dông dài», và khi đọc và so sánh hai văn bản, thì tôi thấy đúng như thế: Nguyễn Du viết lại tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân bằng thơ, mà không phóng tác.

Điểm này làm sáng tỏ thêm một vấn đề nữa: là cùng một cốt truyện, cùng những chi tiết trong truyện, nhưng ngôn ngữ thơ của Nguyễn Du và ngôn ngữ văn nói của Thanh Tâm Tài Nhân hoàn toàn khác nhau, dẫn đến hai tác phẩm hoàn toàn khác nhau, không thể so sánh được. Và càng chứng tỏ «cốt truyện» có chỗ đứng rất khiêm nhường trong một tác phẩm văn học. Cái hay trong tác phẩm Thanh Tâm Tài Nhân nằm trong cách trình bày hiện thực xã hội. Cái hay trong tác phẩm Nguyễn Du nằm ở sự mô tả cuộc đời toàn diện trong một cấu trúc ngôn ngữ thi ca tuyệt vời, vừa bình dân vừa bác học, vừa là thơ vừa nói thơ. Một điểm nữa: Truyện Kiều là một câu chuyện có thật, dưới thời nhà Minh. Trước khi Thanh Tâm Tài Nhân đem vào tiểu thuyết đã có nhiều người viết thành kịch, truyện. Cho nên «cốt truyện» có thể coi như «cái tích» lấy trong văn chương, lịch sử Trung Quốc. Và cách viết lại truyện Kiều bằng thơ của Nguyễn Du (từ nguyên bản tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân), cũng tương tự như cách các nhà văn, nhà thơ, kịch tác gia… Âu Châu, đời này sang đời khác, lấy lại những tích trong huyền thoại Hy Lạp, trong Kinh thánh, trong L’Odyssée, L’ Iliade của Homère để viết lại, theo ngôn ngữ và tư tưởng của mình, của thời đại mình. Trong thuật ngữ phê bình, tất cả những văn bản có chung một gốc như thế, người ta gọi là những liên văn bản.

6/ HTA: Hình như cụ Tiên Điền Nguyễn Du là người rành Phật pháp, chuyên trì tụng ‘’Kinh Kim Cương’’, thế mà sao cụ lại đặt quan niệm ‘’Trời xanh ghen ghét má hồng’’ và ‘’tài mệnh tương đố’’ cho tiền đề quyển ‘’ Đoạn Trường Tân Thanh’’? Đó đâu phải là tư tưởng nhà Phật. Đạo Phật đâu có tin ông Trời. Lại càng không tin chẳng có Trời nào hiện hữu có thể nắm giữ định mạng con người trong tay, nhất là cái thứ ông Trới bốc đồng, ganh ghét nhỏ nhen như vậy. Đạo Phật chủ trương con người hạnh phúc hay lầm than đau khổ là do thiện nghiệp và ác nghiệp tự chính mình gây ra. Vậy chị nghĩ sao về cái tiền đề này?

TK: Dường như hầu hết chúng ta đều bị ảnh hưởng các giáo sư dạy Việt văn ở nhà trường, họ thường nhồi vào đầu óc học sinh những công thức viết sẵn trong các sách giảng văn trung học, như: Triết lý trong Kiều là triết lý nhà Phật, hoặc truyện Kiều thể hiện Thuyết tài mệnh tương đố… Theo tôi, điều đó ai nói cũng được, vì nó chẳng đúng mà cũng chẳng sai. Bây giờ, mình thử nhìn Kiều dưới một góc cạnh khác, liên quan đến vấn đề tư tưởng chủ đạo trong một tác phẩm xem: Thật ra có nhiều cách trình bày tư tưởng, rất khác nhau, tùy tác giả, và tùy tác phẩm: Có trường hợp, như anh vừa nói, tức là tác giả dùng một triết thuyết nào đó, làm sợi dây chỉ nam cho tác phẩm của mình (thí dụ: Triết lý đạo Phậtlà tư tưởng chính trong bài Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du, hay Chủ nghiã dân tộc là tư tưởng chỉ đạo trong toàn bộ tác phẩm của Hồ Hữu Tường). Nhưng cũng không thiếu những trường hợp, trong cùng một tác phẩm, ta thấy tác giả đi từ triết lý này đến triết lý khác, đi từ hệ tư tưởng này để đến với một hệ tư tưởng hoàn toàn khác, hoặc tạo ra triết lý bằng những kinh nghiệm sống, khiểu: «những điều trông thấy mà đau đớn lòng».Truyện Kiều của Nguyễn Du gần gũi với trường hợp thứ ba.

Là một nghệ sĩ đã làm những câu thơ tình trác tuyệt như «hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình», Nguyễn Du phải là một người hết sức tự do, phóng khoáng trong tư tưởng. Và trong Kiều, cụ đã sử dụng tài tình nhiều loại hình tư tưởng, không riêng gì triết lý đạo Phật. Chỉ với một đoạn thơ ngắn dưới đây, trong đoạn kết truyện Kiều (không phải là tiền đề đâu anh), chúng ta thấy rõ ngay điều đó:

Có tài mà cậy chi tài

Chữa tài liền với chữ tai một vần

Đã mang lấy nghiệp vào thân

Cũng đừng trách lẫn Trời gần, Trời xa

Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài

Nhìn qua, chúng ta thấy ngay, khi viết: «Có tài mà cậy chi tài / Chữ tài liền với chữ tai một vần», là cụ dựa vào hai kinh nghiệm sống. Tiếp theo là: «Đã mang lấy nghiệp vào thân / Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa / Thiện căn ở tại lòng ta», « đúng là triết lý nhà Phật. Nhưng ngay sau đó, là một thứ đạo đức tu thân rất gần với đạo đức học của Kant «Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài», (nghiã là con người phải hành động theo lương tri, có tài mà không có lương tri thì cũng vứt đi). Nếu xét toàn bộ tác phẩm, Nguyễn Du đã mô tả được cuộc đời toàn diện và muôn mặt, đã vẽ chân dung đủ mọi hạng người, từ anh hùng (Từ Hải):«Râu hùm hàm én mày ngài/ Vai năm thước rộng, thân mười thước cao», đến chủ nhà chứa (Tú Bà): «Thoắt trông nhờn nhợt màu da / Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao»… mỗi người chỉ cần vài nét mà chính xác vô cùng, thì mới thấy Nguyễn Du dựa trên sự quan sát và kinh nghiệm sống một cách triệt để, hơn là trên lý thuyết triết học. Nói cách khác, triết lý trong tác phẩm của Nguyễn Du gồm thâu những mảnh triết lý «vụn» thu lượm trong đời sống hàng ngày. Đó là những kinh nghiệm mắt thấy tai nghe, không phải là những điều rút ra từ một hệ thống triết học cao xa trong kinh sách. Và chính ở chỗ đó mà Nguyễn Du lớn lao và gần gũi với chúng ta: trong sinh hoạt hành ngày, người Việt, cả lương lẫn giáo, thường nói đến Trời, chứ không nói đến Thượng Đế, hay Đức Phật. Người Việt thiếu óc trừu tượng, lại rất ít tinh thần hệ thống hoá, cho nên không có triết học hiểu theo nghĩa một hệ thống hoàn chỉnh. Những lại có rất nhiều kinh nghiệm sống thực tiễn, kiểu: cô này đẹp quá, chắc sau này sẽ khổ đây! Mỗi kinh nghiệm như vậy được thể hiện trong thơ (văn), dưới nhiều hình thức khác nhau:»Trời xanh quen thói mà hồng đánh ghen»(Kiều). «Khách má hồng nhiều nỗi truân truyên» (Chinh Phụ Ngâm), hay «Người đẹp vẫn thường hay chết yểu / Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai» (J. Leiba)… Anh thử đọc vài câu Kiều bắt được đâu đó tình cờ mà xem, anh sẽ thấy rất nhiều câu như thế: Về thân phận người đàn bà: «Đau đớn thay phận đàn bà», cụ viết hai lần, một lần trong Kiều, một lần trong Văn tế thập loại chúng sinh một câu thơ như thế có hiệu ứng tương tự như Simone de Beauvoir viết Deuxième sexe, như người đàn ông Do Thái đọc kinh sáng «Ơn Trên đã sinh con là đàn ông», hoặc như Platon cám ơn thần thánh, thứ nhất sinh ông là người tự do, không phải kẻ nô lệ, và thứ hai sinh ông là đàn ông. Về nỗi buồn:«Sầu đong càng lắc càng đầy». Về sự rủi ro của số phận: «Bắt phong trần phải phong trần / Cho thanh cao mới được phần thanh cao», Về người đẹp yểu tướng: «Rằng hồng nhan tự ngàn xưa / Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu». Về thân phận người đàn bà làm điếm: «Sống làm vợ khắp người ta / Hại thay thác xuống làm ma không chồng». Về cách ăn ở: «Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều». Về kinh nghiệm chồng chung:«Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai»,… đó toàn là những kinh nghiệm sống đúc kết lại. Nguyễn Du không những đã vẽ được cuộc đời toàn diện mà còn là nhà thơ bênh vực phụ nữ. Nguyễn Du đã lột được «dân tộc tính» của người Việt, cho nên mới gần gũi chúng ta đến thế. Hầu như mỗi tình huống rủi may trong đời sống, ta đều có thể tìm thấy một câu Kiều «ứng» vào «vận» mình, cho nên người ta mới hay bói Kiều, mà không bói Cung Oán, Chinh Phụ. Ví thế, Nguyễn Du đã viết được những «tình huống của con người hôm nay», tức là cái hiện sinh con người.

Tuy triết lý trong Kiều là những mảnh triết lý vụn, nhưng cũng đừng coi thường thứ triết lý vụn này: Bởi Socrate, Khổng Tử, cũng đã «xuống đường» trò chuyện với dân gian như thế; Phật Thích-Ca hay Chúa Jê-Su cũng đã từng giảng những kinh nghiệm sống «vụn» như vậy, để mọi người nghe đó mà rút ra bài học cho riêng mình. Triết học bắt đầu như vậy. Việc lập thuyết thành một hệ thống chặt chẽ là về sau, những đệ tử của các bậc hiền triết, có khi cả trăm năm sau mới viết thành sách, hệ thống hoá và thêm thắt vào.

Mà giả sử như Nguyễn Du có đi theo một chủ thuyết kinh điển để viết truyện Kiều (như triết lý đạo Phật), thì chưa chắc đã thu hút được người đọc. Bởi tác phẩm văn chương không có nhiệm vụ trực tiếp giáo dục con người hướng thượng như một triết thuyết tôn giáo.

7/ HTA: Ở cuốn ‘’Sóng Từ Trường’’, chị cho rằng Trần Vũ viết đa số truyện ngắn hư cấu, trừ truyện ngắn ‘’Cánh Đồng Mùa Gặt Khô’’. Theo tôi, truyện ngắn ‘’Biển Rợn San Hô’’ chẳng biết là thật hay hư cấu, nhưng đọc lên tôi cảm thấy như được tác giả đặt đối diện và đưa vào sống trong khung cảnh mà tác giả đã dàn dựng. Nhưng viết văn hiện thực đâu phải là chuyện quen tay hay thích thú của đương sự? Và đương sự đâu có chọn đường lối hiện thực cho cuộc bút trình của mình. Chị nghĩ sao đây? Và theo chị, văn chương của Trần Vũ lạnh lùng, tàn nhẫn và khốc liệt. Nhưng văn chương ấy cựa quậy trong nội giới sâu thẳm của độc giả ra sao? Nó đánh thức một điều gì trong đời sống chúng ta?

TK: Về truyện «Biển rợn san hô» mà anh nhắc tới, nằm trong cuốn «Ngôi nhà sau lưng văn miếu» là tác phẩm đầu của Trần Vũ thì tôi hoàn toàn đồng ý với anh: Vũ đã trình bày thực tế theo một lối viết tạm gọi là truyền thống. Bài viết của tôi về Trần Vũ, nhằm phân tích cuốn Cái chết sau quá khứ, tác phẩm thứ nhì, mà tôi cho rằng trong cuốn này, Vũ đã tạo được một thế giới mới, của riêng mình.

Tôi không có ý nói là Trần Vũ viết (hay phải viết) theo lối hiện thực đâu anh. Mà chỉ muốn tìm hiểu cách Trần Vũ trình bày hiện thực trong «Cái chết sau quá khứ». Bình thường nhà văn thường dựa trên một phần thực tế rồi hư cấu thêm, bất kỳ họ viết văn theo lối nào: truyền kỳ, cổ điển, lãng mạn, hiện thực… Khi phê bình Trần Vũ, tôi chú ý đến khía cạnh đặc biệt sau đây: trừ một vài truyện Vũ viết theo thể ký, tạm gọi là tâm ký, rất hay, như «Cánh đồng mùa gặt khô», người đọc có thể thấy khá rõ một hiện thực tạm gọi là «bình thường»; phần còn lại, thế giới của Trần Vũ không giống bất cứ một thế giới hư cấu nào: cái độc đáo của anh là ở chỗ đó. Hư cấu, nói nôm na là bịa nhưng phải bịa làm sao cho giống thực (Nguyễn Công Hoan đã diễn tả đơn giản mà rất đúng, như thế). Nhưng Trần Vũ lại không làm như thế, Vũ viết những câu như:

– «Cuống rún nắm trong tay mụ đỡ hiểu được số mệnh, vùng vẫy, cựa quậy, tháo thân, cuống rún như con rắn nước liều lĩnh kháng cự trước lúc bị chặt đầu»,

«đôi mắt u nhìn kỹ trong veo như đáy sông Thao».

Đó là những câu «bịa không giống thực», bởi chẳng có «cuống rún» nào «liều lĩnh» như vậy và sông Thao nổi tiếng nước đục, vì phù sa. Có thể cho đó là những hình ảnh siêu thực Vũ chịu ảnh hưởng của Marquez. Nhưng cũng không hoàn toàn là thế, tôi thấy Vũ đã hỗn hợp sách hình, phim chưởng, khoa học giả tưởng, hoạt hoạ và vi tính, để tạo ra một thế giới tout est possible (tất cả đều khả thể). Nhưng một lối viết «hoàn toàn bịa đặt» như thế, tại sao lại có sức lôi cuốn? Là bởi vì, nó sống động, đầy hình ảnh, và nhất là: nếu «cái thực tại» mà Trần Vũ mô tả không có thật, thì cái dã man, tàn ác, cái cuồng nhiệt, cái khốc liệt, trong con người, trong chiến tranh, trong vượt biển… có thực. Những cái ấy, Trần Vũ trải qua trong thời vị thành niên, rồi Vũ «refouler» nó, vùi đi, cất giấu trong vô thức, và bây giờ nó hiện lên trong văn chương. Tôi tạm dùng Freud để giải thích hiện tượng Trần Vũ như thế.

Còn như anh hỏi «văn chương ấy cựa quậy trong nội giới sâu thẳm của độc giả ra sao? Nó đánh thức một điều gì trong đời sống chúng ta?». Tôi nghĩ cái đó là tuỳ «gu» của người đọc. Có người tôn sùng Trần Vũ và có người không chịu được một dòng. Đối với những người thích nghệ thuật của Trần Vũ thì sẽ thấy đây là một nhà văn độc đáo, có óc tưởng tượng phong phú, phóng ra những hình ảnh siêu thực lạ lùng. Chất cực đoan trong chân dung các nhân vật lịch sử làm cho nhiều người khó chịu, cái dã man, tàn ác trong tác phẩm làm cho người ta sây sẩm mày mặt: Trần Vũ gây sốc trong lòng người đọc. Đọc Trần Vũ ta có cảm tưởng như bị dội gáo nước lạnh vào lương tâm. Và đó cũng là một cách vén màn bí mật để tìm sự thực trong đời sống, trong chiến tranh, khai quật những gian dối trong con người.

8/ HTA: Trong sự nghiệp thi ca của Hoàng Cầm (gồm thơ và kịch thơ) chỉ có bài thơ ‘’Lá Diêu Bông’’ là nổi tiếng nhất (một phần là nhờ Phạm Duy phổ nhạc). Độc giả tha hồ mà dựng cho nó cái ẩn dụ. Lá diêu bông trở thành một điều bí mật nghìn đời chưa chắc ai có thể khám phá và tìm gặp. Chính cái ẩn mật của nó tạo cho chúng ta một vòm trời tưởng tượng mênh mông. Nhưng theo chị, chị có nghĩ mỗi người tự tạo cho mình một ẩn dụ hay một thứ ngụ ngôn trong bài thơ ấy hay không?

TK: Tôi không chắc Lá Diêu Bông có phải là bài thơ «nổi tiếng nhất» của Hoàng Cầm hay không. Hoàng Cầm là một nhà thơ lớn, ông có nhiều bài rất nổi tiếng, Bên kia sông Đuống, Đêm liên hoan, là những bài thơ nổi tiếng trong thời kháng chiến chống Pháp, có tác động sâu xa trong lòng dân tộc. Tập Về Kinh Bắc là tập thơ quan trọng, khắc ghi tư tưởng bất khuất của Hoàng Cầm sau vụ án Nhân Văn, mặc dù con người Hoàng Cầm (yếu đuối hơn) đã có lúc cúi đầu nhận tội. Trong Về Kinh Bắc có bàiLá Diêu Bông. Nếu đọc Lá Diêu Bông trong bối cảnh Về Kinh Bắc, thì có thể hiểu Lá diêu bông là hình ảnh của Tự do mà nhà thơ không tìm thấy trong thế giới mà ông đang sống «Em đi trăm suối nghìn sông, nào tìm thấy lá diêu bông bao giờ». Nếu đặt trong bối cảnh đời sống muôn thủa, thì Lá diêu bông là hình ảnh của Hạnh phúc, con người suốt đời đi tìm hạnh phúc nhưng nào có thấy v.v… Vì thế, đúng như anh nói: khi đọc bài Lá diêu bôngmỗi người có thể tìm ra một thứ ẩn dụ phù hợp với ý mình, nhưng cũng chớ nên quên rằng, ý ấy phải hàm chứa trong ngôn ngữ của tác giả. Nhiều người (sau khi đọc sơ qua vài lý thuyết mới về việc đọc) lại hiểu lầm rằng «người đọc có toàn quyền sáng tạo ra những ý nghiã mới». Cái đó rất nguy hiểm, có thể dẫn đến việc nói hươu nói vượn, tán bịa ra những nghiã không có trong tác phẩm.

9/ HTA: Trong quyển ‘’Từ Man Nương Đến AK Và Những Tiểu Luận’’ hay quyển ‘’Marie Sến’’, bà Phạm thị Hoài ưa càu nhàu chì chiết và sẵn sàng lột mặt nạ ngụy trang cuộc đời. Nhưng nữ sĩ ấy lột biết bao giờ cho xong đây? Cuộc đời vốn oái oăm, hết lớp ngụy trang này thì khoác cả trăm nghìn lớp ngụy trang khác. Dưới ánh sáng Bát-nhã của nhà Phật thì cuộc đời là mộng ảo, là huyễn ảnh khoác trùng trùng lớp lớp ngụy trang. Đành rằng sứ mạng nhà văn là phải nhìn sâu vào cuộc sống, mọi hiện hữu, còn việc dàn xếp, khâu vá và chữa lành vết thương cuộc đời là dành cho các tôn giáo, các nhà xã hội học. Nhưng tôi thấy nhà văn Vĩnh Hảo tuy công kích bọn giáo chủ ác ôn của các giáo phái mị dân, tuy bài xích bọn sư sải bên Phật giáo lỡ chân trượt qua tà kiến, tuy nhiên dù anh ta không giảng dạy độc giả theo kiểu ông thầy giảng luân lý trên bục giảng trong lớp học, nhưng văn chương của anh lóe lên một tia sáng tìm về cái chân thật, cái chân hạnh phúc nội tại. Riêng chị, chị thấy văn chương của Phạm thị Hoài của chúng ta có lóe lên một điều gì tích cực không?

TK: Nhưng lột biết bao giờ cho xong đây? Tôi thích nghi vấn ấy của anh, trong câu hỏi ấy đã có câu trả lời: Chẳng bao giờ «xong» cả, và đó là nguồn bất tận của văn chương. Nhà văn luôn luôn tra vấn cuộc đời, mỗi người đưa ra một chủ đề tra vấn, và tra vấn một cách khác nhau: Có người cả đời chỉ tra vấn có một vấn đề, có người mỗi tác phẩm viết về một chủ đề, có người trong cùng một tác phẩm khai thác nhiều chủ đề. Có người chẳng tra vấn gì cả, cũng là một thái độ văn chương. Tóm lại, mỗi nhà văn có một lối viết và một quan niệm nhân sinh khác nhau: Vĩnh Hảo khác Phạm Thị Hoài. Cái khác biệt ấy làm nên cá tính văn chương của mỗi người. Theo tôi, Phạm Thị Hoài không phải là nhà văn có khuynh hướng «từ bi hỉ xả» của nhà Phật. Cái hay ở Hoài, là đã tạo ra được một thế giới ngôn ngữ sắc bén, châm biếm, chua cay, để lột trần những hình thức ngụy trang tư tưởng, ngụy trang ngôn ngữ, ngụy trang đạo đức trong xã hội Việt Nam. Một xã hội -chưa thoát khỏi ảnh hưởng Nho giáo cuối mùa đã rơi vào chế độ toàn trị- bị thứ ngôn ngữ chính thức ngụy tạo chi phối: nói vậy mà không phải vậy. Hoài làm được việc ấy, anh có nghĩ rằng đó là một điều tích cực không?

10/ HTA: Nguyễn Huy Thiệp có phải là nhà văn tư tưởng không? Vậy tư tưởng gì mà anh dùng văn chương để anh minh họa và xiển dương? Cái sử quan của đương sự dưới mắt chị không phải là sửa đổi lịch sử để mang tiếng hiếp dâm lịch sử (violer l’histoire) như thiên hạ đã gán cho nhà văn tiểu thuyết kiếm hiệp Alexandre Dumas. Họ Nguyễn cũng không bôi bẩn lịch sử khi viết về Gia Long và Nguyễn Huệ. Theo tôi, họ Nguyễn dùng những nhân vật lịch sử như một công cụ (instrument) để trình bày và khai triển nhân sinh quan, cái nhìn đặc thù của mình đối với văn chương và nền móng tư duy của mình. Chị nghĩ sao về nhận định này?

TK: Nhà văn đích thực nào cũng có tư tưởng. Văn không tư tưởng bất thành văn. Tư tưởng của nhà văn tiềm ẩn trong chữ nghiã của họ. Nguyễn Huy Thiệp, có thể anh không ngờ, tôi cho là người có tư tưởng Phật Giáo uyên thâm. Điều mà anh vừa đề cập trong câu hỏi về Phạm Thị Hoài «Dưới ánh sáng Bát-nhã của nhà Phật thì cuộc đời là mộng ảo» rất hợp với Nguyễn Huy Thiệp, bởi Nguyễn mới là người cho đời là mộng ảo, tất cả đều phù du, sắc tức thị không không tức thị sắc (qua những lời đối thoại giữa các nhân vật, trong tiểu luận, và trong lúc Thiệp nói chuyện bình thường). Trong truyện ngắn Sang sông Nguyễn ngỏ cái ý này nhiều hơn những chỗ khác: nhà sư và kẻ cướp rồi cũng vậy thôi, tất cả đều là mộng ảo, thực hư, hư thực. Nhưng trongCon gái Thủy Thần, viết về Mẹ Cả, Nguyễn lại đề cao đức Mẹ, đề cao niềm tin thiên Thiên Chúa giáo: như trên tôi đã nói, một nhà văn có thể xử dụng nhiều loại hình tư tưởng trong sáng tạo, chứ không nhất thiết phải ở yên trong một dòng triết học hay một dòng tư tưởng đặc biệt nào.

Tôi đồng ý với anh là Nguyễn Huy Thiệp dùng nhân vật lịch sử để làm «việc riêng» của mình. Nguyễn không viết tiểu thuyết lịch sử như Alexandre Dumas, điều đó hiển nhiên. Trong xã hội miền Bắc, những chân dung lãnh tụ (như Lénin, Mao, Bác Hồ) được tô hồng sùng bái. Thiệp là người đầu tiên hạ bệ những chân dung đó bằng cách nhét vào miệng Nguyễn Huệ (anh hùng dân tộc, trong tâm cảm nhiều người, có vị trí tương đương Bác Hồ) những lời lẽ thô tục. Hoặc đưa ra một lúc 3 versions về chuyện Gia Long tìm vàng… Qua cách viết ấy, Nguyễn Huy Thiệp dùng «ám hiệu» để đánh thức đám quần chúng mê muội: anh hùng dân tộc cũng chỉ là người phàm, đừng thần thánh hoá. Lịch sử có nhiều versions, kẻ thắng có version (thoại) của kẻ thắng, và version đó chưa chắc đã là sự thật.

11/ HTA: Có phải cái trái cựa trong gia đình ông tướng Thuấn trong tác phẩm ‘’Tướng Về Hưu’’ của Nguyễn Huy Thiệp làm nên giá trị nhân bản của tác phẩm này. Cái khôi hài của văn chương đương sự qua cái Vi và ông Bổng đen gấp trăm lần hơn cái khôi hài trong bộ ‘’Nho Lâm Ngoại Sử’’ của Ngô Kính Tử, chị có đồng ý không?

TK: Tôi chưa đọc Nho Lâm Ngoại Sử của Ngô Kính Tử nên không thể so sánh. Riêng truyện Tướng về hưu thì tôi hoàn toàn đồng ý với anh: giá trị nhân bản của tác phẩm nằm ở chỗ Nguyễn Huy Thiệp đã diễn tả được cả hai khía cạnh tối-sáng trong con người. Hơn thế nữa, Nguyễn đã diễn tả được con người toàn diện (l’homme totale). Dưới chế độ xã hội mà mọi người được giáo dục trong sự phân chia rạch ròi thiện-ác, thậm chí: ta: thiện, địch: ác; Nguyễn là người đầu tiên dám đả động đến cái bất nhân trong nhân tính, tức là cái ác trong con người.

Hầu như tất cả những nhân vật trong Tướng về hưu đều chứa những bi kịch, đều có hai mặt, từ người cha, ông Thuấn, đến người con, tên Thuần, (Thuấn-Thuần, đồng âm), cha truyền con nối, giống hệt như nhau: một thứ chủ gia đình bù nhìn, xếp bù nhìn… Quyền hành thực sự và toan tính thông minh ở trong tay người đàn bà: Thủy, vợ Thuần. Ông tướng về hưu, tưởng bề ngoài oai phong, nhưng bên trong là cả một khối bất lực. Tưởng ông là cột trụ gia đình, thực ra cả đời ông thoát ly gia đình. Tưởng ông lèo lái quốc gia, sự thực ông chỉ rành việc chôn người… Không những Nguyễn đã đảo lộn trật tự lâu đời nhất của xã hội: quyền phụ hệ chuyển sang mẫu hệ; mà còn đạp đổ cả truyền thống vững bền nhất trong lịch sử như huyền thoại anh hùng; rồi đạp đổ luôn huyền thoại thời nay là ca ngợi chiến tranh: Tất cả đều xây dựng trên gian dối của ngôn ngữ. Nguyễn dùng tiếng nói ngây thơ (nhưng ranh mãnh) của đứa nhỏ như cái Vi, hoặc bỗ bã như ông Bổng, để lật ngửa sự thật, dưới hình thức khôi hài sâu sắc, cười mà khóc, đúng như anh đã thấy.

12/ HTA: Bước qua ‘’Sóng Từ Trường II, ở chương ‘’Linh Sơn’’ viết về văn chương của Cao Hành Kiện, chị có nhắc tới quan niệm về phái tính trong quyển ‘’Le deuxième sexe’’ của nữ sĩ Simone de Beauvoir. Họ Cao, bà Simone de Beauvoir và chị không xem phụ nữ như là một tha nhân của nam giới. Tôi có nhớ mang máng bà Simone de Beauvoir nói một câu trặc trẹo như sau: ‘’Đàn bà khi sinh ra không phải là đàn bà, chính xã hội làm cho họ trở thành đàn bà’’. Nhưng tôi nghĩ đàn bà cận đại và hiện đại chỉ thích được tự do và bình đằng với đàn ông, luôn cả được hưởng thụ theo tiếng gọi của thân xác, theo sự đưa đẩy của ảo cảm dục tính (fantasme) thôi. Nhưng họ vẫn muốn giữ cái sở thích riêng của họ, những rung cảm riêng của họ: được ăn diện lộng lẫy để mê hoặc đàn ông, thích mình làm đối tượng (objet) để cho đàn ông đóng vai chủ thể (sujet) ngắm nghía và chiêm ngưỡng cái đẹp của dung nhan họ. Và họ thích được phái mạnh thèm muốn thân xác của họ. Họ thích được phái mạnh cưng chiều ve vuốt họ và họ thích giữ nguyên vẹn cái mầm mống thiên chức làm mẹ (fibres maternelles). Hầu hết 99% đàn bà đều có những cái đối lập với đàn ông như thế. Chị nghĩ sao?

TK: Có hai điều nên xác định trước khi đi xa hơn:

– Về chữ L’ Autre của Simone de Beauvoir, người ta hay dịch làtha nhân; theo tôi dịch như thế chưa lột được đầy đủ ý nghiã.Tha nhân, chỉ có nghiã là người khác (không ngụ ý xấu), còn chữL’Autre, Beauvoir dùng để chỉ địa vị thấp kém của người đàn bà trong xã hội phụ quyền từ xưa đến nay. Người đàn ông luôn luôn ở vị trí chủ thể và người phụ nữ bị coi là L’Autre, một cách phân biệt đối xử, kiểu «bọn đàn bà con gái», «bọn đàn bà con nít», giống như người da đen «bọn mọi». Chữ L’Autre của de Beauvoir theo tôi nên dịch là Kẻ kia (trong nghĩa: con kia, con đó, nó). Bà phân tích tại sao người đàn bà -không phải là một thành phần thiểu số như người da đen (bị kỳ thị khinh bỉ) hay người Do Thái (bị ganh ghét) mà đông bằng nửa nhân loại -lại có một vị trí thấp kém, vị trí của L’Autre, một thứ công dân hạng nhì trong xã hội như vậy.

– Câu De Beauvoir mở đầu cho quyển hai cuốn Le deuxième sexe (Phái yếu, Phái thứ nhì) nguyên văn như sau:»On ne nait pas femme: on le devient. Aucun destin biologique, psychique, économique ne définit la figure que rêvet au sein de la société la femelle humaine; c’est l’ensemble de la civilisation qui élabore ce produit intermédiaire entre le mâle et le castrat qu’on qualifie de féminin. Seule la médiation d’autrui peut constituer un individu comme un Autre». (Người ta không sinh ra là đàn bà, mà trở thành đàn bà. Không một hệ quả sinh học, tâm linh, kinh tế nào giải thích được bộ mặt mà xã hội khoác lên cho giống cái của con người; chính toàn bộ nền văn minh đã tạo nên cái sản phẩm -gọi là phụ nữ- trung gian giữa giống đực và giống (bị) hoạn. Chỉ một môi giới ngoại lai mới có thể tạo nên một loại cá thể là Kẻ kia như thế).

Beauvoir dùng toàn bộ tác phẩm để chứng minh tiền đề này: con người sinh ra, bình đẳng nam nữ, nhưng chính giáo dục gia đình và xã hội đã gây ra sự bất bình đẳng giữa nam và nữ.

Ngay khi còn trẻ, sống trong gia đình, Beauvoir đã sớm nhận ra sự bất bình đẳng này qua số phận của người mẹ, của người bạn gái bất hạnh, và của chính mình: Bà học giỏi, đỗ vào trường Normale (trường nổi tiếng khó nhất nước Pháp), thi concours thạc sĩ (agrégé) triết học ra trường, đỗ đầu, đồng hạng với Jean-Paul Sartre; về nhà ông bố bảo: «Tôi vẫn biết cô có bộ óc đàn ông». Và ông còn nói với bà mẹ: «Con này đã xấu lại học giỏi như thế thì làm sao mà gả chồng». Những lời nói ấy, bộc lộ thành kiến đã in sâu trong đầu óc người cha: cứ giỏi thì phải là đàn ông, và con gái thì chỉ có mục đích là gả chồng. Người cha bảo thủ đầy quyền thế. Người mẹ nen nét lo sợ, không dám làm gì trừ cam chịu. Người bạn thân, bị mẹ ép gả chồng giàu, sinh bệnh rồi chết. Qua kinh nghiệm bản thân như thế, Beauvoir chống lại áp lực của cha mẹ, áp lực xã hội, để sống đời tự do như ý muốn: Bà thoát ly gia đình, sống với Sartre. Cặp Sartre-Beauvoir áp dụng chế độ tự do trong đời sống lứa đôi: họ sống chung nhưng cả hai đều tự do và bình đẳng với nhau về mặt tư tưởng cũng như thân xác, chống lại tất cả những hình thức đạo đức giả tạo trong xã hội trưởng giả.

Về mặt tính dục, Beauvoir chủ trương ngang bằng sổ ngay với người đàn ông, nghĩa là không chấp nhận tình trạng trai năm bẩy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng. Nếu Sartre tự do đi với những người đàn bà khác, thì Beauvoir cũng có đời sống tính dục riêng. Họ không dấu diếm gì nhau, tức là họ công khai, không vụng trộm.

Khi cuốn Deuxième Sexe ra đời (1949), bà trở thành cái đích để người ta tấn công. Các bà mệnh phụ kiêu hãnh khoác tay chồng đi dạo phố, gặp Simone, đổi vỉa hè, khinh bỉ; có bà mẹ còn xông vào hành hung, bởi con gái bà đã bị «đầu độc» vì đọc Deuxième Sexe, không chịu cho cha mẹ đặt đâu ngồi đấy nữa.

Tư tưởng của Simone de Beauvoir đã dẫn đầu cho phong trào «giải phóng» phụ nữ trên thế giới. Nói đúng hơn, nhờ triết thuyết của Beauvoir mà cả một thế hệ phụ nữ, đã tự giải phóng mình ra khỏi những kiềm toả của gia đình và xã hội.

Tác phẩm của Simone de Beauvoir là tác phẩm đầu tiên và duy nhất đi sâu vào điều kiện sống phổ quát của phụ nữ từ A đến Z, nghĩa là từ lúc sinh đến lúc chết, dọc theo lịch sử và văn hoá nhân loại từ thượng cổ đến ngày nay, với cái nhìn của người trong cuộc, bằng lối tiếp cận triết học và khoa học, đi từ nguồn: Con người từ lúc còn trong thai đã được cấu tạo như thế nào. Khảo sát những yếu tố sinh học và tâm linh, trong con người (nam và nữ). Khảo sát những huyền thoại và dữ kiện văn hóa. Về sinh học, dựa trên thống kê khoa học (bà trình bày nhưng bác bỏ luận điệu này) thì người đàn bà có tỷ số cân não (trọng lượng bộ óc/trọng lượng thân thể) tương đương với đàn ông. Về mặt cơ bắp, người đàn bà yếu hơn, không chạy nhanh bằng đàn ông, không làm được những việc quá sức nặng nhọc, nhưng sức mạnh không tạo ra sự bất bình đẳng vì người mẹ và người vợ trong gia đình có một uy tín khác (cái oai) với chồng con. Nguyên do bất bình đẳng đến tự bên ngoài: tự nền văn minh, và Beauvoir đã duyệt lại nguồn gốc lịch sử văn minh nhân loại, để tìm hiểu con người đã làm gì với thể loại giống cái của mình, để biến người đàn bà thành l’Autre, Kẻ kia.

Trả lời câu hỏi của anh, tôi lại xin dùng ý của Simone de Beauvoir để giải thích vấn đề này: Khi khảo sát những đứa nhỏ, từ lúc mới sinh đến 4, 5 tuổi, bà nhận thấy trai gái đều giống nhau: tức là đều ghen với em, đều muốn «quyến rũ» mẹ để được yêu chiều, nựng nịu. Con trai đôi khi còn quấn mẹ hơn, còn mau nước mắt hơn con gái. (Beauvoir đi sâu vào sự phát triển dục tính, để trình bày và phê bình cái mà Freud gọi là mặc cảm Oedipe ở con trai và mặc cảm Electre nơi con gái… nhưng ở đây chúng ta không thể nói kỹ được). Vậy, trước hết, nếu chỉ nhận xét bề mặt thôi, thì cũng thấy cái khả năng quyến rũ (pouvoir de séduction), không chỉ là đặc sản của phụ nữ. Mà ngay từ lúc sinh ra, cả trai lẫn gái đều tận dụng cái khả năng đặc biệt này, trước tiên là để «quyến rũ» mẹ mình. Nhưng giáo dục gia đình đã cấm đứa bé trai, đến một tuổi nào đó, không còn được quấn mẹ nữa, không được khóc nhè như con gái nữa: mình là đàn ông mà! Cũng cái giáo dục ấy đã triệt tiêu khả năng phát triển tri thức nơi con gái: không cho con gái đi học, hoặc nếu đi học có học dốt cũng chả sao, mai mốt lấy chồng là xong chuyện, trong khi con trai bắt buộc phải học giỏi, sau này còn gánh vác gia đình. Chưa hết, để nhử người con gái vào tròng, người ta còn tạo ra những «thiên chức» làm mẹ, làm vợ. Dậy con gái biết trang điểm, lời ăn tiếng nói phải cho dịu dàng, đừng làm mất «nữ tính» để dễ lấy chồng. Cái «nữ tính» ấy cũng rất nhân tạo: con gái không được đánh nhau (như con trai), phải học may vá thêu thùa, trong khi không cho con trai nhúng vào chuyện bếp núc, việc hạ tiện. Làm gì có chuyện «thiên chức làm mẹ»! Trong xã hội Tây phương ngày nay (tương đối bình đẳng), nhiều người đàn ông còn giỏi hơn vợ trong việc tã lót, trông nom con cái. Tóm lại, lối giáo dục con gái, vừa buông thả (học làm gì), vừa đe nẹt (quyền huynh thế phụ) vừa phỉnh nịnh (đừng làm mất nữ tính, phải giữ thiên chức của người phụ nữ) đã tạo nên người đàn bà, một thực thể mà Beauvoir gọi là trung gian giữa đàn ông và kẻ bị thiến (mất khả năng làm người).

Được giáo dục trong điều kiện như thế, người phụ nữ, dễ dàng biến thành một thứ femme-objet, phụ nữ-vật thể, vô trách nhiệm, tự thoả mãn và hãnh diện về việc sống dựa vào chồng.

Beauvoir cho rằng chỉ có thể chấm dứt tình trạng nam nữ bất bình đẳng, nếu người phụ nữ tự ý thức được quyền lợi và trách nhiệm của mình, đạp đổ những phỉnh lừa và áp đặt trong giáo dục gia đình và xã hội. Một khi đã ý thức được, thì chính người phụ nữ sẽ tìm cách tháo gỡ, tự lập, không hạ mình đã trở thành femme-objet, được người đàn ông cung phụng, nhưng đồng thời cũng trở thành nô lệ.

Ngày nay, trong xã hội tân tiến, bình đằng, đàn ông cũng đã trở thành vật thể homme-objet. Nếu để ý nhìn truyền hình mỗi ngày, anh sẽ thấy số người mẫu làm dịch vụ quảng cáo, nam cũng đông như nữ. Hoặc nhiều người đàn ông cũng không ngần ngại dùng khả năng quyến rũ (tức là bán thân) để kiếm sống. Ở Bắc Âu, nhiều người đàn ông (lương thấp hơn vợ) sẵn sàng ở nhà làm nội tướng (homme au foyer).

Cũng xin nói thêm một điểm nữa là tác phẩm của Simone de Beauvoir không hề đặt trọng tâm trên sự khai thác tự do tính dục như một nguyên tắc bênh vực nữ quyền. Không phải vậy. Nữ quyền chính là nhân quyền. Đòi hỏi nữ quyền là đòi hỏi sự thể hiện nhân quyền cho một nửa nhân loại. Vấn đề Simone de Beauvoir đưa ra rộng lớn và phổ quát: đó là sự tự do và bình đẳng toàn diện trong đời sống con người cả nam lẫn nữ.

13/ HTA: Linh Sơn là núi Linh Thứu (Linh quiu theo phiên âm) là một hòn núi chỉ có trong ‘’Kinh Lăng Già’’ mà cái phàm nhãn của con người không thể thấy được. Chị đã viết: ‘’Linh Sơn là một cuộc đi, đi đến nát bàn hay đi về cõi chết. Linh Sơn còn là khởi điểm của tìm kiếm, tìm kiếm bản thân hay tìm kiếm sự thật?’’. Nhưng sau đó, chị cho biết Cao văn gia trải qua 12.000 cây số để đi tìm sự thật (tức là chân tâm, tức là toàn giác, tức là sự thật tuyệt đối đầu tiên và cuối cùng). Nhưng theo tinh thần then chốt của Kinh Đại Thừa thì sự thật đã ở sẵn nơi mọi cát thể, ta cần gì phải tìm nó ở ngoài ta mà phải trải qua vạn dặm trên đường hành hương? Mà dù có lặn lội như thế, chắc chắn cũng không bao giờ tìm gặp (chứng ngộ đúng hơn) sự thật. Chỉ vì vọng thức che mờ nên chúng ta không nhận sự thật đó thôi. Chị nghĩ sao về tư tưởng của Cao Hành Kiện? Ông ta có phải là một kẻ am hiệu Phật pháp hay chịu ảnh hưởng hệ thống triết học nào khác?

TK: Như trên tôi đã nói: nhà văn không nhất thiết phải dùng toàn bộ một hệ thống triết học trong một tác phẩm. Mà tư tưởng của họ thường bay nhảy, theo nhu cầu của nhân vật, của văn cảnh. Theo tôi Cao Hành Kiện là một nhà văn Trung hoa thầm nhuần Tây học, ông chịu ảnh hương của triết học hiện sinh, ảnh hưởng lối viết kịch phi lý của Beckett, Ionesco, dùng nhiều kỹ thuật Tây phương trong cách bài bố văn bản, cũng như cách điều tra sự thực. Linh Sơn chỉ là một cái tên, một địa điểm, có ý nghiã biểu tượng, luôn luôn thay đổi tùy theo văn cảnh, khi thì là cõi niết bàn, khi là chân lý, khi là mục đích, khi là cứu cánh, khi là sự thực… Cao Hành Kiện đã sống ba chìm bảy nổi trong xã hội Cộng sản, có lúc được trọng dụng, khi bị sa thải, và ông đã có thời gian mười năm đi «trường chinh» 12.000 cây số. Linh Sơn là cuốn tiểu thuyết hư cấu từ kinh nghiệm đi và sống của tác giả trong cuộc «trường chinh» này, nói lên sự cô đơn của con người trên chính đất nước mình. Đọc Linh Sơn thấy cái hoang mang vô bờ của một kẻ đi tìm ánh sáng mà không biết bao giờ mới ra khỏi đường hầm: Trong bối cảnh ấy, cũng có thể hiểu Linh Sơn là Tự do, là cái đích vượt thoát của con người bị vây khổn. Nhưng cũng có thể hiểu Linh Sơn là cái đỉnh nghệ thuật mà nhà văn muốn đạt, và cũng có thể hiểu Linh Sơn là hạnh phúc mà con người tìm kiếm. Linh Sơn cũng có thể là cái núi trong tâm hồn, như lời Cao Hành Kiện, tức là tất cả trở ngại đều ở trong tâm mình mà ra, vậy vượt Linh Sơn chỉ là vượt mình. Nhưng Linh Sơn cũng có thể là hư vô, không có gì hết, trong triết học hiện sinh. Mà cũng có thể là niết bàn, là tới bến, trong triết học đông phương. Nếu hiểu Linh Sơn là cõi niết bàn, thì đúng là Phật dậy: niết bàn ở trong ta, hạnh phúc cũng ở trong ta. Tuy vậy, phần đông đều muốn đến niết bàn, nhưng mấy ai biết được niết bàn ở đâu? Ai đã dám chắc là niết bàn ở trong ta? Dù có đọc qua Phật pháp? Linh Sơn là hành trình tìm, mà chưa thấy ấy, và chính ở chỗ chưa thấy, nó mới lung linh, quyến rũ, nếu đã biết rõ, đã thấy rõ thì có lẽ Cao Hành Kiện chưa chắc đã viết được Linh Sơn đâu anh ạ.

14/ HTA: Theo tôi, Cung Trầm Tưởng trước 1975 làm thơ tình yêu. Khi ra hải ngoại, ông làm thơ hiện thực, thán oán cảnh lao tù qua tập thơ ‘’Lời Viết Hai Tay’’. Trong lối thơ hiện thực, ông ta chỉ đổi mới ngôn ngữ để khỏi trùng lẫn với thơ của hàng trăm tác giả cùng cảnh ngộ cùng theo đường lối hiện thực như ông. Nhưng bao năm qua rồi, vết thương lịch sử có lành lặn phần nào không? Thái độ và hướng nhắm tới trong thơ của ông có phải để ông banh rộng vết thương đã bắt đầu khép miệng không? Hay là ông muốn lưu lại một dấu vết gì, một biến động gì cho hậu thế, trong khi bạn thơ đồng hành đồng cảnh của ông khai thác đề tài này bấy bầy rồi? Ông có đi muộn và đến cũng muộn không?

TK: Tôi thích thơ tình Cung Trầm Tưởng hồi trẻ, những bài làm ở Pháp, và đã viết về thơ tình Cung Trầm Tưởng. Tôi chưa có thì giờ nghiên cứu thơ tù của Cung Trầm Tưởng, nên không dám có ý kiến ngay bây giờ. Chỉ xin trả lời anh thế này: Theo tôi, trong văn chương, không có gì sớm, mà cũng chẳng có gì muộn cả; chẳng có đề tài mới mà cũng chẳng có đề tài cũ, chỉ có hay hoặc dở mà thôi. Có thể có hàng trăm người đã làm thơ tù trước Cung Trầm Tưởng, nhưng nếu thơ tù của anh Tưởng hay thì người ta vẫn đọc.

Còn vấn đề vết thương chiến tranh, có người quên, có người nhớ. Việc vết thương có «lành» hay không là tùy quan điểm của mỗi người: người nào muốn làm lành vết thương thì viết văn, làm thơ, theo chiều hướng hoà giải; người nào muốn xé to vấn đề thì lại sáng tác thơ văn theo chiều hướng xé to. Điều quan trọng là những gì mình viết có giá trị hay không: Nếu là bài tiểu luận thì phải có sức thuyết phục; nếu là văn, thơ thì phải có nghệ thuật; như vậy thì chắc chắn nó sẽ đứng vững với thời gian.

15/ HTA: Qua hai câu thơ: ‘’Trên dốc thời gian hòn đá tuột/ Lăn dài kinh động cả hư vô’’, chị đã giao cảm việc Tô Thùy Yên tự cho mình như hòn đá tuột dốc theo vận nước nổi trôi để so sánh tiền thân của Giả Bảo Ngọc trong pho ‘’Hồng Lâu Mộng’’ của Tào Tuyết Cần. Chàng họ Giả vốn là hòn đá ở tiền kiếp. Nhưng hòn đá tiền kiếp kia tủi hờn thân phận vô dụng của mình vì bà Nữ Oa không đem nó vá trời như các hòn đá khác nên nó thác sinh xuống đất Kim Lăng nước Tàu để đòi sự hiện hữu và sự ứng dụng của mình. Nó chủ động. Còn hòn đá Tô Thùy Yên bị thời cuộc và vận nước bắt nó hóa thân thì lại ở vào thế bị động, bị cưỡng ép, do bạo lực bắt nó lăn tuột giốc.Như vậy cái định mạng oan khiên (la fatalité) trong thơ Tô Thùy Yên và cái chủ động của tiền thân Giả Bảo Ngọc tuy trái ngược nhau nhưng có điểm chung nào trong cõi văn chương không?

TK: Khi đọc một tác giả, tôi luôn luôn chú ý đến những điểm mà tôi cho là mấu chốt trong tư tưởng của tác giả. Đọc thơ Tô Thùy Yên, tôi tìm thấy bốn yếu tố chính, đã xây dựng nên thành trì thơ anh: đó là thời gian, sự tồn tại, nỗi cô đơn và đá. Mặt khác, Tô Thùy Yên cũng là một trong những nhà thơ thuộc dòng cách tân, cùng với Thanh Tâm Tuyền, trong nhóm Sáng Tạo. Nhưng nếu Thanh Tâm Tuyền (thời ấy) cách tân 100%, tức là dứt khoát cắt đứt với thơ cổ điển, thì Tô Thùy Yên là cầu nối giữa cổ điển và hiện đại: Thơ Tô Thùy Yên, tuy dùng rất nhiều chữ của triết học hiện sinh như hư vô, thời gian, tồn tại… dùng nhiều hình ảnh siêu thục như: kỷ niệm buông tay rú ngất chìm… nhưng thơ anh Tô lại có không khí u uẩn Đông phương: «Nao nao mường tượng bóng mình / Mịt mùng cõi tới, u minh tiếng rền», «Chim đã bay quanh từ vạn cổ / Gió thật xưa, mây thật già nua», một không khí rất Đường thi, và đặc biệt anh suy nghĩ về đá: «Trên dốc thời gian, hòn đá tuột», «Tiếng kêu đá lở long thiên cổ». Đá trong thơ Tô Thùy Yên, có âm hưởng đông phương, là đá ta, chứ không phải đá tây, như lệ đá xanh của Thanh Tâm Tuyền hay tuổi đá buồn của Trịnh Công Sơn. Vì vậy tôi liên hệ đá của Tô Thùy Yên với nguồn đá trong truyền thuyết đông phương là bà Nữ Oa đội đá vá trời, kế đến Giả Bảo Ngọc, trong truyện của Tào Tuyết Cần, có tiền thân là đá. Nếu đá của Tô Thùy Yên có nguồn từ đông, thì cái không gian và thời gian trong thơ anh lại khởi đi từ triết học Heidegger. Và đó là cái mấu chốt sâu xa tôi tìm thấy trong thơ Tô Thùy Yên: giao cầu giữa đông và tây, tạo ra một mô típ «cô đơn hành giả» trong thơ Việt. Đá của Tào Tuyết Cần và Tô Thùy Yên giống nhau ở chỗ cùng phát xuất từ gốc huyền thoại mẹ Nữ Oa; nhưng khác nhau vì Tô Thùy Yên dùng đá để nói về nỗi đau, nỗi bơ vơ hiện sinh nơi con người, trong khi Tào Tuyết Cần hướng về tiền thân của con người phát xuất từ trời, từ đá.

16/ HTA: Tôi có cảm tưởng Khánh Trường hung hăng trong lúc cầm bút. Nhưng anh ta chỉ chửi thề chứ không gào thét, chỉ hằn học muốn tát vả cuộc đời và xã hội xáo trộn ly tán vì bạo lực và chiến tranh chứ không gây bao giờ để đầu óc mình bị bạo hành manh nha. Các nhân vật của anh làm tình hùng hục và dữ dội theo kiểu dã thú (amour sauvage), chứ không giở trò bạo dâm (le sadisme) đổ máu… Có phải Khánh Trường chỉ hung hăng trong khuôn khổ chứ không để cái hung hăng lọt ra ngoài xã hội, ra ngoài cuộc đời không? Và nếu tôi không lầm do nhận định theo kiểu ‘’ý tại ngôn ngoại’’: anh ấy thương xót cuộc đời theo kiểu Lỗ Tấn thương xót A Q. dù Lỗ văn gia vẽ chân dung A Q. theo lối biếm họa trong văn chương. Chị có ý kiến gì?

TK: Về chiến tranh Việt Nam có rất nhiều người viết, nhưng theo tôi, Khánh Trường và Cao Xuân Huy là hai ngòi bút mạnh bạo nhất từ 1975 đến ngày nay. Cả hai đều nói thẳng, nói thực, phanh phui những điều mà người khác còn e dè hoặc giấu diếm. Theo tôi, có ba yếu tố khơi dậy ngòi bút trong Khánh Trường: bản năng, nổi loạn và cảm tính. Khánh Trưòng «nổi loạn» trước những khăn đai áo mão vái nhau, trước những đạo đức giả của người cùng thời. Khánh Trường «bản năng» khi anh viết về sự tàn bạo phi nhân của chiến tranh, khi viết về sexe. Và Khánh Trưòng đầy thương cảm, khi viết về Mai Thảo, về những bạn văn mà anh yêu mến. Khánh Trường không giống Lỗ Tấn, bởi hai bản chất hoàn toàn khác nhau, hai văn phong khác nhau: Lỗ Tấn thâm trầm, sâu sắc, và trí thức, ông đứng trên nhân vật, ông dùng thiên tài của mình để vẽ nên một nhân vật bất hủ như AQ. Trong khi Khánh Trưòng nhập vào nhân vật của mình, thường là những người lính. Truyện của Khánh Trường là chính Khánh Trường, một nhân vật phản diện: thô bạo, ăn tục nói phét, chửi thề bạt mạng. Và anh đã thành công trong việc đem xương tủy của mình để tạo nên nhân vật. Đọc Khánh Trường, người ta có thể khó chịu, nhưng không khỏi thấy sự thật trào máu một cách xót xa cay đắng.

17/ HTA: Qua truyện ‘’Euridice’’ (Tình Xưa) của Nguyễn Tiến Lãng, qua tích ‘’Trầu Cau’’ mà Phạm Duy Khiêm đưa vào quyển ‘’Les Légendes des Terres Sereines’’, chị đã hướng dẫn độc giả tìm cái ẩn dụ trong hai truyện ấy. Vậy thừa thắng xông lên, chị có ý định viết một cuốn nói về ẩn dụ của những câu chuyện cổ tích của nước nhà không? Theo tôi biết, những câu chuyện thần thoại và truyền kỳ của Hy Lạp và La Mã đều có ẩn dụ, đều có cái đáy thẳm dung chưa nhiều tư tưởng triết học lẫn nhân sinh quan. Cuốn ‘’Mythologie et Légendes Grecques et Latines’’ được người Tây phương xem như cái nôi nghệ thuật của họ, có phải? Như vậy các cụ ta khi sáng ta các truyện cổ tích lẽ nào chỉ kể truyện suông trơn hay sao?

TK: Không anh ạ. Nhân viết về Nguyễn Tiến Lãng và Phạm Duy Khiêm, tôi thử phân tích và tìm hiểu những gì không hiển nhiên đằng sau văn bản «cổ tích» của hai nhà văn này mà thôi, chứ tôi không có ý định viết về ẩn dụ trong các truyện cổ tích Việt Nam, vì đó là một đề tài rất rộng, cần phải thông bác nhiều lãnh vực văn hoá, ngoài ngữ học, triết học, dân tộc học, còn phải biết sâu về Hán học và Việt học nữa.

Tôi kể anh nghe chuyện này, để thấy là vấn đề biểu tượng (mà anh gọi là ẩn dụ) trong văn chương, trong đời sống, không đơn giản chút nào. Khi khảo sát về mộng, Freud cho rằng: muốn đoán mộng thì phải hiểu những biểu tượng trong mộng, và muốn hiểu những biểu tượng trong mộng (ta thường gọi là điềm), thì phải tìm ý nghiã trong huyền thoại học, trong ngôn ngữ học, trong nhân chủng học, trong tâm lý dân tộc, trong khoa học tôn giáo… thì sẽ thấy. Ấy mới chỉ là để đoán những «điềm» trong mộng thôi, mà đã khó khăn như thế, cho nên phải biết rằng những vị quân sư ngày trước, như Khổng Minh, muốn đoán (tương đối) trúng một điềm mằm mơ, trước khi ra trận, hay của vua, họ đã phải thông bác như thế nào. Bởi vì, ngôn ngữ trong mộng không giống như ngôn ngữ thường: thí dụ anh nằm mơ thấy một căn phòng thì đó là biểu tượng của đàn bà (điều này làm cho ta hiểu tại sao trong thơ cổ điển hay nói đến khuê phòng (phòng đàn bà) mà không nói đến phòng đàn ông). Hoặc anh nằm mộng thấy cái nhà, thì đó là biểu tượng của người, mà các cửa sổ, cửa ra vào là những bộ phận có lỗ hổng nhập vào thân thể (điều này có thể giải thích tại sao người ta gọi chồng hay vợ là nhà tôi). Hoặc thời cổ xưa người ta gọi việc làm tình là travail (điều này có thể giải thích tại sao trong tiếng Nam (bình dân), làm tình được gọi là mần hay mần ăn). Nhưng còn một điểm nữa rất lý thú: chữ «trèo» (monter) hay leo thang, là biểu tượng chính của hành động làm tình. Như thế, ta hiểu ngay ý nghiã «sexy» của câu ca dao «Trèo lên cây bưởi hái hoa / Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân»mà xưa nay mình cứ giải thích «tào lao» rằng câu ca dao ấy vô nghiã, hoặc trèo lên trèo xuống là thái độ ngẩn ngơ của anh chàng thất tình.

Chính Freud cũng nhận rằng «Điạ hạt biểu tượng là một điạ hạt mênh mông mà biểu tượng trong mơ chỉ là một khoảng nhỏ tý». Như vậy để thấy rõ: biểu tượng trong huyền thoại và cổ tích dân gian của mỗi dân tộc rộng lớn như thế nào (truyền kỳ Hy Lạp đối với văn hoá Tây phương là một trường hợp). Và đúng như anh nhận xét: mỗi truyện cổ đều có rất nhiều hàm ý, vì thế chúng mới được truyền tụng đến ngày nay, khiến người sau cứ dựa vào đó mà viết đi, viết lại hết đời nay sang đời khác. Đó là cái nền chung của văn hoá nhân loại.

18/ HTA: Ở cuốn ‘’Sóng Từ Trường III ‘’và ở chương ‘’Hồ Hữu Tường Và Chủ Nghĩa Dân Tộc’’, chị có cho rằng qua bài ‘’Tiếng Gọi Đàn’’, Hồ Hữu Tường chủ trương rèn luyện con người bằng văn hóa để trở thành Người (chữ N viết hoa). Người ở đây tương tự như Siêu nhân (le surhomme) của Nietzsche. Nhưng hình như muốn có siêu nhân xuất hiện và tồn tại, ông Nietzsche đòi phải tiêu diệt những người thất bại, yếu kém, trái hẳn tinh thần Bác Ái của đấng Christ. Cho nên Nietzsche lại hô hào nên bài trừ Phúc Âm, bài trừ những gì Giáo Hội dẫn dạy. Như thế lối so sánh của chị nhắm vào điều gì?

TK: Khi đọc cuốn Tương lai văn hóa Việt nam, tôi thấy Hồ Hữu Tường chịu ảnh hưởng tư tưởng siêu nhân của Nietzsche. Một mặt khác, tôi lại chắc ông cũng đã đọc Nietzsche, vì khi viết về Nguyễn An Ninh (Hồ rất hâm mộ Nguyễn An Ninh, coi Ninh như người anh, người thày) ông «khoe» Nguyễn An Ninh là người Việt Nam đầu tiên đọc Nietzsche.

Nietzsche được coi là «ông tổ» của triết học hiện sinh vô thần. Ông không tin vào Thượng đế. Đây cũng không phải là điều mới. Kant là người đầu tiên, dù viết về Thượng đế một cách kinh cẩn, nhưng Kant cũng trả lời nước đôi kiểu Khổng Tử: là những gì mình không thể biết được thì đừng nên bàn. Đạo đức học của Kant dựa trên nền tảng lương tri con người. Theo Kant: anh phải hành động theo lương tri của anh. Cứu người vì lương tri bảo phải cứu, mặc dù việc đó có thể gây họa cho anh. Kant đặt con người đứng trước lương tri để hành động chứ không hành động (hay giúp người) vì Thượng đế, Phật, Chúa, hay một đấng thần linh nào khác bảo phải làm như vậy. Kant đã làm cuộc cách mạng triết học, khi đem người trở về với con người: con người hành động theo lẽ phải vì lương tri của mình bảo vậy.

Triết học hiện sinh, thừa hưởng tinh thần Kant, cũng đưa con người về với con người, cũng đặt con người trước bổn phận và trách nhiệm của mình. Nhưng Nietzsche thường có giọng cực đoan, ông bảo: Thượng đế đã chết rồi. Phải giết Thượng đế thì người hùng, tức người siêu nhân (surhomme) mới có cơ xuất hiện. Mà người siêu nhân là gì? Người siêu nhân là người đã tự giác. Người siêu nhân của Nietzsche là người tự do, người làm chủ mình, không chịu lệ thuộc vào bất cứ ai. Nietzsche cho rằng nhân loại đầy người, nhưng toàn bọn hèn mọn, bảo sao nghe vậy, đạo thiên chúa làm «mê muội» con người, biến người thành những con chiên. Triết học của ông độc đáo trong đạo tu thân, thúc đẩy con người phải tiến triển không ngừng: nghiã là anh không thể sống ù lỳ như «cây cỏ», chỉ biết ăn, ngủ, rồi chết; sống như thế là không đáng sống, sống như thế thì chết đi cho rồi. Nietzsche thúc đẩy con người luôn luôn phải tự vượt mình: sáng tạo trong tinh thần đừng để mất mình, cái tôi hôm nay phải hơn cái tôi hôm qua và kém cái tôi ngày mai. Nếu Hồ Hữu Tường và Lê Văn Trương lấy lại tư tưởng siêu nhân của Nietzsche để giáo dục thanh niên thì cũng là điều dễ hiểu. Nhưng triết thuyết nào cũng có thể bị hiểu lầm, bị trưng dụng trong những ý đồ bất chính: triết thuyết của Nietzsche bị Hitler và Mussolini xuyên tạc và xử dụng để tôn vinh dòng giống Aryen thành surhomme/siêu nhân, cần được bảo tồn, và loại trừ dòng giống Do Thái, bị coi làsoushomme/ hạ nhân, dưới người.

19/ HTA: Trong chương ‘’Dương Nghiễm Mậu, Con Người Nội Soi Trong Bạo Lực Chiến Tranh Và Thân Phận Nhược Tiểu’’, chị có nhắc tới nhân vật Meursault trong cuốn tiểu thuyết ‘’L’Étranger’’ (Người Xa Lạ) của Albert Camus. Nhân vật này thuộc loại thụ động, bất cần đời, đối với hắn thì sao cũng được. Hắn giết người không do ý thức tự vệ mà do bản năng tự vệ đúng hơn. Nhưng khi hắn bị đưa ra tòa các nhân chứng dựng hắn thành một người khác: chôn mẹ bằng tấm lòng của một hung thủ, giết người có lý do, cư xử với tha nhân ác ý. Mọi người dựng ở hắn thành những con người khác, tuy có vài điểm chung, nhưng hoàn toàn xa lạ với Meursault. Ở phần nội dung và tư tưởng chánh, chị đã nhận định như sau: ‘’Người Xa Lạ’’ là bi kịch của nhân sinh, một nhân sinh không biết gì về mình, lại càng không biết gì về những người khác’’. Nhưng tôi lại nghĩ thêm một phần khác theo kiểu ‘’ý tại ngôn ngoại’’ về cốt truyện trong ‘’ L’Étranger’’. Cốt truyện này hơi giống cốt truyện trong cuốn phim Rashomon ‘’Lã Sinh Môn’’ của thiên tài điện ảnh gia Akira Kurosawa (Nhật) về lời khai của người trong cuộc lẫn của các nhân chứng về cái chết (bị ám sát) của chàng hiệp sĩ. Chị nghĩ sao điều này?

TK: Cuốn phim Rashomon tôi xem đã lâu rồi, nên không nhớ rõ chi tiết, vậy chỉ xin trả lời anh theo trí nhớ mài mại: Theo tôi, cái khác biệt sâu xa giữa Rashomon và L’Etranger khá sâu xa, vì Kurosawa và Camus có hai tư tưởng, hai chủ đích khác nhau. Trong Rashomon có cái bí mật trinh thám: tức là người xem không biết rõ người hiệp sĩ đã bị giết trong hoàn cảnh nào. Nếu dựa vào lời khai của những nhân chứng, thì mỗi người khai một khác. Kurosawa dường như muốn trình bày hai vấn đề:

1/ Cùng một dữ kiện nhưng mỗi người có một «sự thực» khác nhau, vậy đâu là sự thực?

2/ Trong các nhân chứng, có thủ phạm: Vậy mỗi người đều có một khía cạnh đen tối cần phải giấu đi và cái «sự thật» mà họ trình bày, là «sự thật» đã loại trừ «sự thật nhất» tức là tội ác của họ ra ngoài.

Kurosawa cho rằng mọi cố gắng tìm kiếm sự thật đều thất bại. Bởi đằng sau con người là bóng tối.

Ngược lại trong L’Etranger, Camus đặt tất cả các yếu tố sáng tỏ như ban ngày: tất cả mọi hành động của Meursault đều được ghi rõ từng ly từng tí, không sót một chi tiết nhỏ. Nhưng cái mà Meursault không biết là tại sao anh ta lại làm như thế? Và những điều mà mọi người phán đoán anh ta, là sự sai lầm trong interpretation, nôm na là không biết mà đoán mò.

Sự không biết của Meursault là con người không biết gì về mình. Sự không biết của những người xử án là không biết gì về người khác.

Sự thể như thế này: Được tin mẹ mất, Meursault đến nhà xác viếng mẹ, người gác cửa hỏi có muốn nhìn mặt mẹ không? Anh ta bảo không. Chính Meursault cũng chẳng biết tại sao mình lại nói không. Nhưng ra toà thì họ dựa vào lời khai của người gác cổng để kết án Meursault là kẻ bất hiếu. Về án mạng cũng thế: Meursault đánh nhau với một tay Ả Rập, rồi đi dạo bờ biển, tình cờ gặp lại hắn. Trời nắng gắt, bị mặt trời chiếu thẳng vào mắt, chói quá, Meursault mới tiến lên một bước để tránh ánh mặt trời, tay Ả Rập tưởng Meursault tiến lên tấn công, hắn bèn rút dao găm ra. Sẵn có súng (cũng lại tình cờ có súng lục trong túi), Meursault rút súng ra tự vệ, viên đạn bay đi và án mạng xẩy ra. Mọi sự kiện liên tiếp diễn ra, do một chuỗi tình cờ phi lý, không thể giải thích nổi. Ra tòa, bị hỏi tại sao giết người, Meursault trả lời: Tại vì trời nắng! (Anh nói đúng, nếu không bị nắng chiếu vào mắt, thì anh ta đâu có tiến lên một bước, và nếu anh ta không tiến lên một bước, thì đối thủ đâu có rút dao găm ra, và anh ta đâu có phải rút súng ra, thì làm gì có án mạng). Nhưng không ai chấp nhận một lý do án mạng vì trời nắng cả. Họ phải tìm một điều gì «hợp lý» hơn, và họ đã dựng nên câu chuyện éo le, tình tiết: con bất hiếu, bỏ mẹ vào viện tế bần, mẹ chết không thèm nhìn mặt, mẹ vừa chết còn đi chơi gái, đánh lộn…rồi giết người. Meursault không thấy có một chút gì về mình trong cái chân dung mà họ vẽ và anh cũng không hiểu gì cả.

Camus làm cho chúng ta suy nghĩ và ghê sợ tất cả các hình thức kết án, các sự buộc tội chặt chẽ và hợp lý. Bởi theo ông, cuộc đời là một chuỗi dữ kiện phi lý và con người không biết rõ về mình: không hiểu rõ tại sao mình lại làm cái này mà không làm cái kia, con người «xa lạ» với chính mình, và khi đứng trên bục để phán xét người khác, con người lại phạm cái sai lầm thứ nhì: là anh đã không hiểu gì về mình, thì làm sao anh có thể phán đoán, kết tội kẻ khác được.

20/ HTA: Chị không làm thơ, tất nhiên là không có kinh nghiệm về thơ, tại sao chị lại viết Cấu Trúc Thơ?

TK: Thỉnh thoảng cũng có một vài người hỏi tôi như vậy, xin cảm ơn anh đã cho tôi cơ hội để giải thích vấn đề này.

Thực ra phê bình và sáng tác là hai ngành khác nhau trong văn học. Trường hợp những người kiêm cả hai rất hiếm. Tại sao người viết lý luận, phê bình, thường không sáng tác? Không ở đây có thể là không muốn sáng tác: Bởi «cơ sở phê bình» đã «tự kiểm duyệt» các sáng tác của mình vì thấy chúng chưa đạt; mà cũng có thể là không biết sáng tác vì óc sáng tác và óc phê bình là hai «ngăn» khác nhau, một bên thiên về lý trí, luận giải…, một bên thiên về cảm quan, trí tưởng tượng.

Tuy vậy, trong phê bình hiện đại, người ta vẫn nhấn mạnh đến khía cạnh «sáng tác», vì hai lý do: văn bản phê bình cũng phải là một tác phẩm văn chương và người viết cần phải đem lại những ánh sáng mới về văn bản mà mình khảo sát. Nhưng tính chất «sáng tác» này rất khác với tính chất sáng tác của nhà văn: Nhà văn sáng tác tự phát, lấy chất liệu từ cuộc đời. Người phê bình sáng tác từ một tác phẩm văn học, lấy chất liệu trong chữ nghiã.

Bây giờ xin trả lời anh câu hỏi: Không có kinh nghiệm về thơ thì có thể viết phê bình thơ được không?

Theo tôi, đọc thơ và làm thơ là hai kinh nghiệm khác nhau. Kinh nghiệm làm thơ, nếu người phê bình biết được thì càng tốt, nhưng đó không phải là yếu tố chủ chốt. Điều cần thiết hơn là phải có kiến thức về vấn đề mình định phê bình. Ví dụ muốn phê bình thơ, thì không cần biết làm thơ nhưng phải «hiểu» thơ. Muốn phê bình hội họa thì không cần biết vẽ, nhưng phải «hiểu» hội họa v.v… Sự «hiểu» ấy, một phần là do «cái khiếu» của bản thân, một phần là do đọc, học và quan sát, rồi tích lũy những điều mình đã tiếp thu được, để áp dụng vào việc phân tích tác phẩm, và từ đó tạo ra văn bản của chính mình.

Tất nhiên có những người làm văn, làm thơ cũng viết lý thuyết văn học. Nhưng chúng ta nên phân biệt: Lý thuyết văn học của người sáng tác rất khác với lý thuyết văn học của những người nghiên cứu, phê bình.

21/ HTA: Xin chị giải thích rõ về điểm này, về sự khác nhau giữa lý thuyết văn học của người sáng tác và của người nhận định, phê bình.

TK: Lý thuyết văn học của người sáng tác thường có mục đích giải thích quan niệm sáng tác của riêng họ hoặc của một phong trào do họ đề xướng: Tức là sự lập thuyết về một quan điểm mỹ học mới mà họ vừa sáng tạo ra. Vì mới nên cần phải giải thích và phổ biến.

Ví dụ Tuyên Ngôn Siêu Thực của nhóm Breton, đưa ra một kỹ thuật tạo hình mới cho thơ và họa, dựa trên quan điểm triết học phân tâm của Freud, coi vô thức như cơ sở chỉ đạo của hành động sáng tạo, đem mơ vào đời sống, trộn mơ với thực để đưa ra những hình ảnh lạ lùng vượt trên sự thực. Hình ảnh này không tìm thấy trong thực tế thông thường mà chỉ thấy trong những giấc mơ và đó, theo lập luận của Breton, mới là sự thực, rất thực, tức là siêu thực, surréalisme.

Tuyên ngôn của nhóm Xuân Thu Nhã Tập đưa ra một quan điểm triết lý về thơ dựa trên chữ Đạo của Đông phương, từ chối Tây phương nhưng lại dùng kỹ thuật tạo hình của siêu thực.

Tuyên ngôn «Nỗi buồn trong thơ hôm nay» của Thanh Tâm Tuyền, ảnh hưởng trực tiếp tư tưởng của Nietzche trong cuốnNguồn gốc bi tráng kịch (La naissance de la tragédie). Thanh Tâm Tuyền trong bài này muốn giải thích sự lựa chọn khuynh hướng bi tráng kịch của mình, để diễn tả cái đau đớn quằn quại của nhân sinh, và sự phá vỡ các quy luật về cái đẹp tròn trĩnh, tổng hợp trong thơ cổ điển, để tìm đến một mỹ quan rạn vỡ, tứ tán trong thơ tự do.

Tóm lại, lý thuyết thơ của các nhà thơ, thường có chủ đích giải thích quan điểm mỹ học của riêng họ, hoặc của trường phái mà họ chủ xướng.

Lý thuyết phê bình văn học nói chung, hoặc lý thuyết thơ nói riêng, của các nhà nghiên cứu lý luận văn học thường hướng đến sự lý giải các vấn đề phổ quát trong văn, thơ của tất cả mọi người, mọi trường phái, kim, cổ.

Xin đơn cử một vài thí dụ:

– Roman Jakobson (và trường phái hình thức Nga), qua phương pháp nghiên cứu ngữ học cấu trúc, khám phá toàn diện cấu trúc ngôn ngữ thi ca của nhân loại.

– Lý thuyết văn học của Sartre, bàn đến bản chất triết lý của hành động viết, của ngôn ngữ văn chương.

Nếu lý thuyết thơ của nhà thơ giúp cho độc giả hiểu rõ thơ của họ hơn, thì lý thuyết thơ của các nhà lý thuyết văn học, giúp cho người nghiên cứu phê bình có những cơ sở để giải thích các tác phẩm, các hiện tượng văn học. Một điểm không nên nhầm lẫn: là người phê bình không thể «dạy» người sáng tác viết văn (theo lối phê bình giáo khoa ngày trước) hoặc có ảo tưởng là mình có thể «dìu dắt» nhà văn đi theo một lối sáng tác avant-garde (tiên phong) nào đó. Không nên lầm lẫn vai trò: Mỗi nhà văn phải tự kiếm ra hướng đi riêng của mình, và người phê bình có mục đích tìm hiểu, phân tích, và lý giải những «cái riêng» ấy, trong sáng tác.

22/ HTA: Chị đi vào việc tìm hiểu thi ca như thế nào?

TK: Tôi học được một điều của Nguyễn Hiến Lê là muốn viết về một đề tài nào thì phải «học» về đề tài đó. Và sau này đọc Eco, thì ông cũng có kinh nghiệm tương tự. Khi quyết định viết về thơ, tôi đã «học» về lý thuyết thơ trong mấy năm. Trước đó, tôi chỉ cảm nhận thơ bằng trực giác như mọi người, vì vậy chỉ hiểu được những tác giả dễ đọc. Khi gặp những tác giả khó và lạ như Thanh Tâm Tuyền, Đặng Đình Hưng, Lê Đạt, … thì thấy mình không hiểu họ.

Cho nên bước khởi đầu là học, mới thấy rằng kiến thức vế cấu trúc và ngữ học rất cần thiết cho sự đọc thơ. Và nói tới ngữ học cấu trúc là nói tới Roman Jakobson, bởi vì công việc nghiên cứu ngôn ngữ, áp dụng vào thi ca của ông đã mở đường cho thi học hiện đại.

Ở Việt Nam hầu như vấn đề thi học chưa được các nhà nghiên cứu thực sự chú ý. Cuốn Ngôn Ngữ Thơ của Nguyễn Phan Cảnh, xuất bản năm 1987 tại Hà Nội có lẽ là cuốn sách nghiên cứu đầu tiên về thi học: Nguyễn Phan Cảnh áp dụng phương pháp phân tích ngữ học cấu trúc của Roman Jakobson để giải thích thơ Việt (tuy ông không nói rõ điều này trong sách). Nhưng có lẽ vì là nhà ngữ học, nên ông không làm công việc của người phê bình, tức là ông mới chỉ áp dụng lý thuyết ngữ học để phân tích cấu trúc thơ, chứ ông chưa khai thác tính chất biến thiên trong ngôn ngữ thơ (phát sinh từ cấu trúc) để giải thích phần đa âm, đa nghĩa, trong mỗi câu, mỗi chữ. Chính khía cạnh ấy mới cần thiết cho người đọc bình thường, để hiểu thơ hơn. Khía cạnh này tôi tìm thấy trong cuốn L’Ecriture Poétique Chinoise (Ngôn Ngữ Thơ Trung Quốc), trong đó François Cheng đã bình thơ Đường bằng phương pháp ngữ học cấu trúc của Jakobson. Đọc François Cheng, tôi thấy nhiều vấn đề rõ hơn, và mới thật sự hiểu cái hay của thơ Đường. Vì không biết chữ Hán, tôi vẫn phải đọc thơ Đường qua các bản dịch tiếng Việt mà các dịch giả, khi chuyển ngữ, thường viết sang thể lục bát, hoặc song thất lục bát, thêm vào những chữ thừa cho hợp vần, hợp điệu, hoặc bỏ đi những chữ quan trọng vì không hợp vần hoặc vì không thể dịch được. Lối dịch như vậy rất tai hại vì:

– làm mất tính chất cô đọng của nguyên bản,

– làm mất nhiều hình ảnh, có thể khiến một câu thơ đa nghĩa, trở nên đơn nghĩa,

– làm mất tính chất độc lập của mỗi chữ trong thơ chữ Hán

Tính chất độc lập này rất quan trọng, vì nó biểu dương tích cách đứt đoạn của đời sống và tích cách độc lập của mỗi cá thể trong vũ trụ. Thơ Lê Đạt có tính chất ấy, chắc chắn là ông đã chiêm nghiệm từ thơ Đường.

Mỗi chữ Hán còn là một đồ hình gồm nhiều nét ghép lại. Bản chất chữ Hán đã có khả năng gợi hình. Vì vậy, người biết đọc chữ Hán sẽ tìm thấy trong mỗi chữ, một số hình tượng mà người đọc chữ Hán phiên âm không thấy được.

Tính chất độc lập của mỗi chữ trong thơ Trung Hoa, khi dịch sang tiếng Việt thường bị mất đi vì người dịch, hoặc không hiểu rõ vấn đề cấu trúc, hoặc không nắm bắt được tính cách quan trọng trong cấu trúc độc lập của chữ trong thơ, cho nên vô tình, đã chuyển ngữ thành một câu thơ mạch lạc, lục bát, dễ hiểu và rõ nghĩa; và như thế tức là đã làm mất khía cạnh phiếm định, đa âm, đa nghĩa trong thơ chữ Hán.

23/ HTA: Chị có thể cho một thí dụ cụ thể về vấn đề này?

TK: Tôi xin đơn cử một ví dụ rất thông thường: Chinh Phụ Ngâm là một tác phẩm dịch được coi như tuyệt tác. Ngay câu đầu, Đặng Trần Côn viết:

Thiên địa phong trần

Hồng nhan đa truân

Chúng ta thấy những chữ Hán này có tính chất độc lập với nhau. Riêng 4 chữ thiên | địa | phong | trần : trời | đất | gió | bụi là 4 hình ảnh độc lập. Tự chúng có thể đứng vững một mình, và có thể hoán vị trật tự các chữ 4! = 2x3x4 = 24 lần, thành 24 câu thơ khác nhau:

đất trời gió bụi

đất bụi gió trời

đất gió bụi trời

gió đất bụi trời

bụi đất trời gió…

Mỗi lần hoán vị, người đọc có một câu thơ mới, một hình ảnh mới. Sự hoán vị được toàn diện tối đa vì 4 chữ hoàn toàn độc lập.

Đến câu thơ thứ nhì

Hồng nhan đa truân

tính chất độc lập đã bớt đi, chỉ có thể tách làm hai nhóm: hồng nhan và đa truân. Do đó có 2 cách hoán vị:

hồng nhan đa truân

đa truân hồng nhan

(cũng có thể tách hồng | nhan và đa | truân , nhưng hơi gượng ép)

Khi chuyển sang tiếng Việt, mặc dù Phan Huy Ích đã làm thành hai câu tuyệt bút:

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi

Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên

về mặt âm điệu thì tuyệt hay, nhưng so với nguyên tác, có kém giá trị đi:

– Bớt cô đọng vì những chữ thừa, không có trong nguyên bản: thuở, nổi cơn, khách, nỗi.

– Biến câu thơ chữ Hán, gồm những chữ độc lập, có khả năng chuyển động, hoán vị chữ để tạo các hình ảnh mới thành hai câu thơ Việt có cấu trúc liên tục, cố định, không thể hoán vị trật tự chữ được, nghĩa rõ ràng hơn, mất tính chất phiếm định, đa nghĩa đi.

Do đó mà Jakobson phát biểu: Thơ không thể dịch được. Chỉ có thể chuyển thơ sang hình thức nghệ thuật khác như âm nhạc, hội họa… Phát biểu này mới nghe qua có vẻ cực đoan, nhưng thực sự là dựa trên cơ sở cấu trúc để chứng minh tính cách không trung thành của thơ dịch, so sánh với nguyên bản.

Cho nên, khi dịch thơ chữ Hán, điều hay nhất có lẽ là nên ghi rõ 4 ấn bản:

– phần chữ Hán, cho những người biết đọc chữ Hán tìm thấy những hình tượng trong mỗi chữ,

– phần chữ Hán phiên âm sang tiếng Việt,

– phần dịch sát nghĩa từng chữ một (để thấy rõ tính chất độc lập của mỗi chữ),

– và sau cùng mới là câu thơ dịch sang tiếng Việt.

Như vậy người đọc mới có thể so sánh và cảm nhận được cái hay của cả bản gốc lẫn bản dịch.

24/ HTA: Chị đã tiếp cận Jakobson như thế nào? Tại sao lại Jakobson mà không là một tác giả nào khác?

TK: Trong các cách biểu đạt văn hóa bằng ngôn từ của các dân tộc, thơ là một thể loại mang nhiều tính chất chung như vần, điệu, hình ảnh, v.v… Đây mới chỉ là một ấn tượng, một nhận xét qua kinh nghiệm của mọi người. Hegel cho «thơ là nguồn cảm thông chung của nhân loại».

Trường phái hình thúc Nga, hồi đầu thế Kỷ XX, đã đi tiên phong trong việc dùng ngữ học để nghiên cứu các thể loại văn chương khác nhau như thơ, văn xuôi, cổ tích… Riêng về thơ thì Jakobson là người đi xa nhất, khi ông kết hợp ngữ học với thuyết cấu trúc của Lévi-Strauss để tạo thành một lý thuyết phổ quát về cấu trúc chung của thi ca nhân loại, nghiã là ông đã chứng minh rằng thơ, bất kể tiếng nước nào, đều có chung một số đặc tính:

– Thơ là ngôn ngữ trong chức năng thẩm mỹ của nó,

– Thơ là sự kết tinh trong cách biểu đạt tư tưởng bằng ngôn từ,

– Thơ chủ yếu dùng ẩn dụ (hoặc những phương pháp tu từ khác) để tạo hình và tạo tính chất phiếm định,

– Cấu trúc ngôn ngữ của thơ dựa trên nguyên lý song song, tức là sự lập lại. Điều này rất kỵ trong văn.

Những yếu tính này xuất hiện trong mọi ngôn ngữ thơ. Sau khi Jakobson và Lévi-Strauss dùng ngữ học cơ cấu để phân tích bài thơ: Les Chats (Mèo) của Baudelaire thì gần như những vấn đề thi pháp trong thơ đã được giải quyết, ít ra là đã được tìm hiểu và phân tích một cách khá tường tận. Cho nên việc sử dụng những khám phá của Jakobson vào việc tìm hiểu thi ca là tất yếu cho những ai muốn đẩy xa hơn công việc phê bình, nhận định của mình.

25/ HTA: Nguyên lý song song đứng ở trong giai đoạn nào của sự khám phá?

TK: Thực ra Jakobson không phải là người đầu tiên khám phá ra tính chất song song trong thơ. Ông sử dụng những khám phá của người trước, mở rộng thêm và hệ thống hóa thành một lý thuyết hoàn chỉnh.

Theo Jakobson thì chữ «song song» được Robert Lowth dùng lần đầu vào năm 1778, khi khảo sát thơ cổ tiếng Hébreu của người Do Thái. Lowth viết: «Tôi gọi tính chất liên vận giữa hai câu thơ là tính song song» và Lowth phân biệt ba loại song song:

Song song tương đồng: Khi hai câu thơ đi cạnh nhau đồng âm, đồng nghĩa. Ví dụ:

«Chòng chành như nón không quai/ Như thuyền không lái như ai không chồng»

Song song đối ngữ: Khi hai câu thơ cạnh nhau, đối âm, đối nghĩa, ví dụ:

«Chìm đáy nước cá lừ đừ lặn / Lửng da trời, nhạn ngẩn ngơ sa»

Song song tổng hợp: Khi hai câu thơ cạnh nhau bổ túc âm và nghĩa cho nhau, ví dụ:

«Trăm năm trong cõi người ta / Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau».

Nhưng sự khám toàn diện về tính chất song song thuộc về Gérard Manley Hopkins. Năm 1865, cậu sinh viên trẻ này đã viết trên một tờ báo đại học rằng: Tất cả thủ pháp thi ca dựa trên nguyên tắc song song. Song song trong nhịp điệu (nhắc đi nhắc lại một số cách ngắt câu; ví dụ: Buồn trông | cửa bể | chiều hôm là nhịp 2 được nhắc lại 3 lần). Song song trong âm luật (lập đi lập lại một chu kỳ chữ: thơ 4 chữ, thơ 5 chữ, thơ lục bát, thơ song thất lục bát, thơ Đường luật, v.v…). Song song trong niêm luật (luật bằng, trắc). Song song trong sự láy âm, láy nghĩa v.v… Đặc biệt trong thơ Việt Nam, từ láy là một hiện tượng thông dụng và là đơn vị song song nhỏ nhất, có khả năng gợi âm, gợi hình. Tóm lại, thơ dùng nguyên tắc lập lại (tức là song song) như một hình thức cấu trúc cốt yếu và hình thức này tối kỵ trong văn.

26/ HTA: Về mặt cấu trúc, thơ hiện đại có khác thơ cổ điển: Trong thơ hiện đại tôi không thấy yếu tố song song như chị nói. Vậy thơ cổ điển khác thơ hiện đại ở những điểm nào?

TK: Có thể nói về mặt cấu trúc hình thức, thơ cổ điển dựa trên ba cơ sở căn bản:

– Tạo hình bằng các phép tu từ, chủ yếu là ẩn dụ.

– Dùng nguyên lý song song để kiến trúc câu thơ.

– Dùng vần để tạo âm nhạc.

Cả ba cơ sở này, đã bị phá vỡ trong thơ hiện đại (ở đây, tôi dùng từ hiện đại trong nghiã «mới» của chữ moderne). Vậy thơ hiện đại của chúng ta có thể nói, là bắt đầu từ Thanh Tâm Tuyền, vì từ ông mới có sự phá thể hoàn toàn. Thơ Mới, vẫn còn mang tính chất: lãng mạn với cấu trúc hoàn chỉnh và dựa trên nguyên lý song song. Thơ hiện đại mang tinh thần phá vỡ mọi quy lệ chung và nhà thơ tự do tạo ra một mỹ học riêng của chính mình.

Để hiểu rõ hơn sự khác biệt này, có lẽ chúng ta nên đi lại từ đầu. Từ thời cổ đại, nghệ thuật Hy lạp đã chia làm hai dòng chủ lưu: nghệ thuật Apollon, là nghệ thuật tạo hình (art plastique) và nghệ thuật Dionysos, là nghệ thuật phi hình (art non plastique). Nietzsche đã phân tích thấu đáo về sự khác biệt giữa hai dòng nghệ thuật này trong cuốn Nguồn gốc bi tráng kịch (La naissance de la tragédie). Sự khác biệt này có thể tóm tắt như sau:

Nghệ thuật Apollon (mà đại diện là Homère) tạo ra anh hùng ca, với cấu trúc hoàn chỉnh, lời hay, ý đẹp. Nghệ thuật Apollon, là nguồn gốc của thứ nghệ thuật mà chúng ta thường gọi là cổ điển, trong văn thơ cũng như hội họa, kiến trúc… đó là quan niệm liên tục, hoàn chỉnh và tổng hợp về đời sống: truyện phải có đầu đuôi, kết có hậu; thơ phải đúng niêm luật. Tranh phải là những bức chân dung hoàn mỹ, những cảnh tượng tô màu… Tóm lại: cuộc đời là liên tục, tác phẩm phải hoàn tất.

Nghê thuật Dionysos (mà Archiloque là đại biểu) tạo ra bi tráng kịch (tragédie), xây dựng trên âm nhạc, nói lên cái tăm tối, bi đát trong con người (như bi tráng kịch của Eschyle). Vẫn theo Nietzsche, dưới sức quyến rũ của thần Dionysos, không những mối liên hệ giữa người với người được nối lại, mà thiên nhiên, dù đối nghịch với con người hay bị con người kiềm chế, cũng trở lại chào đón con người. Con người bước vào thế giới mới hơn, cao hơn, chẳng cần đi và nói nữa, mà múa may bay bổng trên không trung. Mọi sinh vật từ nay sẽ biết nói, đất nứt cho sữa mật trào ra, con người tự cảm thấy mình cũng bay bổng như thần thánh. (Những yếu tố này về sau, được tìm lại và mở rộng trong nghệ thuật siêu thực). Nghệ thuật Dionysos từ chối cái nhìn chủ quan của con người, và mở ra cái nhìn khách quan của vũ trụ hoà đồng, cũng là đầu mối của nghệ thuật hiện đại, được thiết lập lại sau nhiều thế kỷ suy đồi.

Tại sao lại có sự suy đồi? Nietzsche kết tội Socrate là căn nguyên của sự suy đồi ấy. Socrate đã tiêu diệt bi tráng kịch Hy Lạp: Socrate không hiểu âm nhạc, đề cao con người lý trí, đưa ra một thế giới quan thuần lý, tiêu diệt con người nghệ sĩ. Cái đẹp, theo Socrate phải là cái có lý, có ích. Dùng quan niệm thế giới lý thuyết để thay thế giới bi kịch, Socrate đưa ra mẫu người lý thuyết (l’homme théorique) để tiêu diệt con người bi đát(l’homme tragique), tiêu diệt tinh thần huyền thoại và âm nhạc trong bi tráng kịch. Kịch bây giờ, theo Socrate, nhân vật phải biết lý luận, phải có tài hùng biện. Bi tráng kịch bị tiêu tan trong nhiều thế kỷ, phải đến Shakespeare mới được hồi phục lại phần nào trong Hamlet.

Thơ Thanh Tâm Tuyền có cái bi đát của bi tráng kịch và có sự phá vỡ trong chủ trương nghệ thuật của Nietzsche: «Nghệ thuật là đạp đổ cái cũ để xây cái mới.»

Quan niệm hiện đại phát triển trở lại, đi sát hơn với đời sống con người «hôm nay», và chính đời sống công kỹ nghệ cũng nẩy sinh sự hoang mang của con người, tính cách nhập nhòe giữa thiện và ác, tính chất đứt đoạn của đời sống:

1) Cái tôi trong thơ văn hiện đại mất đi tính chất chủ quan, trở thành cái tôi khách quan và đa diện: Cái tôi có thể là cái tôi con chó, cái tôi hòn sỏi, cái tôi cây đa nhìn về con người, và do đó chúng có quyền nhìn thấy nơi -cái mà người ta gọi là con người- thật ra chỉ là một đống nạc mỡ bầy nhầy v.v… (Francis Ponge). Nhà thơ khám phá ra những cái tôi «chưa biết» (le moi inconnu) và chính cái tôi ấy có quyền vật hóa cõi nhân sinh.

2) Đời sống không phải là một cấu trúc liên tục mà là những mảnh đứt đoạn trong thời gian, trong không gian, trong mọi tình thế: Chúng ta đang nghĩ cái nọ xọ sang cái kia, đang làm việc này chạy sang việc khác v.v… Từ cấu trúc đứt đoạn phát sinh tiểu thuyết mới: Truyện không có truyện, thường là những mảnh (fragment) của đời sống được lắp ghép lại, không theo một trình tự logique nào.

4) Phá vỡ cấu trúc hoàn chỉnh: Thơ tự do, hội họa trừu tượng, rứt khỏi cấu trúc «đóng» cũ để tạo ra «tác phẩm mở», khiến người xem, người đọc có thể góp trí tưởng tượng và kiến thức của mình để nhìn, hay đọc tác phẩm. Đưa đến quan niệm mới về việc đọc, đến tính đối thoại giữa người đọc và người viết.

Đứng trước một bức tranh trừu tượng, anh có quyền thưởng thức, hiểu theo cái «gu» của anh, dĩ nhiên bức họa vẫn là mỹ quan và bố cục của họa sĩ, nhưng anh không nhất thiết phải nhìn ra đây là một cái gì chính xác: một cô gái, hay một phong cảnh, như trong tranh cổ điển.

Đọc thơ hiện đại, tính cách «phá» cũng mở rộng phương trời hơn. Trong cái tôi của Thanh Tâm Tuyền có thể là hai, ba cái tôi khác. Trong cái không tôi của Đặng Đình Hưng, chứa chất những cái tôi tù tội, đói, khát, «siêu hầm» v.v… Trong phó cả ngựa của Lê Đạt có bao nhiêu kiếp ngựa-người, người-ngựa, cha-con, người và «phó người», v.v…

Vì đa nghĩa, nên thơ hiện đại khó đọc và bị mang tiếng bí hiểm. Nhưng nếu đã hé cửa vào được vũ trụ của tác giả thì người đọc có thể sinh động, cộng tác… chứ không giữ vai trò thụ động của người tiếp nhận, như đối với những tác phẩm đã hoàn tất và toàn mỹ trong văn học cổ điển.

Có lẽ đặc tính lớn nhất của văn nghệ hiện đại là biện chứng mở, nó mở cửa cho tự do, cho sự cộng tác sáng tạo, cho tinh thần khách quan… và đó là những điểm khiến nó khác với văn nghệ cổ điển nói chung, và thơ cổ điển nói riêng.

27/ HTA: Chủ nghĩa siêu thực có một chỗ đứng như thế nào trong thơ hiện đại?

TK: Nếu nói gọn lại, thì tôi xin trình bày như thế này: Siêu thực chủ trương một cách tạo hình mới hoàn toàn khác với cách tạo hình trong thơ cổ điển. Cách tạo hình này dựa trên sự nhận xét thực tế: Con người sống quen với một thứ ngôn ngữ sáo mòn, thứ lô gích cũ rích, họ bị ý thức điều khiển, họ không để ý đến khía cạnh thứ nhì của đời sống, đó là thực tại của những giấc mơ.

Dựa vào sự phân tích các giấc mơ trong phân tâm học Freud, Breton định vị lại vai trò của mơ trong đời sống con người: Giấc mơ giải tỏa con người khỏi thực tại sáo mòn, bị chi phối bởi ý thức. Ý thức kiểm duyệt những gì mà nó cho là tối tăm, tồi tệ, tội lỗi như dục tình, như khát vọng; nó ném những thứ đó vào tiềm thức, rồi lại dồn nén vào vùng sâu hơn nữa là vô thức (và bỏ quên ở đó). Breton chủ trương lục lọi trong vô thức, lấy lại những điều mà ý thức ngăn cấm, đem ra ánh sáng và sử dụng.

Lập luận này còn dựa trên một thực tế thứ nhì: Trong con người, thời gian thức (ý thức) và ngủ (vô thức, mơ) gần sấp sỉ ngang nhau, tại sao không sử dụng những gì đến trong giấc ngủ?

Từ đó siêu thực đề nghị một cách nhìn đời khác, bao gồm cả hai thực tế: mơ (ngủ) và thực (thức), và theo họ thì đó mới là hoạt động đích thực và toàn diện của tư tưởng.

Cách nhìn đời này cho phép con người thoát ra khỏi sự kiểm soát của lý trí, thoát khỏi thứ đạo đức rập khuôn hàng ngày để sống một thực tại cao hơn: đó là thực tại tổng hợp giữa mơ và thực, đó là sự «tự do tuyệt đối» của con người: tất cả đều làm được (tout est possible). Sự tự do này cho phép nhà thơ, họa sĩ ghép những thực thể vô cùng xa nhau lại với nhau, tạo ra những hình ảnh vô cùng độc đáo, chưa thấy xuất hiện bao giờ. Những quái vật đầu người mình thú trong tranh siêu thực chẳng qua chỉ biểu dương tính chất «khẩu phật tâm xà» trong con người. Những cô dâu bay trong tranh Chagall là giấc mơ bay bổng của con người. Những máu mê chuyển động trong truyện của Marquez là những oán cừu truyền kiếp của các dân tộc ở Châu Mỹ la tinh đối với «tổ tiên» Y Pha Nho của họ. Và như trên đã nói, tất cả những hình thái siêu thực này đã có nguồn cội từ nghệ thuật Dionysos. Tựu trung, những hình ảnh thành công của siêu thực thường diễn tả được những thực tại chát chúa, khốc liệt, đớn đau, sâu sắc hơn những hình ảnh tìm thấy trong thơ cổ điển.

Siêu thực du nhập vào Việt Nam qua nghệ thuật của nhiều nhà thơ. Từ Xuân Thu Nhã Tập, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên đến Thanh Tâm Tuyền, Trịnh Công Sơn. Ở Xuân Thu Nhã Tập, mới là những bước đầu ghép chữ, đưa đến những hình ảnh lạ như rót nguyệt, nhạc trầm mi, hồn xanh ngát v.v… nhưng Xuân Thu Nhã Tập chưa đi khỏi «cái tôi, cái ta» cổ điển và chủ quan, chưa tách khỏi quan niệm cái đẹp hoàn mỹ cổ điển.

Trong Trường thơ loạn (Hàn Mặc Tử, Bích Khê và Chế Lan Viên), Hàn Mặc Tử tuy vẫn giữ vần điệu của thơ mới, nhưng pha trộn nỗi điên loạn của bệnh hoạn với nỗi đau tâm linh thành những hình ảnh dị kỳ đau đớn lạ thường: Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi Tiếng rú hồn tôi xô vỡ sóng…Một vũng cô liêu cũ vạn đời… Có thể coi đó là những hình ảnh siêu thực, hoặc từ ảnh hưởng của Edgar Poe, nhưng đó cũng chính là cái đớn đau phát xuất từ nghệ thuật Dionysos.

Thanh Tâm Tuyền đặc biệt làm thay đổi cả hình thức vần điệu lẫn nội dung tư tưởng trong thơ. Ông là đệ tử của Nietzsche, tôn thờ nghệ thuật Dionysos, giao hưởng những hình ảnh siêu thực với tâm thức hiện sinh để tìm đến những nhận thức sâu xa về bản thể con người. Thanh Tâm Tuyền hội nhập hai dòng chảy đối cực để đưa ra những hình ảnh chói buốt của: những người khóc lệ không rơi ngoài tim mình, lệ là những viên đá xanh tim rũ rượi.

28/ HTA: Qua quyển ‘’Cấu Trúc Thơ’’, cái tiếng ‘’cấu trúc’’ dễ làm cho độc giả nghĩ rằng chị chỉ chú trọng cái kỹ thuật của thơ. Họ cũng có thể nghĩ rằng chị đồng ý với nhà văn Võ Phiến khi ông bảo rằng thơ chỉ cần lời chứ không cần ý, chỉ có cái xác thơ mới đáng kể chớ không phải cái hồn thơ. Như thế, thơ của Rabindranarh Tagor hay về ý hay là tuyệt vời về lời?

TK: Chữ «cấu trúc» là tiếng khá thông dụng trong ngôn ngữ phê bình, nhất là từ khi thuyết cấu trúc của Levi-Strauss được phổ biến rông rãi, cấu trúc có nghiã là cấu trúc hình thức, nhưnghình thức này cũng là nội dung. Từ đầu thế kỷ XX, người ta đã quan niệm trong văn chương hình thức là nội dung và nội dung là hình thức (Paul Valéry cũng như các nhà hình thức Nga đều xác nhận như vậy). Người ta không còn phân biệt: hình thức là cái bình và nội dung là chất lỏng chứa trong cái bình ấy, như xưa nữa. Điều này hiển nhiên vì trong lời có ý và trong ý có lời, không thể tách biệt hai yếu tố này được. Một câu thơ hay, là hay trong cả hai nghĩa: lờiý đều hay. Nếu chỉ có ý hay mà lời không ra gì, thì mới chỉ là một ý tưởng. Và ý tưởng chưa phải là thơ và cũng chưa phải là văn, bởi ý thì nhiều người có ý hay lắm, nhưng từ ý đó mà làm thành một câu thơ, một câu văn hay, lại là chuyện khác. Văn bạch thoại hay văn nói cũng là văn, và cũng phải biết cách viết. Còn lời nói, thì chỉ để chuyển tải thông tin, nghe xong có thể bỏ qua. Cũng đừng nhầm câu văn giản dị (không làm văn, không hoa mỹ) với lời nói: đạt tới mức giản dị như văn Trang Tử trong Nam Hoa Kinh là tuyệt bút. Nhất Linh, phải đến cuối đời mới đạt được lối viết giản dị trong Xóm Cầu Mới.

Trong thơ có hai yếu tố quan trọng là chữ (tức là lời) và âm(nhạc). Chữ và âm là hai yếu tố chính trong thơ, vì nhiều người không biết điều đó, cho nên cứ thấy viết văn không được thì quay ra làm thơ, hiện nay người ta làm «thơ» như vậy nhiều lắm, nhưng có phải thơ đâu.

Tôi không biết trong tiếng Ấn Độ ngôn ngữ (tức là chữ và âm) của Tagore ra sao, chắc là phải tuyệt vời, chúng ta chỉ đọc được những bản dịch đã tam sao thất bản (từ tiếng Ấn sang tiếng Anh rồi từ tiếng Anh sang tiếng Việt), thì làm sao thấy được cái hay của thi hào này. Anh thử đọc những bản dịch truyện Kiều mà xem, sẽ chỉ thấy người ta viết lại thơ Nguyễn Du sang văn xuôi thôi. Thơ hay không thể dịch được. Theo tôi, muốn hiểu cái hay của Tagore hay Nguyễn Du thì phải đọc được nguyên bản tiếng Ấn, tiếng Việt.

29/ HTA: Nhà thơ Paul Valéry cho rằng ông không muốn ai ai cũng cảm nhận thơ ông y chang như nhau. Thế có nghĩa là ông muốn thơ ông đi vào tâm hồn mỗi người đọc bằng một thế giới riêng, bằng một cảm nhận riêng, bằng một liên tưởng riêng. Riêng chị, chị nghĩ sao? Nhất là nghĩ về loại thơ siêu thực và loại thơ trừu tượng?

TK: Paul Valéry luôn luôn đi trước thời đại, khi ông nói thơ ông chỉ có một nghĩa dành riêng cho ông thôi, còn đối với người khác thì nó có nghiã khác: điều đó chứng tỏ ông đã nhìn thấy cách đọc nhiều chiều trước một tác phẩm đa nghiã; mà phải khoảng nửa thế kỷ sau, giới phê bình văn học mới «khám phá» ra. Như trên tôi đã nói thuật ngữ phê bình gọi đó là những tác phẩm «mở», tức là đa nghiã. Các hình ảnh trong thơ, trong hội họa siêu thực và trừu tượng luôn luôn đa nghiã, cho nên mỗi người có thể cảm nhận với tâm tư và chủ kiến của riêng mình, đúng như anh đã nhận xét. Cái nghĩa mà tác giả đưa ra chỉ đúng với tác giả mà thôi. Cho nên khi đọc một tác phẩm, tôi thường không hỏi tác giả về bất cứ điều gì trong tác phẩm, mà chỉ tra vấn chữ của tác giả mà thôi.

30/ Hỏi: Thanh Tâm Tuyền trong bài tiểu luận ‘’Nỗi Buồn Trong Thơ Hôm Nay’’ đại khái cho rằng: ‘’(Người thơ hôm nay) không mơ mộng nghĩa là không tạo những hình dáng, họ muốn nhìn thực tế bằng con mắt trợn tròn, căng thẳng phá vỡ hết mọi hình dáng để sự vật hiện ra với cái thực chất hổn loạn, không che đậy’’. Chị nhận thấy ông ta tân tiến hay chủ quan? Nhà nghệ sĩ cần dựa vào cái có thật để nói dối, nói dối mà sinh động như nói thật mới là bản lĩnh của họ, có phải? Chị nghĩ sao về chủ trương bóc trần lớp sơn ảo mộng tô phết lên sự vật một khi nó được thi sĩ đưa nó vào thi ca. Cái đổi mới của Thanh Tâm Tuyền có tàn nhẫn đối với cảm quan của độc giả không?

TK: Như trên tôi đã nói Thanh Tâm Tuyền dựa vào lý thuyết của Nietzsche trong cuốn Nguồn gốc bi tráng kịch, để viết bài «Nỗi buồn trong thơ hôm nay».

Tinh thần phá vỡ trong nghệ thuật, không phải bây giờ mới có mà có từ xưa; xin nhắc lại, trong cuốn Nguồn gốc bi tráng kịch, Nietzsche nói rõ: Apollon, thần của nghệ thuật tạo hình, cũng là thần tiên tri. Apollon có nghiã là «huy hoàng», là thần của ánh sáng, trị vì trên cái đẹp hào nhoáng trong nội giới của tưởng tượng, là chân lý thượng đẳng, là sự toàn bích của các trạng thái nội tâm đối diện với cái sơ hở, bất tri trong thực tế hàng ngày. Nghệ thuật Apollon (mà Homère là đại biểu), dựa trên mơ mộng (le rêve), xây dựng cái đẹp hoàn chỉnh, dưới cái nhìn chủ quan của con người.

Nghệ thuật Dyonysos (mà Archiloque là đại biểu), dựa trên sức sống say sưa (l’ivresse), là nghệ thuật phi hình dáng, với những tiếng thét oán hờn, những lời châm biếm chua cay, những bùng cháy ham muốn, làm cho chúng ta sợ hãi, là thứ nghệ sĩ khách quan, phi nghệ sĩ tuyệt vời. Archiloque -con người đam mê, con người bỏng cháy tình yêu và thù hận- thiên tài đã nhìn thấy nỗi khổ nguyên khai của con người, con người trần trụi.

Câu ‘’(Người thơ hôm nay) không mơ mộng nghĩa là không tạo những hình dáng, họ muốn nhìn thực tế bằng con mắt trợn tròn, căng thẳng phá vỡ hết mọi hình dáng để sự vật hiện ra với cái thực chất hổn loạn, không che đậy’’ của Thanh Tâm Tuyền cũng từ đấy mà ra. Thanh Tâm Tuyền đã tổng kết ý của Nietzsche: Nghệ thuật Apollon dựa trên sự mơ mộng để tạo hình (tạo ra những hình dáng), và cái mà tôi, Thanh Tâm Tuyền (người thơ hôm nay) chọn là nghệ thuật Dionysos, nghệ thuật phi hình dáng «phá hết mọi hình dáng để cho sự thực hỗn loạn hiện ra, không che đậy». Nghệ thuật này chúng ta cũng từng thấy rất rõ trong tiểu thuyết của Dostoïevski. Và nếu để ý, anh cũng đã thấy trên các bức tranh cực thực (hyperréalisme) thời nay, đầy rẫy những hình ảnh khốc liệt, ghê gớm, không che giấu gì cả. Thanh Tâm Tuyền ở Việt Nam là người đi trước thời đại của mình, thơ ông đã nói lên cái khủng hoảng tinh thần trong con người, tương tự như trong những bức tranh siêu thực và cực thực. Thời của ông (năm 1956) có gây sốc, nhưng bây giờ thì không. Bây giờ, có một số ngòi bút dường như mới khám phá ra thơ ông, hoặc do ảnh hưởng gián tiếp, tôi không biết rõ. Tiếc rằng, phần đông chưa hiểu được ý nghiã triết học trong thơ ông, nên mới chỉ làm được việc ghép chữ mà thôi.

31/ Hỏi: Chị nhận thấy gì về những nhà văn viết tùy bút nổi tiếng như Nguyễn Tuân (‘’Vang Bóng Một Thời’’), Xuân Diệu (‘’Phấn Thông Vàng’’), Võ Phiến (‘’Ảo Ảnh’’ và ‘’Phù Thế’’)…?

TK: Nếu hiểu tùy bút theo nghĩa tùy hứng phóng bút thì Nguyễn Tuân viết rất ít tùy bút (tôi đã có dịp bàn kỹ về vấn đề này trong bài Nguyễn Tuân). Vang bóng một thời là tập truyện ngắn có một thi pháp độc đáo, với lối văn phóng túng và tài hoa, khác hẳn lối viết truyện ngắn bình thường. Vang bóng một thời đã xác định vị trí của Nguyễn Tuân trên văn đàn, và mọi người coi Nguyễn Tuân như một tác giả viết «tùy bút» cũng vì lối viết phóng túng và tài hoa này. Ngoài ra, phần lớn những bài mà Nguyễn Tuân cho in trong các tập Tùy Bút I và II đều là bút ký, tức là những bài viết có chủ đề về những chuyến đi «thực tế» của ông.

Tập Phấn thông vàng của Xuân Diệu có vài bài như Phấn thông vàng, Thương vay… có thể coi là tùy bút, chỗ còn lại phần lớn là những truyện ngắn. Bài Phấn thông vàng ghi lại những cảm giác, những ấn tượng xẩy ra trong tâm hồn một họa sĩ đứng trước thiên nhiên, viết theo lối lãng mạn. Văn xuôi của Xuân Diệu tầm thường, thậm chí nhiều bài dở. Viết loại cảm xúc lãng mạn này cần phải chân thật và tài hoa (chân thật để người đọc tiếp nhận được những xúc cảm của mình, và tài hoa để người đọc thấy cái hay trong bút pháp). Cả hai yếu tố đó hầu như vắng mặt trong văn Xuân Diệu: những cảm xúc trong Phấn thông vàng thường giả tạo, câu văn cổ, chải chuốt mà vụng về, ví dụ: «Nhị vàng của thông, ồ! tình yêu của thông đó chăng? Gió hơi se, rừng thông rún rẩy, tiếng ngân hữu ý, khí trời thành một sự đổi trao: muôn cây chắc đương khoái lạc vì đương sống việc ái tình». Cũng lối cảm xúc lãng mạn ấy, Hồ Dzếnh viết hay hơn nhiều, tập truyện ngắn Chân trời cũ của Hồ Dzếnh viết từ thập niên 40, không một nét nhăn. Còn về tuỳ bút văn chương, thì tập Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc Tử (cũng viết vào khoảng những năm 38-40) hay hơn Phấn thông vàng nhiều lắm, vừa có cảm xúc vừa có suy nghĩ sâu sắc về nghệ thuật.

Võ Phiến cũng lại lầm như Nguyễn Tuân, khi ông xếp các cuốn:Lại thư nhà, Ảo ảnhPhù thế vào loại tùy bút. Những truyện ngắn trong ba tác phẩm này, có chung một đặc điểm là nhân vật chính xưng tôi, hoặc được gọi là chàng. Chú ý kỹ thì ta thấy chữchàng ở đây không phải ở ngôi thứ ba, mà là ngôi thứ nhất, tương đương với chữ tôi.

Vậy chúng ta có thể tạm hiểu như thế này: Từ 1956 đến 1961, trong các cuốn Chữ tình, Người tù, Mưa đêm cuối năm, Đêm xuân trăng sáng… Võ Phiến viết truyện ngắn theo lối truyền thống, tác giả chủ quan đứng ngoài để kể chuyện. Sau 1962, nhất là từ 1967 trở đi, đặc biệt trong hai cuốn Ảo ảnh (1967) và Phù thế (1969), ông đổi cách viết: nhân vật của ông bây giờ xưng tôi, viết về mình, tức là Võ Phiến tìm cách đứng vào trong nhân vật, (như phần đông lối viết hiện đại), thay vì đứng ở ngoài để mô tả, theo lối truyền thống. Lại thư nhà là tác phẩm bắc cầu giữa hai lối viết ấy.

Phải đến Đất nước quê hương (1973), mới có Võ Phiến tùy bút. Và tùy bút là một trong những sở trường của ông. Cách phóng bút của Võ phiến rất đặc biệt: vừa bàn, vừa luận, vừa nói tầm phào, vừa bình phẩm, khi tự trào, khi mỉa mai châm biếm. Trong tùy bút, Võ Phiến vận dụng những kinh nhiệm sống, kinh nghiệm đọc và quan sát để phóng bút, ông không trau chuốt lời văn như Nguyễn Tuân, Mai Thảo, mà ông dồn toàn lực vào ý: một sự giàu có ý tưởng lạ thường về bất cứ chủ đề nào: từ mắm tôm đến chửi, từ bánh tráng đến hạt bọt trà… như thể khi ông đã bắt được một ý tưởng, ví dụ về hạt bọt trà, thì ông bèn ném nó xuống nước như ném hòn sỏi, để chỗ sỏi rơi sẽ trở thành hồng tâm, cho vô vàn vòng tròn khác nở ra, xoay quanh hồng tâm, hết vòng này đến vòng khác: ý của Võ Phiến chung quanh hạt bọt trà, cứ như thế mà lan rộng và phát ra mọi hướng, khi lấy trong sách, khi lượm ở đời, khi đi từ ngôn ngữ, khi vào cổ tích, khi dí dỏm, khi tinh tế, tạo cho người đọc những lý thú bất ngờ.

32/ HTA: Dự định viết lách của chị trong tương lai gần gũi hay trong tương lai xa xôi ra sao? Những tác giả nào có đủ điều kiện để chị nhắm tới trong các cuốn biên khảo hay trong các cuốn phê bình sắp tới

TK: Tôi đang xem lại bản thảo để in cuốn sách về Nhân Văn Giai Phẩm, và cũng đang sửa lại loạt bài về Phê bình văn học thế kỷ XX, đã đọc trên RFI từ năm ngoái, đang đi trên Văn Học, sau đó sẽ in thành sách. Còn tập bản thảo Sóng Từ Trường IV về Tự Lực Văn Đoàn cũng đang nằm chờ. Ngoài ra, tôi vẫn tiếp tục viết về những nhà văn lớn của miền Nam, cố gắng phục hồi một mảng văn học quan trọng gần như bị chôn vùi mà lại rất cần cho lớp trẻ, đang bị cắt đứt với mảng văn học hiện đại nhất của nước mình. Tất nhiên tôi cũng chú ý giới thiệu các tài năng trẻ. Hiện giờ các cây bút nữ rất trội, trội hơn các cây bút nam. Họ thể hiện uy tín và nữ quyền bằng ngòi bút của mình.

33/ HTA: Xin cám ơn chị Thụy Khuê.

Paris tháng 6/2006

 

Bà già trầu cảm khái

Mèn ơi, lẩm rẩm tui ở Xóm Gà được ba năm rồi đó chị Tám. Thời buổi giặc giã, dân quê kéo nhau ra thành phố mỗi lúc một đông. Xóm Gà bởi đó mà nhà cửa mọc thêm nhiều.
Thú thiệt với chị Tám, cũng bởi tui thương hai đứa cháu nên tui đành đoạn bỏ nhà bỏ cửa đi theo tụi nó. Ở đây, đêm đêm tui nhớ xóm quê, vườn nhà, nhớ mấy cây cau Bà Ðiểm, mấy nọc trầu vàng mà ứa nước mắt. Thiệt tình, trầu cau do mình chăm nom, bón gốc, tưới mát hằng ngày mình ăn mới ngon. Ðằng nầy cứ mỗi tuần, tui lặn lội ra chợ Bà Chiểu để mua trầu cau vôi thuốc. Tui mất cái thú đêm nằm trong buồng lắng chừng mùi hương cau từ cửa sổ lọt vào tận lá mùng. Tui hết còn dịp tự tay ra sân hái lá trầu xếp từng ốp vào khay, tui đâu còn được bổ cau từng miếng bày trong những cái sàng rồi đợi nắng tốt đem phơi hoặc vào những ngày mưa dầm, quạt than cho đỏ sấy cau, để dành ăn lai rai.
Như chị biết, thằng con trai tui năm 45 bỏ nhà theo Việt Minh, rồi tới năm 53 nó đành đoạn theo “mấy ổng” đi tập kết. Con dâu tui nổi sùng giao hai đứa con nó cho tui rồi bỏ lên Lèo lấy chồng khác. Tui lo làm vườn, làm rẫy nuôi hai con cháu còn cha mẹ đầy đủ mà hoá ra côi cút kia. Nhờ trời thương Phật độ, tụi nó mạnh cùi cụi, lớn mau như thổi.
Con chị Ngọc Hạnh thôi học sớm để đi làm sở Mỹ. Chỉ có con em Ngọc Hiền thì còn đi học năm thứ nhứt đại học Sư phạm. Chèn ơi, Mỹ đang rục rịch muốn rút về nước nên con Ngọc Hạnh lo lắm. Nó lo kiếm thằng chồng Mỹ để nương dựa. Nó nói:
– Thằng Ðít (Dick) muốn cưới con. Con qua Mỹ rồi sẽ lo giấy tờ rước nội và con Hiền qua luôn.
Mẹt mẻ ông bà ông vải, tiên nhơn tổ đường ơi! Mỗi tiếng nói của nó là một phát súng cà nông nã vào đầu tui làm tui xây xẩm tối tăm mặt mũi. Chị nghĩ coi, hồi nó mới đẻ, má nó đi buôn bán giao nó cho tui. Tui nuôi cháu bằng sữa Con Chim, sữa bột chớ tui đâu có nuôi nó bằng máu hoè mà nó ngu dại đòi lấy cái thứ râu rìa, mắt mèo, mũi lõ đó! Tui rống lên khóc. Con Ngọc Hiền cũng khóc theo. Xời ơi, con Ngọc Hạnh mọc lông mọc cánh rồi, đủ vi đủ kỳ rồi nên nó muốn bay bổng, lội xa ra mái nhà của nội nó. Tui biết lỗ tai nó điếc rồi, đâu có để lời than van khóc lóc của tui lọt vô…
Vậy mà rồi tui cũng đến nhà thờ Tin Lành để dự đám cưới con cháu nội bất hiếu của tui. Tên thằng cháu rể Phiên bang Rít-sa (Richard) gì đó, vậy mà sao bạn bè cùng con vợ nó lại Ðít hổng biết! Con Ngọc Hạnh cũng đổi tên MỹOăn-đa (Wanda) nghe kỳ hết sức.
Con Oăn-đa Ngọc Hạnh tùng phu về xứ Huê kỳ để lại cho bà nội nó 20 lượng vàng làm vốn nuôi em. Tui nai lưng bán sinh tố, lưng mỏi, mình rêm mà nào dám bỏ phế việc bán buôn.
Con Ngọc Hiền lớn lên coi bộ có duyên và mướt hơn con chị của nó. Nó lên năm thứ ba rồi sanh sứa theo bọn sinh viên phản chiến trong trường, nay đi họp mai đi quay truyền đơn biểu ngữ, có khi gần tới giờ giới nghiêm mới chịu về nhà. Tui lui cui hâm cơm canh cho nó ăn rồi rút vô bưồng, cứ nghĩ tới đường kia nỗi nọ mà ứa nước mắt.
Con Ngọc Hiền coi bộ nghiêm trang, cười không hở răng vậy mà có cặp mắt mời trai chị Tám à! Chòm xóm nói nó trinh không ra trinh, dâm không ra dâm, chém chết cung mạng nó không có sao Ðào Hoa thì cũng có sao Hồng Loan chiếu chi đây nên tui lo lắm chị Tám! Lo nó giống như con Ngọc Hạnh, lấy một tên Phiên tặc to lớn dình dàng thì chết tui.
Nhắc tới con Ngọc Hạnh tui càng thêm thương, thêm buồn không cầm được nước mắt. Dẫu cỏn nỡ bỏ bà nội và em để theo thằng chồng Phiên tặc về nước, dẫu nó chê tên cha mẹ đặt cho, lấy tên Mỹ mẽo chăng nữa, nhưng nó gởi tiền, gởi quà về cho tui đều đều. Chèn ơi, mỗi bức thơ gởi về Xóm Gà là nó than thở nhớ nhà, nó rống nó kêu chỗ nó ở nào là mùa đông tuyết ngập tới gối, mùa hè thì nóng như cái lò bát quái luyện linh đơn và ẩm ướt làm cho da thịt nó nhơn nhớt như bôi keo. Nó chụp hình màu gởi về. Tui dụi mắt mấy lượt, vái trời mình thấy lộn, để khi nhìn lại sẽ thấy con cháu nội cưng của mình bận áo dài. Nhưng mà không. Con nầy đâu còn là Ngọc Hạnh nữa, nó là Oăn-đa rồi mà.
° ° °
Chị Tám, tui coi bộ thời cuộc găng dữ đa chị. Ỏ ngoại ô thì bom đạm tơi bời, pháo kích ầm ĩ; ở thành thị thì biểu tình tùm lum. Ðó đây, truyền đơn bươm bướm phơi xác đầy đường, lâu lâu đạn cay ứ nghẹt từng góc phố góc đường. Con Ngọc Hiền vắng nhà hà rầm. Tui già cả, quê mùa bù trất chuyện thời cuộc nên cứ lo thủ phận mần ăn.
Một buổi chiều nọ, con Ngọc Hiền thỏ thẻ:
– Nội à, có một anh sinh viên trường quân y để ý thương con. Mai sau, ảnh ra làm bác sĩ, vinh diệu vô cùng..
Tui mừng quýnh, nghĩ rằng nhờ phước đức ông bà, nhờ mồ mả tổ tiên nên có người đàng hoàng tử tế đòi cưới nó. Thằng sinh viên trường quân y kia là dân Bắc kỳ di cư, mặt mày coi phải thế thanh niên, ăn nói mềm mỏng, nhỏ nhẹ, hễ mở miệng ra là thưa cụ, đóng miệng lại là kính cụ, thấy thương hết sức! Tui mới hỏi con cháu nội:
– Mầy gặp nó ở đâu? Dịp nào?
Con Ngọc Hiền cười chúm chím, cặp mắt ướt rượt coi giống mấy con đào thủ vai Phàn Lê Huê, Mộc Quế Anh, Ðoàn Hồng Ngọc…thứ gái được vua chúa, cha mẹ, bà thầy thánh mẫu nuôi cho nên vai nên vóc rồi trở mặt phủi ơn để theo trai nước cừu địch…Sao tui ghét mấy con lủng đó quá trời!
Gạn hỏi hoài tui mới rõ con cháu nội tui trời biển lắm đó chị Tám! Té ra phản chiến gì nó! Họp hành, xuống đường, dự đêm không ngủ là nó cốt tìm dịp kiếm chồng. Con nầy khôn trật đời! Tuy tui có bần dùn về kiểu kiếm chồng dị hụ đó, nhưng nghĩ tới thằng cháu rể mai sau làm bác sĩ quân y là tui mát dạ mát gan. Rồi tui đâm ra hối hận. Trước kia, khi thấy cỏn cùng lũ bạn gái dượt mấy bản phản chiến là tui tức mình tức mẩy, nóng phổi, ngứa gan. Có lần tụi nó xúm lại đờn địch rầm rĩ rồi cất giọng eo éo:
Máu ai đây?
Xác của ai?
Giòng máu này là bạn?
Thây ma nào là thù?
Ô hay chỉ là người,
Cùng tiếng nói Việt Nam…
Chu choa ơi, tụi nó hát tới hát lui, dượt đi dượt lại làm mụ già trầu nầy bắt thuộc lòng. Tui ghét quá, phang mạnh: “Máu của con nào thì con đó biết. Mỗi tháng bây biết đều đều, khéo làm bộ hỏi nhau rằng máu ai đây?” khiến tụi nó mắc cỡ, xẻn lẻn giải tán…
Thôi từ đây tui cũng nhẹ thở. Rồi đây con Ngọc Hiền sẽ làm bác sĩ phu nhơn. Tui ra sức o bế thằng hổ bôn tiểu tặc Bắc kỳ. Tui nấu suông đặc ngừ tôm quết nhuyễn đỏ ối. Tui đổ bánh xèo, nhưn bánh đầy tôm thịt, nấm rơm. Tui nấu canh chua cá bông lau với khóm, tui lựa cá rô mề để kho tộ, tui nấu cơm gạo nanh chồn, thơm ngát xóm trên lừng xóm dưới…Tiểu tướng Bắc kỳ chắc lưỡi hít hà khen ngợi làm tui mát bụng, lá gan nở bự như cái quạt, xả thân mẹo dậu kho nấu chiên xào cho thẳng.
Sau đám hỏi, con Ngọc Hiền chí thú học hành nên tốt nghiệp đại học Sư phạm, đi dạy tại một trường trung học bên Phú Lâm. Có nghề nghiệp trong tay, được một ý trung nhơn tốt mã, con cháu nội tui yêu đời lắm nên cứ chót chét véo von tối ngày. Sáng sáng nó theo bài hát mở đầu chương trình gia binh phát thanh, rống lên: “Mừng cho đôi uyên ương, sống vui vầy trăm năm hạnh phúc…” Hay quá! Chẳng những con Ngọc Hiền hát ra tiếng mà tui đây cũng hát thầm để chúc cho con Oăn-đa Ngọc Hạnh lỡ lấy thằng Ðít thì lấy luôn, đừng lạng quạng mà gặp cảnh ba chìm bảy nổi; cho con Ngọc Hiền sẽ được thằng chồng Bắc kỳ tưng tiu, không ép vợ ăn rau muống, không mời vợ xực mắm tôm mà chỉ khuyên vợ chơi năm ba chân hụi. Có vậy nếp nhà mới không bại xuội, vợ chồng mới thuận thảo đề huề.
Vậy mà gần tới ngày đám cưới, không hiểu mắc mớ gì mà con Ngọc Hiền cứ ong ỏng ca: “Giờ thì cũng yêu mà yêu với chồng…” hoặc “Thôi hết rồi, em đã về vui với người, ta xa nhau rồi” khiến tui phải la:
– Con nhà tử tế thì phải hát bản vui tươi, lời nhạc có đạo lý, lẽ đâu tối ngày mầy lại nghêu ngao mấy bài ôn dịch nghe mà xuội bại tứ chi, bủn rủn tâm trí đó!
Rồi đó tui nhận được thơ của con Oăn-đa than thở kêu nhớ nhà, chung quanh không có kẻ đồng chủng. Linh tính của tui sao mà nhạy, coi vèo con quỉ đó hết mê Ðít mê Khu rồi chị ơi! Nó muốn nhảy lăng ba vi bộ gì đây!
Thơ trước vừa nằm trong ngăn tủ kéo chưa đầy một tháng thì thơ sau tới, con Oăn-đa báo tin nó vừa kết hôn với thằng Mỹ khác, lớn tuổi hơn thằng Ðít nhưng là bác sĩ có phòng mạch. Thì ra, khi viết thơ trước, cỏn đã lôi thằng Ðít ra toà xé giấy hôn thú từ bốn tháng trước. Thằng chồng mới của nó tên là Uy-li-âm mà nó biểu kêu là Biêu cho gọn. Thiệt tui xẩu mình con cháu lớn nầy quá trời quá đất. Nó hết dại nầy sang dại khác. A thần phù lấy Mỹ là đã trét tro trét bùn lên mặt tui. Lỡ lấy rồi còn không chịu ăn đời ở kiếp với chồng lại ôm cầm sang thuyền khác làm tui thêm nhục.
Tấm hình chụp hôm con Oăn-đa Ngọc Hạnh tái hôn ngó mà ớn óc. Nó bận áo voan, ôm bó bông hường liếc qua thằng chồng mới tóc vàng như rơm khô, mắt xanh lè như mắt mèo. Chèn ơi, bởi cặp mắt với nụ cười đó mà đờn ông chịu khiếp phục để nó vo tròn bóp mép đó đa!
Hồi trước, khi thằng con trai tui dắt con vợ nó ôm bụng chửa chình ình về trình diện tui, thấy cặp mắt con đó là tui bủn rủn, bàng hoàng rồi. Gái mà có cặp mắt đó đâu có đợi đàng trai cầm trầu cầm cau cười hỏi. Nó thấy trai là xáp vô bày bát quái trận hoặc mê hồn trận để chim trai. Nó vác bụng chửa về nhà chồng dẫu không cưới hỏi mà không hề ngại ngùng, hỗ thẹn. Con Ngọc Hạnh với con Ngọc Hiền lựa nét lẵng của mẹ tụi nó mà giống. Con Ngọc Hạnh lựa hai, giống má nó cả cặp mắt lẫn nụ cười; con Ngọc Hiền đỡ hơn, chỉ giống má nó ở cặp mắt. Thiệt tình, con chị đi trước nêu toàn gương xấu nên tui chỉ còn kỳ vọng ở con em.
° ° °
Chị Tám, chèn đét ơi, ai mà dè chị em mình có ngày sống trên đất Mỹ rộng minh mông nầy? Chị ở Tây Nam, tui theo lũ cháu ở Ðông Bắc. Tui đâu có dè tụi Cộng sản nuốt trộng miền Nam rùm rụp vậy! Vợ chồng con Ngọc Hiền bắt đủ mọi đường dây để lánh nạn quỉ đỏ, đuơng thèm lo lắng cho tui. Bửa 30 tháng 4, tui ra bến tàu kiếm tụi nó, lòng chết điếng. Rồi tui bị lớp sóng người đẩy văng tuốt lên cầu tàu. Tui la, tui khóc, muốn tháo lộn trở lại mà không được. Tàu rời bến, tui hét lên chết giấc.
Khi tới đảo Gam (Guam), tui bật ngửa ra, gặp con Ngọc Hiền có mặt ở đó trong lớp người di tản. Thì ra trong lúc quính quáng, nó chợt nhớ tới thằng mèo cũ vốn là sĩ quan hải quân làm trong phòng tâm lý chiến ở căn cứ Bạch Ðằng, nên xin tháp tùng theo, nỡ bỏ chồng lại.
Nó ỏn ẻn hứa hẹn:
– Qua Mỹ, con sẽ cố sức vận động để đem chồng con qua.
Miệng nói nhỏ nhẹ mà cặp mắt ướt rượt của nó rà qua thằng hải quân! Thằng nầy cao lớn, trắng trẻo mắt sáng mày thanh, ria mép tỉa mỏn, coi bộ sáng hơn thằng cháu rể Bắc kỳ của tui. Chị Tám ơi, cặp mắt ướt rượt kia đã dắt con mẹ tụi nó đi xa, qua tuốt bên Lèo, đẩy con Ngọc Hạnh mới chưa đầy bốn năm từ vòng tay thằng Ðít tới thằng Biêu. Rồi cũng cặp mắt đó theo thời cuộc, đẩy con Ngọc Hiền vào cảnh thay chồng, quên nghĩa tào khang.
Trời ơi, ngay trên đảo, con Ngọc Hiền đã bỏ bê tui, đánh đôi đánh đọ với đủ thứ đàn ông, vầy cuộc đờn ca hát xướng. Con cháu nội tui đó, tuy giọng nó không chát không chua nhưng lên cao thì tét, xuống trầm thì nghẹt, vậy mà mơ làm ca sĩ. Nó hăm he hễ đặt chơn tới Mỹ là đi tìm thầy luyện giọng. Cũng trong thời gian hai bà cháu ở đảo, con Ngọc Hạnh lo làm giấy để rước bà nội và em về thủ đô Hoa Thịnh Ðốn.
Thiệt tình tui tưởng dù có đánh đôi đánh đọ hát xướng với bọn đờn ông, con Ngọc Hiền vẫn là của riêng của thằng hải quân nọ. Ai dè một bữa nọ, nó đem một tên mập mạp rậm râu sâu mắt tới giới thiệu:
– Thưa nội, anh Hát đây trước kia là giám đốc trung tâm băng nhạc Sơn Ca và cũng là nhạc sĩ. Ảnh muốn cưới con…
Tui bợ ngợ:
– Còn thằng chồng mầy kẹt bên nhà thì sao?
Nó cười gằn, mắt đổ hung quang:
– Hôm nay con xin thú thiệt với nội. Thằng chồng Bắc kỳ của con, trước ngày mất nước một tuần nó đã tò vè được con ông chủ tàu đánh cá ở Phú Quốc. Thằng con trai ổng cũng là sĩ quan hải quân tại đó. Chồng con chịu đi theo gia đình ông ta, bỏ con ở lại.
Nó trình cho tui coi bức thư tạ lỗi vợ của thằng cháu nội rể trời đánh kia.
Khi tên rậm râu sâu mắt đi khỏi, tôi mới hỏi:
– Còn ông quan ba hải quân thì sao đây?
Ngọc Hiền cười cười:
– Thì vẫn là bạn bè. Ảnh có vợ rồi. Vợ ảnh quốc tịch Pháp. Từ hai năm rồi bả qua Pháp để trị bịnh suy nhược thần kinh. Bả có viết thơ nói sẽ làm giấy bảo lãnh ảnh qua Pháp.
Hứ! bạn bè gì kỳ cục vậy? Từ hôm qua đảo tới lúc dẫn tên cựu giám đốc trung tâm băng nhạc tới trình diện tui, con Ngọc Hiền ở miết trong lều tên đại úy hải quân. À, thì ra nó đền ơn đáp nghĩa ân nhân và trả đũa thằng chồng bạc bẽo của nó bằng cách đó! Tui khờ khạo lắm chị Tám à. Thời cuộc dồn dập xảy tới tui trở tay không kịp. Trên đảo thiếu thốn tiện nghi, vừa nhớ nước nhớ nhà lại vừa khốn đốn thói đi ngang về tắt của con cháu đàng điếm khiến tui tê điếng, không biết tính sao nữa. Những ngày đầu tui thèm trầu cau muốn khóc, riết rồi cũng quen. Ðêm đêm dưới mái lều, tui trằn trọc. Ðời bà già đã gần 70 bỏ xứ ra đi, còn hy vọng gì? Bỏ làng quê một lần, bỏ xứ thêm một lần nữa, tấm lòng đã hao hớt hơn phân nửa. Chong mắt nhìn hai con cháu ăn ở trái luân thường đạo lý, tui không hiểu mình còn dựa điều gì mà sống đây? Ánh trăng mờ sương bên ngoài lọt kẽ lều đến chỗ tui nằm, đưa tui vào giấc chiêm bao có những cây cau phơi bẹ xạm nắng, những nọc trầu lá ửng lấp lánh dưới trăng. Từ vườn cau, vườn trầu, tui gặp lại biết bao nhiêu khuôn mặt bà con chòm xóm ở quê nhà. Tui thấy lại những chiếc lu, khạp bể liệng dưới gốc cây da che mát miếu thổ địa. Tui thấy cảnh chợ quê, duới bến chợ ghe lúa, ghe khoai, ghe mắm đậu lển nghển. Ðặc biệt nhứt là chiếc ghe chở đồ gốm như lu hũ, cà ràng, hoả lò, nồi ơ, chén dĩa…
° ° °
Con Ngọc Hạnh bảo lãnh bà nội và em về thủ đô Hoa Thạnh Ðốn. Nó dọn cho tụi tui một căn ở dưới từng trệt, lúc đầu tui cứ gọi là tầng địa huyệt. Từng đó cũng đầy đủ tiện nghi, có cầu tiêu nhà tắm, có chỗ phơi quần áo. Nó còn mua cho tui ba cái lồng chim, mỗi lồng nhốt bốn con cùng giống, véo von cho vui nhà.
Tui quên cho chị hay, bữa đón tui và con Ngọc Hiền ở sân bay, con Ngọc Hạnh có mang theo hai thằng cả chồng mới lẫn chồng cũ. Ðít, Biêu có vẻ thuận thảo lắm. Con Ngọc Hạnh đứng giữa hai thằng Mỹ, vóc nó nhỏ thó khác nào con gà tre đứng giữa hai con gà cồ. Con quỉ sống nầy bày cảnh gia đình ông Táo sao chớ! Thằng Ðít cứ xà quần theo con Ngọc Hiền, còn cỏn thì như nhồng lột lưỡi, nói thôi tía lia.
Mỗi ngày con Ngọc Hiền và tui lụm cụm leo ba bực thang để lên nhà bếp nấu ăn cho vợ chồng thằng Biêu. Nhưng tui phải làm theo chỉ thị của con Ngọc Hạnh là không được kho thịt cá vì mùi nước mắm sẽ thấm vào thảm, vào màn cửa. Thằng Biêu mê chả giò, tôm lăn bột chiên, gỏi gà, cà ri…Nó kêu tui bằng “gờ-răng-ni” (granny) coi bộ cũng tử tế. Tui tuy 68 tuổi rồi nhưng nhờ vận động nhiều nên tay chơn cứng cáp, làm bếp còn sõi lắm. Qua xứ nầy, coi bộ con Ngọc Hiền khó làm bà, bởi đó tui khuyên nó tập làm bếp. Nó nhún vai, mắt ngó lên tấm hình con ca sĩ Mỹ tóc chải như lông nhím mà cặp mắt ướt rượt. Tui sợ quá chị Tám ơi! Cái thằng cựu giám đốc hãng băng nhạc ở Cali cứ gọi điện thoại cho con Ngọc Hiền đều đều. Tui sợ con nầy bỏ chị bỏ bà qua Cali để làm ca sĩ hết sức.
Quên, tui chưa kể với chị, từ hôm có con Ngọc Hiền, thằng Ðít mỗi tuần đều lái xe cả 50 mai (miles) đến thăm con em vợ cũ. Cỏn coi bộ cũng ưa thằng cựu anh rể. Con Ngọc Hạnh thì không nói không rằng nhưng có vẻ khuyến khích hai đứa. Do đó mà con Ngọc Hiền vắng nhà hà rầm. Tui lo quá, cứ than thở hoài. Con Ngọc Hạnh cười:
– Kệ nó nội ơi! Nó lớn rồi. Ở cái xứ nầy, con cái trưởng thành là tự chọn bạn chọn bồ, chọn chồng, chọn vợ. Thằng Ðít coi cũng xứng với con Hiền. Nó tử tế, dễ thương. Nó mà cưới con Hiền thì con mừng lắm.
Tui trợn mắt:
– Nó tử tế, vậy sao mầy lộn nài bẻ ống bỏ nớ?
Nó có vẻ buồn buồn:
– Tại vì con không làm tròn bổn phận chăn gối với nó. Chuyện gối chăn lắt léo lắm. Con đành trả tự do cho nó. Con vẫn thương yêu nó như thương yêu thằng Biêu, có điều là thằng Biêu dịu dàng, kiên nhẫn, hạp với con hơn. Lại nữa…
Thôi, thôi, nó càng nói tui càng hổng hiểu gì ráo! Tui già cả đầu óc đã mù mịt, giờ càng đen đậm đen đặc như đêm ba mươi. Chuyện gối chăn giữa vợ chồng với nhau mà con nầy cũng đem ra nói. Chồng mình không ưng bụng về chuyện đó thì phải tìm cách làm đẹp lòng chồng, có lý đâu lại bỏ chồng để lấy chồng khác? Chị Hai tui hồi xưa, sau hai lần sanh nở khó khăn, liền cưới vợ bé cho chồng. Thời buổi nầy, đờn ông lấy vợ bé thì kỳ cục lắm nhưng nếu mình không làm đẹp lòng chồng là mình phạm lỗi rồi. Bỏ chồng để lấy chồng khác thì chỉ có mấy con Hạ Cơ, Tuyên Khương, Võ Chiếu mới làm nổi chuyện đó.
Nằm đêm nghĩ lại, tui thấy mình tuy vậy cũng còn có phước hơn mấy ông già bà cả di tản qua đây bị con cái bỏ bê không thèm ngó ngàng tới lui hoặc bị bỏ vô nhà dưỡng lão. Hai con Ngọc của tui sớm xa cha mẹ nên đeo dính bà nội từ nhỏ. Qua đây tụi nó có bè có lũ riêng nên không đeo theo tui như chầu xưa nữa nhưng vẫn chịu khó đưa tui đi mua trầu, mua cau, mua dầu cù-là Trung cộng, thuốc Bắc loại cao đơn huờn tán; chở tui đi giao thiệp với ông già bà cả người mình trong viện dưỡng lão. Duy có điều con Hạnh không cho tui kho cá kho thịt hay chưng mắm.
Tại nhà dưỡng lão, tui gặp một bà người Huế nói tiếng Nam sành sỏi. Nghe đâu bả là cháu nội của quan đại thần hồi trào vua Ðồng Khánh. Chồng trước của bả là hoàng thân, vốn là thày dạy của thái tử Bảo Long. Ông hoàng chết, bả tái giá với ông nhạc sĩ dòng dõi quan quyền gì đó ngoài Bắc. Hồi xưa bả là ca sĩ nổi tiếng tên là Minh Loan, sau đó nghe đâu bị suyễn nên mất giọng và chức đệ nhứt nữ danh ca của bả mới chuyền qua cô ca sĩ được thiên hạ kêu là “tiếng hát trường cữu”. Giờ đây bả tuy già mà lưng thẳng như cây cau, dáng dấp thon mảnh, đi nhẹ nhàng và vùn vụt như gió. Gặp bả, tui thẹn phận mình quê mùa, chữ trét chưa đầu lá mít vậy mà bả chịu khó nghe tui kể chuyện cà kê dê ngỗng, cười từng chập. Bả kêu tui bằng chị, xưng em. Rồi đó mỗi tuần bả tự lái xe tới thăm tui, chở tui đi mua đồ, đi chơi. Nhận thấy bả thành thiệt, không làm phách, tui mến bả, làm món ngon mời bả.
Bà Minh Loan có tám đứa con, đứa nào cũng ca hay đờn giỏi nhưng không ai theo nghề ca hát hết, chỉ lo làm ăn bồi đắp gia đình. Còn con Ngọc Hiền của tui thì giọng hát ngang ngang mà sanh sứa mơ làm ca sĩ, hễ ban tổ chức buổi trình diễn văn nghệ nào mời là nó nhảy lên sân khấu liền một khi làm tui khổ tâm hết sức!
Con Ngọc Hiền đi tới đâu là có thằng Ðít phò tá tới đó. Nó săn đón kỹ quá, riết rồi con Ngọc Hiền ở miết nhà anh rể cũ. Tuy có buồn bực, tui cũng vái trời cho nó lấy thằng Ðít phứt cho rồi. Lấy Ðít là nó còn ở đây, đôi ba bữa tui còn thấy mặt nó, làm món ngon vật lạ cho nó ăn.
Ðều đều bà Minh Loan vẫn lui tới thăm viếng, an ủi tui. Bả nói tụi trẻ thời nay không giống tụi mình, thôi cứ để tụi nó sống theo ý, dẫu có vấp ngã thì tụi nó lại đứng dậy, làm lại cuộc đời dễ dàng. Mà cũng lạ, tại sao bả với tui, người học thức, kẻ quê dốt mà lại hạp nhau? Bả chở tui về nhà cậu con trai bả, đãi tui một bữa cơm có cá lụn vụn kho tiêu và canh cải nấu tôm khô ngon thần sầu. Tụi Mỹ đời nào chịu húp canh nấu tôm khô, bởi đó ở nhà con Ngọc Hạnh, tui đâu được ăn món nầy.
Chiều thứ sáu tuần đó, vợ chồng con Ngọc Hạnh đi nghỉ mát ở xa, hẹn tối chúa nhật mới về. Một bà trong viện dưỡng lão có cho tui một nửa hũ mắm sặt. Bà Minh Loan bèn đưa tui ra chợ Việt Nam mua rau thơm, giá sống, cà tím, nấm, cá hồi, tôm đông lạnh về làm món mắm và rau. Hai chị em cùng hai bà bạn già khác thưởng thức món ăn quê nhà vô cùng hả hê, khoái lạc.
Ai dè sau bữa ăn đó tui gặp nạn. Thằng Biêu vừa vô nhà là la rùm lên. Con Ngọc Hạnh hơ hải hỏi:
– Có phải nội kho mắm không? Thằng Biêu nó nói có con chuột hay con gì đó chết sình nên mùi thúi bay tùm lum đây nè….
Nghe qua tự sự, thằngBiêu đem quần áo ra ở khách sạn. Tui và con Ngọc Hạnh xịt đủ thứ dầu chanh, dầu cam, dầu sả mà mùi mắm quái ác vẫn lẩn quần trong nhà. Túng thế, tui điện thoại gọi bà Minh Loan. Bả bảo:
– Chị cứ lấy nhang thơm của chà và đốt vài nén là tẩy hết mùi. Thôi được, em có nén nhang bạch đàn đây, để em đem lại.
Mùi mắm bay đi, thằng Biêu trở về. Bà Minh Loan có gặp thằng Phiên tặc đó để giải thích. Nó đặt tay lên vai tui xin lỗi nhưng từ đó tui hết dám nghĩ tới mắm kho, mắm chưng, hết dám mơ tưởng tới thịt kho, cá kho gì nữa.
Bà Minh Loan mê bài bạc nên bả leo lên máy bay đi Cali ở với cô con gái út để lãnh tiền cấp dưỡng gấp đôi. Ở đó người Việt đông, bả sẽ mở lớp dạy ca sĩ, luyện giọng, làm một cái gì có ích hơn là đánh bạc. Hôm tiễn bả ra phi trường, mấy tay đánh bạc và tui khóc mùi. Bả hứa sẽ trở về nhưng tui biết bả về là cũng chỉ về thăm thôi rồi trở lại Cali. Nghĩ vậy mà tui ôm bả khóc ngất.
Cái ngày tui lo sợ con Ngọc Hiền bỏ bà nội đi Cali đã tới rồi, chị Tám! ThằngÐít đi trước, nó đi sau, cách nhau một tháng. Tui lấy làm lạ hỏi con Ngọc Hạnh:
– Em mầy qua bển làm vợ thằng Hát hay làm vợ thằng Ðít?
– Nó có định làm vợ ai đâu? Thằng nào cũng là bạn nó thôi nội à!
– Bạn cách nào? Tao thấy…
Ngọc Hạnh nhăn nhó
– Ối, chuyện tụi trẻ…khó nói lắm. Nội để ý làm gì cho mệt! Ít tháng nữa nội có cháu cố, xin nội cưng nó như đã từng cưng tụi con.
Cỏn có bầu rồi chị Tám à. Cái bụng nó tròn như trái dưa hấu xẻ đôi úp lên. Nghĩ tới lúc được bồng cháu cố mà tui sướng run.
° ° °
Giấc mơ ca sĩ của con Ngọc Hiền lẩm rẩm vậy mà thành đó chị Tám! Nó gửi hình, gởi tấm chương trình về cho tui và cho chị nó hà rầm. Trong hình nó nhuộm tóc vàng như trét cà-ri rồi không biết nó thoa vuốt cách nào mà từng tép tóc nó chĩa ra như lông nhím. Nó còn thoa son môi màu tím như màu cà dái dê, đánh phông mắt đỏ hoét, đeo vòng chuỗi nặng cả ký lô, mặc áo hở ngực hở vai …coi lạ hoắc. Ca sĩ Giên Ngọc Hiền đó đa! Nó biểu hát nhạc trẻ thì phải có tên Tây tà mới hạp.
Con Ngọc Hiền có vẻ yêu đời. Nó ở chung với thằng Ðít nhưng đi lưu diễn với thằng Hát, nghe đâu được hoan nghinh lắm. Mới đây nó theo phái đoàn lưu diễn của thằng Hát trở về Hoa Thạnh Ðốn trình diễn, nghe đâu là chương trình nhạc trẻ một trăm phần trăm, tụi nhỏ ưa lắm. Tui dẫu già cả, quê dốt nhưng cũng mua giấy để coi con Giên tui hát hỏng ra sao.
Chèn ơi, chị Tám! Không hiểu mồ mả ông nội của hai con Ngọc có bị trâu dẫm, bò đạp, heo chó phóng uế hay không mà mả bị động khiến lũ cháu gái mất nết hư thân. Con Giên tuy không dám loã thể trên sân khấu nhưng nó chế ra cái áo giống như cái áo lá, để chừa một khoảng bụng lòi cái lỗ rún thật sâu đựng cỡ một muổng cà phê nước mắm. Cái quần của nó thiệt lạ đời: xì-líp không ra xì-líp, quần cụt không ra quần cụt. Quần bằng nhung đen, thêu con dơi bằng kim tuyến ngay chỗ giữa cặp đùi. Quên nữa, cái áo hở bụng của nó cũng bằng nhung đen, ôm tròn cặp vú, thêu từng vòng tròn ở chỗ lồi của vú. Mèn ơi, áo quần mà thêu kiểu đó có khác nào réo gọi khán giả rằng: “Mấy người hãy coi đây!”. Ngộ hén! Ca sĩ trình diễn là để mời khán giả thưởng thức giọng hát chớ có lý đâu mời họ nhìn và tưởng tượng mấy thứ bửu bối của đờn bà nằm dưới con dơi và những vòng tròn thêu kim tuyến đó!
Con Giên vừa ỏng ẹo bước ra, lũ choai choai thôi huýt sáo, rít tu hít từng tràng dài. Tui nhục nhã biết để đâu cho hết, chị Tám! Khi hát nó ưa xoay lưng lắc lắc cái mông thiếu điều dện vô mặt khán giả. Rồi khi quay mặt lại là nó nẩy người lên, chàng hảng chê hê coi thiệt là tục tĩu, vô phép tắc. Vậy mà lũ trẻ coi bộ thích lắm, hoan nghinh như sấm. Tui và bà bạn già bỏ ra về, ở coi cho hết chương trình càng thêm nhục! Tới chỗ bán băng nhạc, tui tò mò nhìn vô. Tui bị quáng mắt hay thông manh đó chăng? Cái băng nhạc có cái nhãn in hình cô nữ ca sĩ trần truồng nguyên con là ai vậy? Ðầu óc tui đảo lộn, tui ngã quị xuống như cây chuối bị đốn. Có tiếng nói văng vẳng:
– Ca sĩ Giên Ngọc Hiền đó đa bà con. Cổ là cháu nội bà Năm Xóm Gà chớ ai!

 

Bà Năm Tơ Hồng

Tôi còn nhớ trong xóm tôi có bà Năm Tơ Hồng. Tên thật là bà Năm Lương nhưng vì bà thích làm mai làm mối nên chòm xóm kêu bà là bà Năm Tơ Hồng. Thuở đó, bà Năm Tơ Hồng đã năm mươi tuổi, nhưng bà trẻ dai, coi như khoảng ba mươi ngoài. Bà ăn mặc tươm tất, áo lụa quần lãnh hoặc áo xuyến trắng quần xá xị, quần sa-teng, quần lục soạn, coi khác hẳn mấy bà lam lũ trong xóm. Bà Năm Tơ Hồng ưa đi chùa và có mặt thường xuyên ở các đám tiệc, đám giổ, cúng thôi nôi…trong xóm hoặc các làng lân cận.
Bà Năm sống bằng nghề cho vay ăn lời rẻ và làm đầu thảo mấy chơn hụi. Bà có biệt tài lựa kẻ chơi hụi nên không bị úp hụi bao giờ. Nhờ lui tới giao thiệp chỗ nầy chỗ nọ, từ nơi giàu sang tới chốn hạ tiện trong tỉnh nên bà buôn bán cẩm thạch, hột xoàn chút chút, gọi là để cầu vui. Qua câu chuyện, người mới đến xóm tưởng đâu bà chỉ thuộc hạng trung lưu, đủ ăn đủ tiêu vậy thôi. Ai dè có đến nhà bà mới thấy cảnh bài trí xuê xoang hực hỡ: tủ cẩn, đi-văng chân qùy, choé độc bình bằng sứ lâu đời, lư hương, chân đèn bằng đồng, liễn son, liễn mun nổi chữ thếp vàng…Bà Năm cười khiêm nhượng:
– Tui có cái vỏ bề ngoài chớ cái ruột trống lốc hè. Bà con coi thấy bàn ghế tủ thờ toàn bằng gổ nu, cẩm lai là bởi của ông bà để lại, “hù” láng giềng lối xóm vậy mà!
Lâu lâu bà đeo nữ trang. Gặp kẻ chắc lưỡi hít hà, bà làm bộ nhũn nhặn:
– Ối, có gì đâu, của thiên hạ nhờ tui bán giùm kiếm chút huê hồng đó đa! Nè, thím coi cái hột xoàn nầy đi. Năm ly hai, nước trắng tím, lại tra chiếc vỏ bạch kim nên nó chiếu còn hơn sao Nam Tào Bắc Ðẩu nữa. Thím mua chiếc cà rá nầy đeo vô là chú sắp nhỏ có mấy con vợ bé cũng bỏ tuốt để ở nhà hủ hỉ với thím. Ừa, hay là thím để dành cưới vợ cho thằng con trai đầu lòng của thím, có bảnh hơn không?
Thiệt tình, chẳng ai biết việc làm của bà có xuôi chèo mát mái hay không, nhưng về chuyện làm mai thì hễ bà nhúng tay vào chỗ nào là chém chết ít lâu có chuyện gả cưới ở chỗ đó.
Bà Năm Tơ Hồng thường tuyên bố:
– Tui mát tay làm mai lắm. Tui mà xe duyên cho đám nào thì họ ăn đời ở kiếp với nhau, phu xướng phụ tùy. Gặp mấy thằng con trai thuộc hạng “đâm cha chém chú, lắc vú chị dâu, cạo đầu bà thím” tui cũng ghép được với mấy con “cắn cơm không bể, cắn tiền bể hai”. Tuy hai đàng thuộc hạng trời ơi đất hỡi vậy mà khi họ ăn ở với nhau rồi thì sắt cầm hảo hiệp, chí thú làm ăn, nên cửa nên nhà.
Bà Năm quả có biệt tài làm mai lắm. Làng xóm ai cũng tin miệng lưỡi của bà. Bà có óc quan sát, có cặp mắt nhắm tướng người. Một hôm bà gặp cô Sáu Ngọc Huệ cặp rổ đi vào rẫy mua rau. Cô gái hơi mảnh khảnh nhưng da trắng mịn như cánh hoa ngọc lan, đôi mắt đen láy nổi bật trên khuôn mặt trái soan.
– Nè Sáu, con được mấy tuổi?
Cô Sáu Ngọc Huệ nghiêng cây dù màu đỏ, sắc đỏ dưới nắng trải lên gò má mịn màng của cô một màu hồng tươi đẹp. Cô nhỏ nhẹ:
– Thưa má Năm, năm nay con được mười bảy tuổi.
– Chèng ơi! Con nhỏ nầy trổ mã coi được đến! Sáu à, con chịu lấy chồng không con? Ðể má Năm làm mai cho con nghen con?
Cô Sáu Ngọc Huệ mắc cỡ kiếu từ, đi một nước vô rẫy. Hôm sau, bà Năm Tơ Hồng tìm cách lân la tới nhà ông bà giáo Hạt, song thân cô Sáu Ngọc Huệ. Nhà ông giáo Hạt ở gần khúc quanh Long Hồ, giữa khu vườn trồng ổi xá-lỵ sum sê. Ông bà có cậu trưởng nam tên Hai Hiếu, ăn học thành tài, hiện làm giáo sư toán. Nhưng năm cô con gái kế trước kia làm ông bà lo lắm. May nhờ có bà Năm Tơ Hồng mà ông bà gả trôi cô Ba Ngọc Lan cho một thương gia Minh hương, gả cô Tư Ngọc mai cho một thầy giáo dạy lớp tiếp liên, gả phăng cô Năm Ngọc Cúc cho thầy giám thị trường công lập tỉnh. Vừa khi cô Năm đi lấy chồng thì cô Sáu Ngọc Huệ cũng bắt đầu trổ mã.
Hôm đó cô Sáu Ngọc Huệ đi vào xóm thâu tiền hụi và mua bún, bánh hỏi để dọn bữa trưa cho khách. Mỗi khi có bà Năm Tơ Hồng tới chơi, ông bà giáo Hạt mừng lắm, nhứt là từ khi cô Sáu Ngọc Huệ và cô Bảy Ngọc Lựu ra vẻ thiếu nữ trong chiếc áo dài màu xanh da trời. Hai cô mà luộc đầu heo, lỗ tai heo để ăn với bún, bánh hỏi, rau sống, mắm nêm thì khỏi chê. Miếng thịt luộc vừa mềm vừa giòn, lại trắng phau phau. Dĩ nhiên cái bí quyết luộc thịt đó do bà giáo Hạt truyền cho con gái được giữ kín. Mỗi khi chị em cô luộc thịt thì cả hai lo đóng cửa trước, ngõ sau cẩn thận, sợ có kẻ ăn cắp nghệ thuật luộc thịt gia truyền.
Bà Năm Tơ Hồng súc miệng bằng chén nước trà huế pha lợt, rồi cất giọng:
– Thầy giáo Cảnh năm nay được hai mươi bốn tuổi, người thiệt thà. Thẩy có được rảnh rang là chúi đầu vô sách luyện thi tú tài toán chớ không sanh sứa cờ bạc, rượu chè. Nếu chị với anh giáo bằng lòng thì tui dắt má thẩy lại. Má thẩy có một sở vườn bốn mẫu trồng cây trái, huê lợi mỗi năm cũng khá, lại thêm mười mẫu ruộng tốt ở miệt Lộc Hoà, cách chợ Vãng mười bảy cây số.
Bà giáo Hạt têm một miếng trầu đưa cho bà Năm Tơ Hồng:
– Ờ, con Huệ tui cũng như con của chị. Chị liệu coi chỗ nào tử tế gả nó dùm. Nhưng mà….- Bà giáo Hạt thấp giọng- thầy giáo Cảnh vóc vạc cao lớn, cười có lúm đồng tiền coi cũng có duyên. Có điều thiên hạ đồn rằng tía thẩy vốn lai Chà Và Châu Giang. Bà nội củ thẩy trước kia xinh tốt như tiên nga, kén chồng dữ lắm. Có thằng Chà Và Châu Giang giàu có muốn cưới bả, chẳng những bả không ưng mà còn nhiếc mắng người ta. Thằng Chà Và bèn dùng bùa ngải mê hoặc, rù quến bả tới nước bả có chửa, rồi đẻ ra ông già tía của thầy Cảnh. Chị Năm không thấy sao, nước da thầy Cảnh đen hù, giống như da ông nội thẩy vậy.
Bà Năm Tơ Hồng nói:
– Ối, hơi nào nhắc gốc tích người nầy người nọ, chị giáo! Tía của thầy Cảnh tuy lai Chà Và nhưng là người đàng hoàng, làm công chức ở Kho Bạc, chớ có thua sút ai đâu!
Bà giáo Hạt nói xuôi:
– Ờ, chị nói cũng phải. Song tui cũng cần hỏi lại con Sáu coi nó có ưng không. Thời buổi nầy tụi trẻ khó tánh lắm chị ơi. Lai nữa ông nhà tui thường nói “ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên” đó chị Năm.
Bà Năm cười chúm chím:
– Ai mà thèm ép! Cứ nói phải quấy cho tụi nó nghe cũng đủ rồi. Chị để đó tui. Lưỡi của tui đây nè, ngọt như mật, trơn như mỡ. Tui chỉ nói vài tiếng là đá cũng phải mềm nữa là.
Mâm cơm dọn lên. Ông giáo Hạt cũng vừa ở ngoài vườn bước vào. Vừa thấy bà Năm, ông vui vẻ:
– Ðêm qua có đom đóm vô nhà, tui biết thế nào cũng có điềm lành. Té ra bữa nay chị Năm tới chơi.
Bà Năm Tơ Hồng cười hắc hắc:
– Chớ sao, tui tới đâu là đem chuyện vui tới đó. “Thứ nhứt đom đóm vô nhà, thứ nhì chuột rúc, thứ ba hoa đèn” tức là ba điềm hên đó đa anh.
Hai vợ chồng ân cần mời bà Năm ngồi vào mâm. Bà giáo Hạt hỏi cô Sáu Ngọc Huệ:
– Con Bảy làm giống gì mà cứ lúc thúc trong buồng hoài vậy? Biểu nó ra đây chào hỏi má Năm đi chớ.
Cô Sáu Ngọc Huệ trở vào buồng. Một lát, hai chị em cô bước ra. Cô Bảy Ngọc Lựu tròn trịa, xinh xắn. Môi cô tươi, răng cô trắng, cườm tay cô no nưỡng, trắng phau phau, đeo đôi vòng cẩm thạch màu xanh hoa lý.
Bà Năm Tơ Hồng hỏi:
– Con Bảy đây hả chị giáo? Năm nay nó được bao nhiêu tuổi vậy chị?
– Ờ, con Bảy Ngọc Lựu đó đa! Nó mười sáu tuổi rồi đó. Tui sanh năm một mà chị.
Bà Năm Tơ Hồng ngắm nghía cô gái, tấm tắc:
– Da trắng, tóc mịn, tay chân suông đuột, môi đỏ au…Chèng đéc ơi, con nhỏ nầy có thua sút chị nó chỗ nào đâu! Mắt lại lá răm nữa. “Con mắt lá răm, chơn mày lá liễu đáng trăm quan tiền”. Ðể tui làm mai giùm chị, chị chịu không chị giáo?
Bà giáo Hạt nói:
– Thì mình lo cho con Sáu xong rồi sẽ tính việc chung thân cho con Bảy.
Bà Năm Tơ Hồng ngon lành:
– Tui có thể làm mai một lượt một trăm đám. Nè, có thầy y tá tên Quỳnh, làm việc ở nhà thương chợ tỉnh, mới có hai mươi lăm tuổi, mặt mày sáng sủa, tánh tình dễ chịu, lại bặt thiệp nữa…Chị biết thẩy không? Thẩy ở dãy phố bà Thông Vịnh đó…
Bà giáo Hạt cười nửa miệng, môi chỉ hé một nửa hàm răng hô:
– Tui cứ lúc thúc trong nhà lo việc bếp núc, đâu có đi ta bà mà biết hết dân tứ xứ mới tới.
Cô Bảy Ngọc Lựu ngứa miệng:
– Con biết thẩy mà. Thẩy mập mạp, trắng như bạch chảng, coi ghê quá!
Bà Năm Tơ Hồng quở:
– Ê, đừng nói tầm bậy nà. Thời buổi nầy khó kiếm ông chồng trắng trẻo, bảnh trai lắm nghe con. Mà từ da trắng muốn làm cho da đen dễ ợt hè. Con cứ bắt thẩy trồng bông kiểng, trồng rau, phơi mình ngoài nắng chừng vài cữ là da thẩy sậm sòi chớ gì.
Mặt cô Bảy vẫn phụng phịu:
– Trắng gì mà trắng như heo cạo. Dẫu thẩy có phơi một trăm cữ nắng thì da thẩy bất quá đỏ thén như mồng gà lôi chớ làm sao mà sậm được!
Bà Năm Tơ Hồng:
– Má Năm cam đoan với con đó. Kỳ hè vừa rồi thẩy đi Vũng Tàu nghỉ mát, da thẩy bắt nắng, coi cũng mặn mòi như ai….
Cô Bảy Ngọc Lựu chỉ cười tủm tỉm không cải nữa. Bà Năm Tơ Hồng hỏi cô Sáu Ngọc Huệ:
– Nè Sáu, má Năm định làm mai con cho thầy giáo Cảnh. Con nghĩ sao đây?
Cô Sáu ngập ngừng:
– Thưa má Năm, thầy giáo Cảnh nào?
– Thầy Cảnh con ông Hát, trưởng kho bạc đó con.
– Có phải cái thầy đen như cột nhà cháy đó không?
– Thẩy đó đa. Thẩy tuy đen đúa nhưng tướng tá mạnh dạn, mặt mày khôi ngô.
Cô Sáu Ngọc Huệ vặn vẹo cái khăn mù-soa trong tay:
– Ý cha, lấy thẩy làm chồng, đố con khỏi bị tụi bạn nó chế nhạo là lấy nhằm ông thần lọ nghẹ hoặc Uất Trì Cung, Hà Ô Lôi…
Bà Năm Tơ Hồng dễ gì chịu thụt lùi trước sụ vùng vằng của cô gái. Bà dỗ ngọt:
– Con nhỏ nầy sao mà dại! Trai đen đúa mới có duyên chớ bộ. Mầy khéo kén cá chọn canh hoài đi, rủi hụt con cá lớn, sẩy con tôm bự thì chừng đó đừng có chắc lưỡi mà tiếc nghe con! Chưa chi mà con chê người ta thiếu điều….muốn ngộp hơi tắt thở vậy đó.
Dù có chê bai kẻ bà Năm Tơ Hồng định làm mai, nhưng đêm đó cả hai cô gái cứ rạo rực, khó ngủ. Cô Sáu Ngọc Huệ từ chiều đã tắm rửa bằng xà-bông cô Ba thơm ngát. Cô bận quần áo trắng lên trung đường đốt đèn, thắp nhang, thay nước trong mấy bình bông sen, bông huệ. Cô lầm thầm khấn vái rất lâu trước bức tranh đức Quán Thế Âm bồ tát. Vừa khi cô vào buồng thay quần áo ngủ thì cô Bảy Ngọc Lựu bận áo tràng màu khói nhang đến bàn thờ Phật Bà. Cô triệt hạ dĩa quít, xuống bếp lấy mận và ổi đơm vô dĩa khác để cúng Phật. Dù cây nhang bạch đàn mà chị cô vừa thắp chưa lụn, cô vẫn đốt thêm cây nhang trầm hương. Cô khấn vái lâu hơn cô Sáu Ngọc Huệ và lạy như tế sao.
Vừa về tới buồng, cô Bảy bắt gặp cô Sáu đang rọi kiếng. Cô Sáu Ngọc Huệ hết nặn mụn tới xỉa răng, rồi chải đầu. Chải đầu xong, không biết làm gì hơn, cô Sáu kéo hộc tủ lấy củ nghệ chấm lên mấy vết mụn vừa mới nặn.
Cô Bảy Ngọc Lựu đương thèm săn sóc tóc da. Da của cô thuộc loại mịn màng. Tóc cô nhỏ sợi, thuộc loại tóc mật, bỏ xoã ngang lưng coi thiệt là thơ mộng.
Dù sao hai chị em cũng phải tính chuyện đi ngủ, vì khóm dạ lý bên hè bắt đầu toả hương thơm ngát tức là gần nửa đêm rồi.
Cô Bảy Ngọc Lựu cứ than dài thở vắn. Cô Sáu Ngọc Huệ cứ ngó mông ngọn đèn. Rốt cuộc cô chị lên tiếng trước:
– Con hà bá, bộ mầy ăn không tiêu hay sao mà cứ thở nghe bắt mệt vậy?
Cô em cười:
– Còn chị, bộ đau bụng máu hay sao mà cứ xăng văng hoài, không chịu đi ngủ cho khoẻ?
Cô Sáu thu dọn gương lược vô cái hộp tròn:
– Nè Bảy, mầy thấy …thầy Cảnh ra sao?
Cô Bảy Ngọc Lựu lúc nào cũng muốn chị mình lấy ai thì lấy phứt cho rồi, để ba má cô tính tới phần cô. Cô nói:
– Ðờn ông đâu cần đẹp trai. Thầy Cảnh có sống mũi cao, lưng dài, vai rộng, vóc vạc cân đối.. Thẩy có tương lai trước mặt, có quá khứ tốt lành sau lưng, ở đó mà chê bai thẩy rồi đèo bòng nọ kia. Chị sao ưa thói thả mồi bắt bóng!
Sáu Ngọc Huệ vốn thích lấy chồng trắng trẻo, nho nhã. Nhưng mà cái thầy Quỳnh trắng gì mà trắng lạnh trắng lùng, coi nhột mắt làm sao! Nghe giọng chua lè của em, cô hăm he:
– Coi bộ ba má chíp cái thầy Quỳnh đó rồi đa! Thây kệ, Bảy à! Mặt mày thẩy dù không có mặn mòi nhưng cũng hiền hậu. Duyên phận đã định rồi, mầy có chạy đàng trời cũng không tránh khỏi. Chạy trời không khỏi nắng, Bảy ôi!
Cô Bảy Ngọc Lựu bứt rứt:
– Thầy Quỳnh đâu có tóc đen như người Việt mình. Tóc thẩy hoe hoe đỏ, chắc là giống bạch chảng chứ gì!
Cô Sáu mở hộp thuốc tể, lấy một viên cỡ viên bi đen óng và bát ngát mùi mật ong, nhai nhỏ rồi chiêu một ngụm nước trà. Thấy cô gầy gầy nên cô Ba Ngọc Lan bổ cho cô một tể thuốc có tác dụng làm kinh nguyệt điều hoà. Kinh nguyệt của cô Sáu khi trồi khi sụt như nước thủy triều nên thỉnh thoảng bà giáo Hạt làm món gà ác tiềm sanh địa hay trái tim heo chưng với châu sa, thần sa cho cô ăn. Vậy mà cô chẳng lên được kí-lô nào. Còn cô Bảy dẫu chỉ ăn một hột cơm vẫn không ốm bớt một gờ-ram.
Cô Bảy Ngọc Lựu nhìn bóng trăng lồng ngoài khung cửa sổ, thở dài một cái sượt. Cô Sáu Ngọc Huệ háy:
– Con nầy kỳ cục chưa? Lấy chồng mà nó làm như bị….xử bắn vậy!
Cô Bảy tức mình:
– Chồng con nỗi gì nà. Em chưa kịp lớn để lấy chồng, nay có má Năm a thần phù tới bày chuyện mai mối! Bộ chị tưởng lấy chồng rồi mình nhắm mắt về nhà chồng hay sao? Còn phải chuẩn bị tinh thần nữa chớ. Bô chị hổng lo hay sao, chị Sáu?
Cô Sáu trề môi:
– Ối, lo làm gì cho hao hơi tổn sức, Bảy! Tới đâu hay đó. Có khi mầy tính một đàng, kết quả một nẻo.
Cô Bảy nhìn ngọn đèn lom lom:
– Cha chả, còn cái đêm tân hôn nữa! Chừng đó mình sẽ….tính cách nào đây?
Cô Sáu mắng:
– Ðồ khùng nà! Mầy khỏi cần tính, lúc đó thầy Quỳnh sẽ….tính cho mầy.
Cô Bảy “hứ” một tiếng ghét bỏ:
– Rủi thẩy…không chịu tính thì sao?
Cô Sáu cười ngất:
– Thì …tới phiên mầy tính.
Cô Bảy cùn quằn:
– Thôi, em không thèm lấy chồng đâu. Hổng có tính toán gì ráo trọi á.
Cô Bảy thay một đồ mát bằng sa-teng xanh dịu rồi chui vô mùng. Cô xoay mặt về khung cửa sổ, hỏi chị:
– Còn chị, trong đêm tân hôn, chị tính sao?
Cô Sáu cười:
– Tao hả? Tao sẽ….nhắm mắt.
– Nhắm mắt hả họng phải không?
– Ừa, tao sẽ nhắm mắt đưa chân, thử xem con Tạo xoay vần đến đâu.
– Rủi con Tạo không chịu xoay vần thì mới làm sao?
– Chừng đó sẽ hay. Mầy quên một điều là ở đời nầy đâu phải ai cũng nhút nhát như mầy.
Cô Bảy hỏi gặng:
– Nếu…con Tạo không xoay vần thì chị phải tính chớ?
Cô Sáu Ngọc Huệ mắng:
– Cái con ôn dịch nầy sao mà ăn nói trặc trẹo quá! Ừa, chừng đó tao sẽ tính một cái rụp.
Vốn có óc tò mò thiệt bự, nghe tới đây cô Bảy Ngọc Lựu lồm cồm ngồi dậy, hỏi dồn:
– Ðâu? Chị tính cách nào, nói em nghe chơi.
Cô Sáu Ngọc Huệ ngon lành:
– Chừng đó tao sẽ xách va-ly về nhà nầy.
Cô Bảy rít lên hai tiếng “Tưởng gì!” rồi nằm xuống. Chưa giập bả trầu mà cô Bảy đã ngáy pho pho. Cô Sáu ngớ đăm đăm về phía em, lắc đầu nghĩ thầm: “May mà nó lo mà nó còn ham ăn ham ngủ như vậy đó! Hèn chi ông bà mình nói tụi nhỏ ăn chưa no lo chưa tới…”
° ° °
Ðời làm mai hễ càng gặp khó khăn là càng thích chí, vì có dịp đem miệng lưỡi ra thuyết phục đôi bên trai gái. Bà Năm Tơ Hồng thường tuyên bố như vậy. Bởi đó, bà cứ trau giồi miệng lưỡi của mình cho càng ngày càng tinh vi, điêu luyện hơn.
Về phía thầy giáo Cảnh, thầy cho rằng cô Sáu Ngọc Huệ hơi gầy, hơi khô. Nhận xét của thầy vừa thoát ra cửa miệng bị bà Năm Tơ Hồng chận liền:
– Con gái lúc chưa chồng thì nó ốm gầy. Chừng đẻ xong vài lượt, máu huyết thay đổi, mình mẩy nó sẽ phốp pháp chớ gì. Cháu có thấy vợ thằng Tám Kéo không? Hồi chưa chồng, nó ốm như cây tre miểu, mình mẩy chỉ có da bọc xương. Vậy mà khi đẻ xong đứa con so, nó mập mạp tròn trịa, da trắng tóc dài, ai thấy cũng lấy làm lạ, cũng khen om sòm.
Ba má thầy y tá Quỳnh sẵn sàng làm suôi với ông bà giáo Hạt vì hai bên đều môn đăng hộ đối. Thầy Quỳnh thì chê cô Bảy Ngọc Lựu hơi mập. Bà Năm Tơ Hồng thuyết phục:
– Ối, con gái mập mạp là tướng vượng phu ích tử đó đa cháu. Như con Bảy Ngọc Lựu, vì là con út được tía má nó cưng chiều, chỉ ăn rồi lo việc thêu đan, sung sướng lắm. Chừng nào nó về với cháu, nó phải lo bếp núc cùng trăm thứ việc nhà, có cực khổ lo lắng là nó ốm bớt đi liền, cháu khéo lo!
Dầu đôi bên chê khen lẫn nhau, dẫu đàng trai và đàng gái không mấy hài lòng về phương diện sắc vóc, bà Năm Tơ Hồng vẫn trổ tài thuyết phục để hai cái đám cưới được cử hành vào tháng giêng năm sau. Thầy giáo Cảnh muôn đời giữ màu da đen, cô Sáu Ngọc Huệ thì không mập thêm chút nào. Vậy mà họ yêu nhau rất mực. Cô Sáu Ngọc Huệ thường nhìn chồng nói giỡn:
– Chắc hồi có chửa anh trong bụng, má anh uống thuốc bắc, ăn chè đậu đen hơi nhiều nên da anh đen quá là đen.
Thầy giáo Cảnh vuốt ve vợ:
– Chắc lúc má em mang em trong bụng, bà ăn cá lòng tong nên em ốm nhom ốm nhách. Phải chi bả ăn cá rô mề, ăn thịt gà thiến thì em sẽ mập mạp dễ thương hơn.
Màu da thầy Cảnh đối với cô Sáu Ngọc Huệ không thành vấn đề từ sau tuần trăng mật. Nó như đứng ngoài bờ rào nhân dạng đầy nam tính của chồng cô. Khi thầy bị sốt rét, thiếu máu, nó trở thành màu mắm. Khi thầy phục sức, hồng hào nó trở nên màu tương tàu. Cô không cần nhìn nó nữa. Cô chỉ thấy ở chồng mình một thân thể dẻo dai, ngập tràn sức sống, óc khôi hài tế nhị, nụ cười cởi mở, bao dung.
Về phía thầy Cảnh, thầy chỉ thấy vợ mình tuy mảnh mai nhưng thân thể mềm mại. Cái yếu ớt của cô đã gợi nơi thầy một sư che chở đầy âu yếm của đấng trượng phu.
Bà Năm Tơ Hồng hài lòng lắm khi thấy cặp vợ chồng nầy yêu thương, hoà thuận. Hễ mua được món quà nào đặc biệt, họ cũng kính biếu bà. Mùa xoài, mùa mận, mùa quít, mùa vú sữa, mùa ốc gạo, mùa chim…Mùa nào thức đó, họ tặng bà đủ các món quà quê hương.
Còn thầy Quỳnh và cô Bảy Ngọc Lựu thì sao? Mỗi xế chiều, thầy Quỳnh thích ra sân vận động để dợt đá banh. Thầy chỉ mặc cái quần cụt nên nước da thầy tiếp xúc với nắng nhiều, trở nên nâu hồng. Ðường banh của thầy khá điêu luyện, nhờ đó hội banh của thầy đã từng thắng hội banh tỉnh Sa Ðéc một cách vẻ vang trong kỳ so tài năm ngoái. Còn cô Bảy Ngọc Lựu vì sợ chồng chê nên không dám ăn uống xô bồ xô bộn. Thân thể cô bớt mập, trở nên tròn lẵn.
Vợ chồng Quỳnh dọn về xóm Cầu Ðào, gần miểu Quan Thánh Ðế Quân. Cô Bảy Ngọc Lựu tỏ ra một người nội trợ xuất sắc. Thầy Quỳnh có nhiều dịp thưởng thức món đầu heo, lỗ tai heo luộc ăn với bánh hỏi rau sống mắm nêm do vợ làm. Nhiều lúc trong cơn chăn gối mặn nồng, cô Bảy Ngọc Lựu nhìn màu da nâu hồng nắng táp của chồng, thỏ thẻ:
– Hồi xưa, khi má Năm tính làm mai anh cho em, em lỡ dại chê anh trắng như con heo cạo.
Thầy Quỳnh ve vuốt đôi vai tròn của vợ, nhìn tấm lưng thon của vợ, thú thiệt:
– Anh cũng vậy. Hồi đó anh chê em mập tròn như con cá bống mú.
Bà Năm Tơ Hồng vui lắm. Gặp chòm xóm láng giềng bà khoe inh ỏi:
– Bà con thấy chưa? Tui nói đâu là trúng đó. Cứ coi thầy Quỳnh và con Bảy Ngọc Lựu… Thiệt xứng đôi vừa lứa. Hồi chưa lấy con Bảy, thẩy trắng ngó mà phát ớn, còn con Bảy thì mập như trái xoài tượng. Bây giờ chồng thì mặn mòi, coi bảnh trai hết sức. Còn vợ thì liễu yếu đào tơ, thiệt đúng là một cặp tiên đồng ngọc nữ. Họ nồng nàn với nhau quá xá cỡ. Tui làm mai mát tay thiệt mà. Chắc kiếp trước tui là đồ đệ của ông Tơ bà Nguyệt đó đa.
Và để chấm dứt sự khoe khoang rất chi là dễ thương của mình, bà chìa tấm ảnh cô Hai Kim Tuyến con của ông bà Bang biện Thuận ra khoe:
– Cô nầy đang kén chồng đây. Cổ học trường Sư phạm ở Thầy gòn. Tui nhứt định làm mai cổ cho thầy đốc công sở Trường tiền tên là Trương Anh Tuấn. Bà con coi họ có xứng cặp với nhau hay không?
Trong ảnh, cô Hai Kim Tuyến đứng bên chậu thược dược, mặt nghiêng nghiêng, miệng cười, mắt liếc có vẻ hớn hở lắm.. Bà Năm Tơ Hồng chắc lưỡi hít hà:
– Thiệt là dễ thương! Hèn chi hồi xưa có một ông thi sĩ nào đó vịnh một mỹ nhơn khi cổ đi dạo vườn huê, xem bông kiểng: “Người ngọc bên hoa, hoa ửng sáng. Hoa cười bên ngọc, ngọc thêm trong”. Hai câu thơ nầy vịnh cô Hai Kim Tuyến thiệt là không uổng cái hay, cái đẹp của thơ và nhứt là không phụ cái nhan sắc mặn mòi của cổ.
° ° °
Thưa bà con độc giả xa gần. Trải qua bao lớp sóng phế hưng của lịch sử, trải qua bao cuộc thăng trầm của tổ quốc, không ngờ mùa xuân năm ngoái tôi có dịp gặp lại bà Năm Tơ Hồng tại chùa Khánh Anh trên đất Pháp. Năm nay bà trên bảy chục tuổi, răng cỏ sệu sạo, tóc bạc như phết vôi, ấy vậy mà sắc mặt bà sáng hồng, mắt đưa đẩy theo câu chuyện dù da mặt bà đã nhăn, vai bà co rút. Tôi hỏi:
– Sao bà qua bên đây được? Ði chánh thức theo quốc tịch Pháp hay đi vượt biên?
Bà Năm Tơ Hồng cười hắc hắc:
– Tui đâu có phải là dân Tây. Tốn mười hai lượng vàng mới được ông chủ tàu đánh cá ở Rạch Giá cho đi hùn đó. Tui đi với vợ chồng thằng Hứa. Cậu còn nhớ nó chớ?
Hứa là con trai độc nhứt của bà. Anh ta làm thợ bạc nổi tiếng về việc tra kim cương vô vỏ bạch kim, mãi tới bốn mươi ngoài mới lấy vợ. Chòm xóm đồn rằng Hứa đi hỏi đám nào là đàng gái chạy tét vì Hứa ăn nói vô duyên. Mẹ làm mai nên con trai mất duyên! Sau cùng Hứa đi cưới cô Sâm vốn gái lỡ thời, ốm tong teo như cây sậy, trái với thân hình mập núc của Hứa. Khi ăn ở với nhau, cô Sâm béo đẹp ra, còn Hứa thì rắn chắc lại.. Cả hai cùng yêu đương, thuận thảo lắm. Bà Năm Tơ Hồng làm mai đám nào cũng suôn sẻ, trơn tru, nhưng tới khi đi hỏi vợ cho con lại phải trầy vi tróc vảy mới cưới được cô gái ế chồng, lạt nhách như cơm nguội cho con.
Bà Năm Tơ Hồng khoe:
– Bây giờ tui mộ đạo lắm cậu à. Chúa nhựt nào tui cũng lên mấy chùa làm công quả. Tui cũng làm áp phe chút chút. Cậu coi ai muốn mua cẩm thạch thì nhớ liên lạc với tui nghe không?
Bà cho tôi số điện thoại rồi dặn:
– Thằng Hứa làm thợ bạc chắc cậu chưa quên. Ai có san hô, mã não, hổ phách, ngọc lựu, ngọc miêu nhỡn, ngọc huyền…muốn tra vỏ bạc, vỏ vàng thì cũng cứ phone theo số điện thoại đó.
Tôi hỏi bà còn tiếp tục làm mai nữa không, bà vỗ vai tôi, cười tít mắt, nói ngon lành:
– Vẫn tiếp tục chớ cậu. Tui thương cho mấy cậu thanh niên, mấy cô gái bơ vơ xứ người mà chưa có đôi bạn. Phải tìm cách “xe duyên chỉ thắm” cho họ để họ đẻ con cho đông, một khi kéo về nước là tấn công tụi cộng sãn một cái rụp để kéo tụi nó xuống địa ngục chầu thằng cha Bác Hồ của tụi nó.
Tràng cười dòn khấm khướu của bà chấm dứt câu nói. Trước khi chia tay bà còn dặn tôi:
– Có rảnh lại tui chơi nghen cậu. Con cháu vợ của thằng Hứa đẹp như đào Thanh Nga hiện cũng đang kén chồng. Cậu lại đàng tui chơi đi. Nó mà nấu canh chua cá “đô-rát” cho cậu ăn là cậu mê liền…

***

 

Chén trà, cây bút và một ngọn đèn

Nếu chúng ta chỉ biết tới những văn nghệ sĩ mà không nói tới những người làm văn hoá, những ký giả…tôi e thiếu sót, và bất công nữa là khác.
Và hôm nay nắng hạ đang trở về từng bừng trên lá cây bạch dương, trên những mặt tiền xám của các khu chung cư, trên mái ngói đỏ, trên những chùm trái anh đào chín mọng…
Nắng càng gay gắt, tôi càng nhớ anh Nguiễn Ngu Í. Mỗi năm vào mùa nóng nực, cơn điên trở về với anh. Anh chạy long nhong từ nhà văn hữu này sang nhà bạn văn kia, độc thoại thôi liên tu bất tận. Có nhiều lần chị Thoại Dung, vợ của anh, phải kiếm anh hụt hơi để đưa đi dưỡng trí viện Biên Hoà.
Đã nói tới anh Nguiễn Ngu Í, tôi không thể quên ký giả Lê Phương Chi, người em kết nghĩa của anh Ngu Í. Cả hai viết ký sự về văn học rất hay, phỏng vấn văn nghệ sĩ thật tuyệt. Anh Ngu Í có khuyên tôi một câu để đời:”Muốn phỏng vấn văn nghệ sĩ cho hay là phải đọc nhiều sách báo, đọc rồi phải suy nghĩ …”. Sống trên đất Pháp, vào tối thứ sáu lối 9 giờ, tôi thích xem cuộc hội thoại giữa ký giả Bernard Pivot với tác giả các tác phẩm vừa trình làng trong tuần trên đài truyền hình Authène 2 . Nhìn Bernard Pivot, tôi nhớ tới anh Ngu Í và anh Phương Chi, hai ký giả tận tâm yêu nghề, mê đọc sách và có kiến thức sâu rộng.
Về sau, khi vào quân đội, qua Tô Thùy Yên, tôi biết thêm ký giả Lô Răng Phan Lạc Phúc. Ông giữ mục tạp ghi trên nhật báo Tiền Tuyến , viết rất linh hoạt về đủ mọi đề tài: văn chương, sân khấu, ca nhạc, điện ảnh , chính trị, xã hội, phong tục …Có một thời gian ông vắng mặt, nhà văn Thanh Tâm Tuyền viết thay nhưng không tạo được cái không khí hấp dẫn nồng mặn như ông .
Một ký giả lão thành có kiến thức thâm hậu về văn hoá là cụ Văn Lang Trần Văn Ân, chủ nhiệm kiêm chủ bút tập san Đời Mới , một trong hai tạp chí có giá trị của miền Nam thời thập niên 50 (tập san kia là tờ Nhân Loại do Đông Hồ chủ trương )
Vậy thì hôm nay, tôi sẽ viết về Nguiễn Ngu Í, Lê Phương Chi, ký giả Lô Răng Phan Lạc Phúc và cụ Văn Lang Trần Văn Ân.
Nắng bên ngoài phai dần. Mãi đến 11 giờ đêm, bóng tối mới chịu trở về. Tôi lại ngồi vào bàn viết, đối diện với thếp giấy trắng. Thôi thì , tôi phải viết, tự mình bắt buộc mình, dù có cảm hứng hay không , về những ký giả thượng thặng kia. Mười lăm năm qua rồi, nếu tôi chần chờ, không chịu ghi lại, tôi sẽ quên ráo khi tuổi già bắt đầu lấp ló bên kia cầu nhân sinh.
Đã có thếp giấy nõn nà, hãy cho tôi một chén trà, một cây bút và một ngọn đèn . Quá khứ dẫu có lùi vào cõi xa xăm, tôi sẽ bắt nó sống dậy trên từng dòng chữ. Và tôi thấy lại chặng đời đó, khoảng năm 1964, sau khi Ngô Triều sụp đổ, cơn khủng khoảng chính trị ở miền Nam đất nước bắt đầu trầm trọng. Đó là lúc Văn Lang tiên sinh vừa được phóng thích, từ Côn Đảo trở về; Nguyễn Ngu Í đang làm chấn động văn giới bằng loạt bài phỏng vấn đăng trên bán nguyệt san Bách Khoa.
Vào mùa hè năm 1987, tôi không đi nghỉ hè ở đâu cả. Rồi tháng tám trôi qua, tôi cảm thấy mất thăng bằng tâm lý dữ dội . Trong nội giới của tôi, từng trận dao động làm đêm đêm tôi mất ngủ, khoác áo lạnh đi lang thang trên những con đường vắng ngắt; đi như mê, đi trong cơn bán mộng du cho đến khi ý thức được sự hiện hữu cùng nỗi đau khổ của mình tôi mới trở về nhà, thiếp đi trong giấc ngủ nặng nề và cơn hồi hộp.
Có lẽ tôi cần thay đổi không khí. Và nhân dịp tháp tùng theo người bạn đi Vannes, một tỉnh lỵ ven biển vùng Bretagne, tôi quyết định sẽ ghé thăm nhà chí sĩ Văn Lang Trần văn Ân hiện đang cư ngụ tại Rennes, một thành phố to lớn với những kiến trúc bằng đá cực kỳ tráng lệ.
Văn Lang Trần Văn Ân là cựu ký giả, là nhà cách mạng và cũng là cựu cố vấn tổng thống Thiệu, một kẻ sĩ thanh liêm trong chế độ tham nhũng và một người rất ưu tư về văn hoá. Tôi kính mến tiên sinh không hẳn vì ông là người tiết tháo vì tôi vốn ít quan tâm đến chính trị. Lý do chính vì ông là bạn thân của nữ sĩ Song Thu, kế mẫu của ba tôi. Những năm sau cùng của bà Song Thu, chính tiên sinh đã cấp dưỡng, giúp đỡ bà cho tới ngày bà mệnh chung vào cuối xuân 1970.
Đã quyết định, tôi liền điện thoại cho Văn Lang tiên sinh. Bốn năm qua, ông đã tái hợp với phu nhân và cậu con thứ chín. Mỗi ngày tiên sinh miệt mài dịch thơ Đường ra Việt ngữ, dịch thơ mình ra Pháp ngữ, sáng tác truyện dài, truyện ngắn…Chính phu nhân sắp xếp các bản thảo rồi đánh máy, trình bày từng tập rất đẹp cho tiên sinh.
Một ngày u ám đầu tháng chín, chúng tôi lên đường . Khởi hành từ sáng sớm, đến 2 giờ chiều chúng tôi mới đến Rennes, gỡ cửa nhà Văn Lang chí sĩ.
Phu nhân mở cửa chào đón. Bà còn trẻ , độ năm mươi ngoài. Lúc đó tiên sinh đang ngồi viết miệt mài tại bàn tròn. Ông mừng rỡ, bảo tôi lễ bàn thờ tổ Hùng Vương, gần bàn thờ Phật. Nơi đó có bản đồ Việt Nam làm bằng thạch cao, có rồng cuốn theo chiều dài hình chữ S. Bản đồ được sơn một lớp kim nhũ lấp lánh và đóng khung gỗ chạm trổ. Sau tấm gỗ là lá quốc kỳ bằng vải. Hai bên bàn thờ tổ là cặp liễn bằng giấy hồng điều viết chữ chân phương bằng mực tàu đen lánh:

Thiên tương hoá nhật thư thanh cảnh
Thất hữu xuân phong tự thái hoà.

Với trà sen nhấp giọng và kẹo đậu phọng điểm xuyết, chúng tôi cùng nhau hàn huyên chuyện cũ. Phu nhân Văn Lang tiên sinh đem ra hai tập album gắn đầy những tấm ảnh mà tiên sinh chụp chung với các nhân vật lịch sữ Pháp Việt thời đầu thế kỷ, giảng giải cho người bạn Pháp của tôi nghe. Trong khi đó tiên sinh đọc những vần thơ đời Đường, đời Tống và những dịch phẩm mà tiên sinh đã hoàn tất.
Trong lúc phu nhân sửa soạn bữa ăn chiều dưới bếp, tôi yêu cầu Văn Lang tiên sinh kể cho tôi nghe về những nhà lãnh đạo, những chánh khách mà tiên sinh đã tiếp xúc như cựu hoàng Bảo Đại, đức thầy Hùynh Phú Sổ, các nhà ái quốc Phan văn Hùm, Tạ Thu Thâu …Tiên sinh cũng thuật lại những ngày tù ở khám lớn Côn Nôn. Ngày ấy, tiên sinh là tử tội dưới Ngô triều, không hy vọng có ngày về đất liền, nhưng chỉ đọc qua một lượt quyển Kim Cang Đại Thừa , tiên sinh đã nhiếp tâm, đã phá chấp, đạt sự khinh an. Trong khi đó, học giả Hồ Hữu Tường đã ngã lòng, khiếp sợ bạo quyền nên sách động các tù nhân chính trị làm thỉnh nguyện xin ân xá, rồi hoá điên, rồi mắc chứng cuồng dâm, cảnh huống rất thảm thương! Cái cuồng dâm của ông về sau còn rớt lại trong cuốn Cẩm Hồng Xuất Giá , trong cuốn Hoa Di Cẩm Trận. Tội nghiệp cho Hồ tiên sinh biết bao! Nỗi tuyệt vọng đã dồn ông vào một tình thế cay đắng, để chân tướng hoạt đầu, bần tiện của ông xuất lộ . Và sau khi Ngô triều sụp đổ, ông lăng ba vi bộ trong chính trường, bị báo chí gìỡn nhột khinh lờn, bị bà dân biểu Trần Kim Thoa lấy guốc đập lên mặt, lấy quần trùm lên đâu ! Nhắc tới cái chết của ông dưới chế độ Cộng sản, không ai là không ngậm ngùi thương xót !
Tối hôm đó tôi được Văn Lang tiên sinh chỉ điểm thêm về phương pháp toạ thiền . Tuy lên giường lúc một giờ sáng nhưng mải đọc vài chương sách của tiên sinh, mãi đến ba giờ sáng tôi mới ngủ.
Sáng hôm sau, tôi thức giấc với thần trí thanh thản như vòm trởi đẹp nắng ngoài cửa sổ. Văn Lang phu nhân đãi cả nhà món bún bò Huế trước khi chúng tôi kiếu từ để đi viếng vùng biển Vannes. Thời gian trôi nhanh, tôi tiếc mình không được gần gũi Văn Lang tiên sinh thường xuyên. Kiến thức về văn hoá và kinh nghiệm sống của ông thật dồi dào, chắc chắn ông sẽ soi sáng cho tôi nhiều vấn đề mà tôi đang suy gẫm.
Năm 1971, Tô Thùy Yên cùng nhóm nhân viên phòng văn nghệ cục Tâm Lý Chiến, kẻ bỏ công người bỏ của ra thực hiện đặc san Bông Hồng . Yên cửa tôi đi phỏng vấn các ca sĩ, minh tinh điện ảnh, các điện ảnh gia, các nhà văn nữ. Tờ báo rất đồ sộ, khổ nhật báo dày ngót nghét 160 trang do Tô Thùy Yên trình bày, đẹp lộng lẫy.
Khi giao cho tôi một ấn bản Bông Hồng còn thơm mùi mực, Tô Thùy Yên bảo tôi:”Lô Răng Phan Lạc Phúc chịu các bài phỏng vấn của cậu, nhất là loạt bài phóng sự viết về nghệ sĩ trình diễn. Ông ta khen cậu có vẻ thạo nghề”..Ngẫm lại, tự một nhà văn thất bại, tôi nhào qua lãnh vực ký giả, chỉ mới được Phan Lạc Phúc khen mà thôi .
Tôi đã gặp, trước đó, ký giả Lô-Răng Phan Lạc Phúc tại toà soạn nhật báo quân đội Tiền Tuyến toạ lạc tại tổng hành dinh cục Tâm Lý Chiến vào năm 1971. Lúc đó Thanh Tâm Tuyền, Viên Linh, Lê Tất Điều cùng làm việc ở đây . Khác với Thanh Tâm Tuyền, Viên Linh, Hoài Điệp Tử, Nguyễn Khắc Nhân ..chỉ mặc thường phục đến sở, Lô-Răng mặc quân phục rất đẹp. Vóc dáng ông cao lớn, vai rộng, mặt mày phương phi.
Khi Lô-Răng cộng tác với nhật báo Tiền Tuyến, Vũ Khắc Hoan, Mai Thảo cùng Nguyễn Đình Toàn đến viếng ông luôn. Họ “binh” xập xám ngay tại toà soạn; họ nhậu nhẹt cả giờ này sang giờ khác ở câu lạc bộ. Vậy mà ngòi viết của ông một khi đặt lên trang giấy là chạy thoăn thoắt như ngựa phi, từng ý tưởng sâu sắc như gió táp mưa sa trải lên trang giấy. Có một lần ông viết về kỷ niệm hương hoa bưởi đăng trên tạp chí Vấn Đề do Vũ Khắc Hoan chủ trương, bài viết thật giản dị và vô cùng truyền cảm.
Ký giả Lô-Răng là người có nếp sống sung túc nhất trong hàng ngũ ký giả. Ông có năm căn phố lầu khang trang đẹp đẽ và làm chủ một tiệm vàng đồ sộ ở chợ An Đông. Nhóm cái bang văn nghệ của Vũ Khắc Hoan gồm Vũ Khắc Hoan, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Hoài Bắc, Phan Lạc Phúc, Thanh Nam. Họ nhậu nhẹt thường trực ở phòng trà Đêm Màu Hồng, ở Givral, ở La Pagode.
Lô-Răng đã có lần nhận xét về bút pháp của các nhà văn nữ thời danh như sau: Túy Hồng thông minh, Nhã Ca tha thiết, Nguyễn thị Hoàng làm dáng, Trùng Dương sống sượng, Nguyễn thị Thụy Vũ ngang ngược.
Từ năm 1971, Phan Lạc Phúc được chọn làm trưởng ban giám khảo giải điện ảnh trong giải văn học nghệ thuật toàn quốc. Trong thời gian làm truởng khối chíến tranh chính trị taị Quân Đoàn 3 (Biên Hoà) trừ những đêm ứng chiến, chiều nào ông cũng về Sài Gòn. Sáng ông chỉ uống một ly cà phê sữa điểm tâm. Trưa, một ly cà phê đen, không ăn trưa . Lúc đầu tôi nghĩ ông ta ăn theo một cái régime nào đó, nhưng sau tôi mới vỡ lẽ: ông kén ăn chỉ thích ăn những món do vợ con nấu nướng.
Làm việc ở Quân Đoàn 3, Lô Răng tỏ vẻ không thoải mái. Ông cạy cục để được về Sài Gòn . Thanh Tâm Tuyền lúc đó đang dạy trường Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt cũng đang vận động để về thủ đô. Sau cùng, vào cuối năm 1974, cả hai được thuyên chuyển về Bộ Quốc Phòng để trông coi nguyệt san quốc phòng.
Sau ngày 30.4.75, tôi tá hoả tam tinh thấy ký giả Lô-Răng còn kẹt lại. Ông mất hết phong độ, vẻ mặt dớn dác, lo lắng. Tôi hỏi thăm về các nhà văn trong nhóm Sáng Tạo, ông cho biết:”Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sỹ có đủ phương tiện để qua Guam. Tôi cũng thế. Nhưng đi để làm gì? Mình đã sinh ra trên đất nước này thì mình cũng chỉ muốn chết trên đất nước này”. Tôi nghe mà bùi ngùi cảm khái. Nhưng rồi có tin đồn rằng ông là chủ tiệm vàng, không dám ôm vàng xuống tàu qua Guam vì sợ lúc hỗn quân hỗn quan, kẻ bất lương sẽ “khoắng” hết vàng của ông .
Giờ đây ký giả Lô-Răng Phan Lạc Phúc nằm nhà chờ con cái bên Úc bảo lãnh. Xin cầu chúc ông may mắn.
Năm 1960 tôi đọc tạp chí Bách Khoa , theo dõi say mê cuộc phỏng vấn các văn nghệ cầm bút do Nguiễn Ngu Í thực hiện. Và qua một bức thư gửi cho anh qua toà soạn Bách Khoa , cuộc quen biết bắt đầu .
Anh Ngu Í không chỉ là ký giả mà còn là nhà thơ, nhà văn. Anh có tham vọng đơn giản hoá và cải tiến chữ quốc ngữ. Thay vì dùng chữ ‘y’, anh dùng chữ ‘i’: kỉ niệm thay cho kỷ niệm. Trong chữ ‘qu’, anh bỏ chữ ‘u’ : qê hương thay cho quê hương, qan trọng thay cho quan trọng. Trong chữ ‘ngh’ anh bỏ chữ ‘h’ chỉ giữ chữ ‘ng’ : ngi lễ thay cho nghi lễ …Cái ước vọng đó anh chỉ có thể thực hiện khi viết thư cho bạn bè, còn khi viết văn viết báo anh bắt buộc phải viết như mọi người. Mãi đến khi viết cuốn Quê Hương anh móoi dám dùng chữ Qê hương để làm tựa.
Nguiễn Ngu Í có nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu mà anh ưa xài nhất là Ngê Bá lí . Nghe nói Nghê là họ mẹ của anh. Bút hiệu Trần Hồng Hừng của anh ít phổ thông hơn . Có một dạo anh sáng tác chung nhiều bài thơ với Yã Hạc Nguyễn văn Trung, k1y tên là Trinh Nguiên. Tên Yã Hạc (Dã Hạc) đã cầu kỳ, tên Trinh Nguiên (Trinh Nguyên) cũng lập dị không kém, nhưng thơ của cặp Yã Hạc Trinh Nguiên thì hay lắm, không kém thơ của Đoàn Thêm và Bùi Khánh Đản.
Nguiễn Ngu Í tên thật là Nguyễn Hữu Ngư, sinh tại Hàm Tân (Bình Tuy), con một ông đồ ái quốc lỡ vận. Là cựu học sinh Trương Vĩnh Ký, anh là bạn thân của nhà nhạc học Trần văn Khê, nhà văn Bình Nguyên Lộc, học giả Hồ Hữu Tường. Với bạn bè, anh ăn ở rất chí tình . Anh đã đem ông Trần văn Khê, bà Mộng Trung (người bạn đồng hành của ông Khê) vào Bách Khoa qua loạt bài Nhạc Việt trên xứ người. Nhà văn nữ Vân Trang, Minh Đức Hoài Trinh đều do anh giới thiệu với Bách Khoa khi cả hai chưa có chút tên tuổi nào trên văn đàn.
Phu nhân nhà nhạc học Trần văn Khê là bà Nguyễn thị Sương vốn là giáo sư Pháp văn dạy Kiệt Tấn và tôi trong thời gian chúng tôi theo học trường Cao Tiểu Vĩnh Long (1949-1953). Năm 1964, tôi có dịp đến thăm bà ở đường Trần Quang Khải, bà cho biết:”Trong các bạn bè của thầy (chỉ ông Trần văn Khê), cô chỉ thấy anh Ngu Í là có lòng. Anh ấy lo lắng cho thầy nhiều, gửi sách báo qua cho thầy đầy đủ”
Anh Ngu Í cũng đã hết lời khuyên lơn ông bà Bình Nguyên Lộc nên bằng lòng để bác sĩ Tô Dương Hiệp (trưởng nam ông Lộc) cưới cô gái mà bác sĩ thương dù nhiều noi giàu sang địa vị nỏ ý muốn kết sui gia với nhà văn này. Bởi đó, ông bà Hiệp rất cảm mến anh Ngu Í. Mỗi năm, vào lúc tiết trời viêm nhiệt, khi anh Ngu Í nổi cơn thì chính bác sĩ Hiệp tận tâm săn sóc cho tới khi anh hồi phục.
Nguiễn Ngu Í đã cho xuất bản Khi người chết có mặt (1962, truyện dài), Sống và viết với …(1966, ký sự văn nghệ sĩ học giả), Hồ Thơm Nguyễn Huệ Quang Trung (1967, biên khảo), Qê hương (1969- hồi ký); và một tập truyện ngắn viết chung với vợ, chị Thoại Dung, tựa là Suối bùn reo
Chị Thoại Dung thấp người, không đẹp nhưng có học, dạy trường Aurore, chiều chồng và tế nhị. Nhưng anh Ngu Í thì yêu lung tung những nhưng đàn bà làm văn nghệ. Mối đam mê oan nghiệt nhất là tình yêu của anh đối với nhà văn nữ Nguyễn thị Hoàng. Sự đeo đuổi dai nhách của anh là chị Hoàng bực bội, phải bẳn gắt , đôi khi nói nặng mà anh vẫn đắm đuối yêu. Có dạo chị Hoàng lên Đà Lạt, anh làm bài thơ:

Mừng em giờ đã lên non
Mừng em giờ quyết bồng con đứng chờ
Thời gian cứ lướt hững hờ
Mừng em sắp đến bến bờ bể dâu
Sương ôm nắng ấp ai cầu
Mối sầu dằng dặc dễ hầu phôi pha
Trăng hờn, nước giỡn, gió ca
Thấu chăng lòng đá, lòng ta, mấy lòng?

Lại có một thời gian ngắn anh si mê Thụy Vũ qua hình ảnh, thư từ. Nhưng khi gặp mặt Thụy Vũ, anh dội ngược. Lúc đó Thụy Vũ bịnh hoạn, ốm yếu, gió thổi bay. Anh có lại nhà rủ Thụy Vũ viết truyện. Thụy Vũ từ chối:”Em bỏ nghề cô giáo làng lên Sài Gòn kiếm sống. Chưa tìm được chỗ làm vững chãi , em còn tâm trí đâu mà viết văn ? Nay mai em phải vô nhà thương để mổ hốc mũi nữa!”
Thụy Vũ bị đau mũi kinh niên, phải chịu mổ xương hốc mũi để vét nạo mủ dơ và vết nám trên xương. Cứ mỗi lần chịu giải phẩu , chị tôi phải nằm nhà thương cả tháng.
Kỳ Thụy Vũ nằm nhà thương lần thúu nhì, anh Ngu Í cũng bắt đầu nổi cơn điên. Một sáng, anh chạy xồng xộc đến nhà cô Phương Đài kiếm tôi, hổn hển:”Thụy Vũ nằm nhà thương nào? Phòng số mấy? Anh muốn đi thăm nó!”
Tới nhà thương, anh Ngu Í đâm hoảng. Thụy Vũ tóc tai xụ xọp như con ma đội mồ, mặt chè bè như cây quạt mở rộng, sưng chần dần như một tảng bánh đúc . Tuy đang lên cơn điên, nhưng vừa thấy Thụy Vũ lồm cồm ngồi dậy, anh sợ điếng hồn, vội tháo lui ra cửa, miệng hét:”Anh chúc em chóng bình phục!” Thụy Vũ ngơ ngác bước ra khỏi phòng. Anh Ngu Í hoảng hốt, hồn bất phụ thể, chạy vắt giò lên xuống cầu thang mất biệt.
Sau nầy, khi tập truyện ngắn đầu tay Mèo Đen Thụy Vũ trình làng, một buổi sáng oi bức, chúng tôi nghe tiếng mô-by-lết nổ tành tạch trước nhà. Ngó qua cửa sổ, tôi thấy anh Ngu Í mặt mày tươi tỉnh, tóc chải cẩn thận, áo quần thẳng nếp. Biết là anh chưa tới cơn, tôi mở cửa mời anh vào. Thụy Vũ vừa thức giấc, đang nấu nưóc, mời anh vào. Thụy Vũ vừa thức giấc, đang nấu nước. Chị hỏi anh ăn sáng chưa, anh trả lời đã ăn rồi nhưng giọng yếu xìu. Thụy Vũ đem khăn nhúng nước ấm mời anh lau mặt rồi sai tôi đi mua hủ tiếu và bánh bao, xíu mại, còn chị thì pha ba ly cà phê phin. Vừa ăn sáng, anh vừa kể cho chúng tôi nếp sống của các văn nghệ sĩ mà vì vừa chân ướt chân ráo vào làng văn nên chị em tôi chưa biết nhiều. Anh kể:”Trong những người đàn bà cầm bút tuổi từ 20 đến 40 hiện giờ chẳng có ai đẹp ngoài Nguyễn thị Vinh, Trùng Dương và bà Vân Trang, nhưng cũng chẳng ai xấu cả. Như Túy Hồng tươi mát, Hoàng Hương Trang ngăm đen mà có duyên. Thụy Vũ đỡ gầy nên coi mướt hơn.” Anh cố tránh không nhắc đến Nguyễn thị Hoàng.
Nguiễn Ngu Í là ngườ bất mãn kinh niên về đủ thứ: sự nghiệp, thời cuộc, lý tưởng, tình ái v.v..Anh dã làm những câu thơ trác tuyệt tặng hai đứa con khi cảm hoài ý nguyện không thành của thân phụ:
Chí ông, ba đã cúi đầu.
Mơ ba, con có ngẩng đầu không con?
Anh thích làm thơ. Thơ của anh rất truyền cảm. Trong tập Có những bài thơ của anh có một bài anh tặng Thụy Vũ khi nhìn tấm ảnh chụp hơi nghiêng của chị:
Ai thương giùm tôi cô giáo nhỏ
Khi phấn son chưa đày đoạ mặt nghiêng nghiêng.
Nếu Nguyễn thị Hoàng cảm thấy bị xúc phạm khi biết Ngu Í yêu mình thì Thụy Vũ chỉ cười hăng hắc khi đọc những vần thơ âu yếm của anh. Chị bảo:”Kệ ảnh, ảnh muốn mơ hình tưởng bóng, xây mộng dệt mơ gì đó thì cứ mặc sức. Tao có sứt mẻ, chết chóc gì đó mà sợ?”
Từ khi biết Tô Thùy Yên và Thụy Vũ kết nhau, anh Ngu Í thôi không đến thăm chúng tôi nữa. Anh chỉ ghẹo Thụy Vũ lúc trao đổi thư từ, chứ lúc gặp gỡ, anh tỏ ra đứng đắn lắm.
Năm 1977, khi định cư ở Paris, tôi được tin anh Ngu Í từ trần. Anh chết vì nghèo đói, thiếu thuốc men. Thật tình, tôi cảm thấy mừng cho anh. Dưới chế độ cộng sản, đối với anh , đa thọ chỉ đa nhục, đa gian truân. Song, gìở chồng Bách Khoa đọc lại bài của anh, tôi bỗng thương xót anh vô hạn. Anh đã gặp lắm cảnh lỡ làng khi dấn thân vào cuộc đời nghệ sĩ. Tôi như thấy lại khuôn mặt hơi thỏn, hàm răng hơi vẩu, đôi mắt lờ đờ mệt mỏi và nhất là hàm râu không cạo kỹ lởm chởm, le the quanh miệng anh. Còn cái vóc mình gầy gò khô héo của anh nữa chi! Ấy vậy mà anh siêng năng đi hết nhà văn nghệ sĩ này đến tư gia học giả khác để phỏng vấn, thăm viếng. Phải có một đam mê nào đó với văn nghệ, phải có sự tha thiết mến thương nào đó với văn giới, anh mới có thể hoạt động hăng say như vậy ..Năm 1964, tôi đến thăm anh gặp lúc anh đang cúng đầy tháng cho đứa con thứ hai. Đứa thứ nhất là con nuôi. Mãi gần 50 tuổi, tòc đã hoa râm, chị Thoại Dung mói sanh được một qúi tử. Chị Thoại Dung chậm sanh nở cũng là một mối lo lắng cho anh và anh rên siết về sự muộn màng của vợ. Nhưng khi có con rồi, anh cũng vẫn mỗi năm nổi cơn điên một lần. Cơn điên càng lúc càng dài làm anh chỉ còn da bọc xương. Anh chết đi, tôi thấy nhẹ nhỏm cho anh hơn. Anh đã để lại một sự nghiệp văn nghệ, tuy không rỡ ràng nhưng cũng đủ cho con cháu tự hào. Song cuộc đời anh bi thảm quá, sự nghiệp văn nghệ nào đủ để bù sớt được cho anh ?
Lê Phương Chi tên thật là Lê Thanh Cảnh, còn có tên là Lê Thanh Thái, cộng tác với tạp chí Bách Khoa từ năm 1960 cho đến ngày chung cuộc đau buồn của miền Nam.
Trong toà soạn Bách Khoa, kể về ban điều hành và biên tập viên thì bốn người xinh trai nhất là : Lê Ngộ Châu, Lê Tất Điều, Lê Phương Chi và Vũ Hạnh. Nhưng Lê Ngộ Châu bột quá, Lê Tất Điều gầy qúa, Vũ Hạnh thiếu đậm đà vàc cặp mày thưa quá. Chỉ có Lê Phương Chi là khôi vĩ, mặn mà nhất với màu da bánh mật hồng hào.
Anh không phải là người khoa bảng nhưng anh đọc sách nhiều. Mỗi khi phỏng vấn một tác giả nào, anh đọc gần như toàn bộ tác phẩm của người đó rồi nghiền ngẫm các tình tiết cũng như phân tích sở trường sở đoản của tác giả khiến những bài phỏng vấn của anh đang trên Tin Sách rất tươi tắn, linh hoạt, duyên dáng.
Nhiều người thường bảo Lê Phương Chi điếm đàng, riên tôi chỉ thấy anh là một ký giả có tài, có lương tâm tuy đôi lúc hơi tự tôn về vẻ điển trai của mình cũng như có khá nhiều mặc cảm tự ti về việc thiếu thốn bằng cấp.
Về chuyện ve vãn gái, anh có biệt tài bao nhiêu thì trong hôn nhân anh gặp nhiều cay đắng bấy nhiêu. Vợ anh sau khi sanh cặp gái song sinh là Lê Chi Phương và Lê Phương Chi, bỏ đi lấy Mỹ rồi theo chồng về Mỹ, đem theo cô bé Chi Phương, để lại cô bé Phương Chi cho anh. Nhưng tai hoạ lại giáng xuống năm 1973, cô bé Phương Chi qua đời làm anh già sụp xuống, tóc bạc đi nhiều.
Tôi quen anh Lê Phương Chi vào năm 1966, lúc đang học Dược khoa. Ngày ấy sau khi đọc xong cuốn Thở Dài của Túy Hồng, tôi cảm thấy thích nên viết bài Những nhà văn nữ miền NamViệt Nam gửi cho tập san Tin Sách . Đâu chừng hai tuần sau, một người đàn ông trạc tuổi 40, da ngăm đen, cao lớn, ăn mặc lịch sự, cỡi vespa đến tìm tôi. Ông ta tự giới thiệu là Lê Phương Chi, tổng thư ký tập san Tin Sách . Lê Phương Chi bảo: “Cụ Vi Huyền Đắc, cố vấn văn bút và ông Vũ Hoàng Chương, chủ tịch văn bút kiêm chủ nhiệm Tin Sách , có đọc bài viết của An, thích lắm, nên họ ngỏ ý bảo tôi đến mời An cộng tác với Tin Sách”
Thật ra Tin Sách chỉ là một bulletin khổ 20×15 dùng để giới thiệu sinh hoạt của các văn thi sĩ, giới thiệu sách xuất bản trong tháng và điểm sách. Lê Phương Chi vừa là tổng thư ký toà soạn, vừa kiêm việc trình bày, sửa bản vỗ. Tờ Tin Sách đẹp, bìa màu nhạt, ruột mỏng, nhưng cách sắp xếp bài vở gọn gàng. Tờ Tin Sách đình bản vào cuối năm 1966 vì ngân quỹ văn bút không đủ.
Khi cuốn Mèo Đêm của Thụy Vũ trình làng thì bà Nguyễn thị Nhiên, chủ nhân một cái kiosque bán sách ở đường Lê Lợi đến thăm, ngỏ ý muốn tái bản cuốn đó. Và tuy có tiền nhưng chưa thạo nghề xuất bản nên rủ chị tôi cùng hùn hạp. Suốt đêm, hai chị em tôi cứ bàn bạc tới lui, xuôi ngược. Sáng hôm sau, chị tôi đi vay bạc bà hàng xóm và bán một số nữ trang. Cò tôi và nghệ sĩ diễn ngâm Đoàn Yên Linh lên cư xá Lữ Gia kiếm Lê Phương Chi . Tôi muốn nhờ anh giữ phần trình bày sách và giao thiệp với văn nghệ sĩ để mua tác quyền.
Chúng tôi đến trước một nếp nhà khang trang xinh xăn , tường quét vôi trứng sáo, cổng gỗ màu thiên thanh, trước cửa là hai chậu sứ Thái Lan men thúy lục bóng ngời đơm hoa đỏ chói, một cây dừa lửa lùn tịt trong sân lá dài cứng cáp điểm những trái dừa nâu hồng như màu da anh ký giả họ Lê.
Hôm đó anh không có nhà, tôi đành để lại vài chữ cho cô em anh rồi từ giã ra về.
Hai hôm sau, Lê Phương Chi ra quán sách gặp bà Nhiên và Thụy Vũ để bàn việc thành lập nhà xuất bản Kim Anh.
Lê Phương Chi và Thụy Vũ vừa gặp nhau là đã trúng một cú sét rùng rợn. Chi vừa bị vợ bỏ. Thụy Vũ là gái lỡ làng. Dạo đó chị mập mạp, tươi mát. Họ trông đẹp đôi lắm. Không nói, nhưng má tôi và tôi cứ hy vọng cả hai sẽ làm đám cưới càng sớm càng hay, càng mau càng tốt.
Sau khi thoả thuận, cả ba đồng ý tung ra đợt đầu các cuốn Ba miền mười khuôn mặt gồm truyện ngắn của mười tác giả, Vòng tay học trò của Nguyễn thị Hoàng.
Đáng lẽ Lê Phương Chi và Thụy Vũ phải lấy nhau. Họ đang ở trong giai đoạn “tình trong như đã mặt ngoài còn e” . Nhưng chưa gì hết mà Lê Phương Chi đã tuyên bố là Thụy Vũ mê man đắm đuối anh. Anh đi khoe tùm lum, đụng ai khoe nấy, bạ đâu khoe đó. Anh diễn dịch cái “tình trong như đã” thành chuyện phiêu lưu tình ái lâm ly rùng rợn, thật bất lợi cho Thụy Vũ. Đã vậy anh lại còn ra vẻ ta đây hào hoa, được nhiều gái mê nên xun xoe mời một cô bạn gái của tôi đi khiêu vũ. Đêm anh đưa cô bạn đi vũ trường là Thụy Vũ ở nhà khóc ròng.
Tuần sau, Thụy Vũ đi dự bữa tiệc đính hôn của cặp Thanh Nam – Túy Hồng. Trong bữa tiệc này, chị tôi gặp Tô Thùy Yên. Tan tiệc, Yên đưa Thụy Vũ về. Sáng hôm sau anh trở lại rủ hai chị em tôi đi ăn món Huế.
Một tuần sau đó, Thụy Vũ mời bà Nhiên và Lê Phương Chi đi ăn. Trong bữa ăn , chị rót bia cho anh Chi, đặt chiếc phong bì lên bàn:
– Cám ơn anh đã giúp tôi nhiều về việc trình bày sách. Nhưng tôi không dám làm rộn anh thêm nữa. Xin anh nhận món tiền này gọi là công trình bày quyển Ba miền mười khuôn mặt và Vòng tay học trò .
Chị nở một nụ cười nhợt nhạc và lạnh ngắt bảo bà Nhiên:
– Tô Thùy Yên rủ tôi lập nhà xuất bản đó chị Nhiên.
Lê Phương Chi tái mặt. Anh đã hiểu, vì suốt tuần qua, Tô Thùy Yên và Thụy Vũ đeo dính nhau một bước không rời. Tôi cũng buồn lắm, nhưng đó là chuyện của Thụy Vũ. Má tôi rất có cảm tình với Lê Phương Chi, tội nghiệp cho anh vì khôn quá hoá dại! Anh muốn ‘chài’ Thụy Vũ nhưng lại gây tổn thương tự ái của chị quá nặng nề.
Anh cũng có viết một bộ truyện phiêu lưu tựa là Đào mã Tần Thủy Hoàng , ký tên Thái Tâm Canh.
Sau ngày 30 tháng 4, vào mùa mưa 1976, tôi gặp lại Lê Phương Chi trong khoá bồi dưỡng Chính trị. Anh thân ái hỏi thăm gia đình tôi và Tô Thùy Yên. Mới cách có bảy năm mà coi anh già sụm, duy cái nhìn ấm áp, nụ cười tươi tắn là trẻ mãi không già.
Vào một dịp bất chợt nào đó, hình ảnh quá khứ bỗng nhiên sống dậy, lọt vào cơn chiêm bao của tôi. Tôi như thấy lại khung cảnh phòng trà Đêm Màu Hồng, nơi có cái bàn đặc biệt dành cho Mai Thảo và nhóm cái ban. Trong nhóm đó, ký giả Lô Răng Phan Lạc Phúc phi mỹ nhất, khôi ngô nhất. Vầng trán ông cao, sáng và bóng lên dưới ánh đèn mờ ảo.
Tôi cũng đã thấy lại căn nhà hẹp té của anh Nguiễn Ngu Í ở gần chợ Vườn Chuối. Trên căn gác lửng mờ tối, cạnh bàn thờ thần tài thắp sáng bởi ngọn đèn trứng vịt bóng đỏ là bàn viết của anh, trên đó giấy má, tập vở xếp gọn gàng có con ốc biển vân nâu vàng dằn lên. Giá sách của anh rất ngăn nắp. Tủ sách bày nhiều cuốn bìa da, chữ mạ vàng. Nhưng bên hình ảnh đó, tôi cũng thấy lại dưới ánh nắng chói chang , anh Ngu Í quần áo xốc xếch, tóc tai bù xù, mặt mũi dớn dác cỡi mô-by-lết vượt đèn đỏ, chạy đến tôi nói không ngừng nghỉ, tròng mắt đỏ như tôm luộc, bọt bèo đóng trắng hai bên mép.
Tôi cũng thấy lại khu cư xá Lữ Gia êm đềm tĩnh mịch. Trên những lối đi viền cây đại hoa trắng, cây bằng lăng hoa tím, người bán kem đầy xe mì, thỉnh thoảng dừng lại, gõ hai thanh trẻ vào nhau lắc cắc. Và trong căn phòng khách mát rượi quét vôi màu kem sáng sủa, anh Lê Phương Chi đang mở băng cassette đã thu cuộc phỏng vấn, chăm chú nghe rồi ghi ghi xoá xoá..
Trời ơi, mới đó mà đã 15 năm. Mười lăm năm miền Nam lọt vào tay cộng sản, mười ba năm tôi sống đời ly hương. Viết bài này , tôi coi như một nén tâm hương đốt lên để tỏ lòng mến mộ các văn nghệ sĩ, trong đó có những kẻ nếu không đi vào cõi hư vô thì cũng đã chìm vào dĩ vãng hoặc còn mắc kẹt giữa vũng lầy cộng sản mà trước kia , do một cơ duyên nào đó, họ đã đến, đã dạy tôi nhiều điều bổ ích trong bút nghiệp.

 

Giấc mộng bà già trầu

Mèn ơi, dì Chín! Hèn lâu mới được thơ dì. Té ra kỳ hè nầy dì đi nghỉ mát ở miền núi Anh-bờ (Alpes). Thiệt dì sung sướng quá, tiền già lãnh đều đều, chơn cẳng còn dẻo để chạy áp-phe kiếm thêm tiền bạc phây phả, năm nào dì cũng đi nghỉ mát, thiệt tình tui có lời mừng cho dì.

Tui khác dì ở chỗ, một khi ra hải ngoại rồi thì trời, biển, núi, rừng, thị trấn nào cũng là những cái của người dị chủng. Ði đâu tui cũng có cảm tưởng lạc lõng, bởi đó nên tưi ưa lúc thúc ở nhà, o bế lau chùi nhà cửa đồ đạc, mỗi ngày hai khoá tụng kinh lai rai, tối tối trước khi đi ngủ tui tụng bảy biến chú Ðại Bi để cái tâm từ bi chan hoà, kéo thần thức vô giấc ngủ suông sẻ.

Dì hỏi ở Troyes có gì lạ không. Hình như có lạ chút chút. Số là con út Quế Lan của tui tuần trước thèm ăn canh chua bạc hà. Tui không biết thứ bạc hà bày bán ở tiệm thực phẩm Á châu có phải là bạc hà thiệt thọ không, coi thì thấy bẹ lá cũng giống như bẹ bạc hà nhưng màu đậm hơn, tui liền can gián nó:

– Tao coi bộ thứ bẹ bạc hà nầy hơi giống bẹ môn. Nếu gặp môn ngọt thì không sao, lỡ ăn nhằm môn ngứa, có nước ngậm vôi ăn trầu cũng chưa hết ngứa.

Cỏn ỏn ẻn:

– Bạc hà thiệt đó má. Chèn ơi, bạc hà nầy mà nấu với cá đổ-rát (dorade) thế cá lóc thì ngon nhức nhối chớ không chơi. Má để đó cho con. Ðêm qua con nằm chiêm bao thấy mình ních một tô canh chua bự tổ chảng, sáng nay con không biến mộng thành thiệt thì con ấm ách, khó chịu lắm.

Miệng nói, tay nó lượm bó bạc hà bỏ vào giỏ xách thì tui còn mồm miệng nào ngăn cản nó nữa, hả dì?

Canh chua sắp dọn ra thì cỏn quay điện thoại mời thằng kép Bắc kỳ và hai con bạn của nó tới ăn. Riêng tui, cũng bởi gởi mua được trầu, cau, vôi, thuốc nhờ bà bạn đi Paris về nên tui nhai miếng trầu để nhớ cố hương. Tui nghiền ngẫm miếng trầu, vị nồng của vôi, của trầu hoạ với vị chát của cau, vị cay của thuốc trở nên nồng mặn, thơm tho khó tả. Tui nhai trầu thiệt chậm rãi, cảm thấy hơi thở mình trở nên tinh khiết, máu chảy trong huyết quản mình ấm áp dị kỳ. Như dì biết, năm 58 tuổi tui mới bỏ nước ra đi, đã tập ăn trầu hơn hai năm cho mặn mòi bà già, cho răng cỏ chặt chịa. Bởi đó mà tui ghiền trầu, khác hẵn mấy bà già tân thời ở Sài-gòn. Trên đất khách không dễ gì mua được trầu cau nên tui đành nhịn. Nay gặp được trầu tui dại gì mà không khỉa một miếng cho ấm áp cuộc đời, cho mình sống lại ngày xưa, hén dì?

Miếng trầu coi vậy mà cứu khổ cứu nạn tui đó dì Chín.

Thằng kép độc của con gái tui cùng hai con đào lẵng bạn nó xúm xít quanh mâm cơm, bắt đầu ca tụng canh chua miền Nam và công kích ông Vũ Bằng. Con Thanh Hoa trề môi dài cả thước:

– Ông Vũ Bằng khi Món lạ miền Nam mà quên viết về canh chua. Tuy canh chua phổ thông ở miền Nam nhưng em tin chắc nó là kỳ quan đối với người Bắc, đối với ổng.

Kép Tuấn Phương gốc Bắc kỳ, nói xuôi:

– Người Bắc có món riêu nấu với nhiều loại cá nhưng không phong phú bằng món canh chua miền Nam.

Con Minh Nguyệt ỏn ẻn:

– Người Nam nấu canh chua bằng me nè, bằng lá giấm nè, bằng lá dang nè, bằng cơm mẻ nè, bằng măng chua nè…Nấu với cá gì cũng được, với tôm cũng xong, với thịt gà càng ngon nữa…

Tui nghe cái giọng kỳ thị Bắc Nam mà phát ghét, liền mắng:

– Tụi bây cứ ăn canh chua cho đã đời chê chán đi. Hơi đâu mà bây chỏ mỏ ngắt véo người Bắc, xỉa xói ông Vũ Bằng? Người ta có công với văn học, bây mang ơn không hết, có lý đâu đem ổng ra thượng mổ hạ xẻ ổng?

Tụi nó liền tẻn tò nín khe. Thế rồi mạnh thằng thằng chan, mạnh con con húp. Chừng một tiếng đồng hồ sau, mặt ba con đào lẵng kia sưng húp và đỏ ké. Còn thằng kép độc thì nổi mề-đay cùng mình, ngứa gãi thôi tưng bừng…Rốt cuộc tui phải điện thoại kêu con Ba Quế Anh chở tụi nó tới bịnh viện gần tháp nước. Tui sợ điếng, sợ tê dại. Mấy cỏn khóc rấm rứt. Con Minh Nguyệt tấm tức:

– Chu choa ơi, nghĩ tới cá màn rửa, súc ruột mà em mọc ốc cùng mình.

May một điều là bác sĩ trực chích thuốc rồi kê toa cho tụi nó mua thuốc trị cái dị ứng do bạc hà thổ tả đó gây nên.
° ° °
Dì Chín, tui rất mừng là ba đứa con gái cưng của tui có tinh thần dân tộc vững mạnh. Như con Út Quế Lan của tui đây đời nào mà thèm ăn cơm ở căng-tin buổi trưa lúc đi làm! Mỗi sáng, tui phải dậy sớm nấu com canh, kho thịt cá rồi xếp vô mấy ngăn gà-mên cho nó đem theo đến hãng xưởng. Con nầy chê tất cả các món Tây, nó chỉ ăn món tây do tay nó nấu, tra thêm nhiều gia vị.

Tui coi bộ hồn quê ám ảnh nó hơi nhiều. Hồn quê thường thể hiện bằng món ăn. Cứ vài hôm, nó lăng líu:

– Mèn ơi, hồi hôm tui nằm chiêm bao thấy ăn cá lóc kho tiêu có chan mỡ xắt hột lựu.

Chiều đi làm về, nó lái xe đến tiệm thực phẩm Á châu mua cá lóc đông lạnh về kho tộ. Bữa khá, nó véo von:

– Chèn ơi, tui nằm mộng thấy được về quê ăn canh chua dưa măng nấu với cá bông lau.

Tuần lễ đó ở Troyes không có cá bông lau đông lạnh, nhưng nó vẫn mua dưa măng để nấu với cá hồi.

Tới màn nó nằm mơ thấy ăn sầu riêng, là tui bắt đầu nhức đầu rồi đó dì Chín. Hồi ở Việt Nam tui đã sợ thứ trái cây nầy. Hễ tập ăn là nhợn miệng, bợn dạ và choáng váng mặt mày. Con Út Quế Lan vốn chủ trương biến mộng thành thực, đổi ảo thành chơn nên cuối tuần nó lái xe đi Paris để mua sầu riêng cho bằng được. Khi nó đem hai trái sầu riêng bự tổ chảng về thì con Hai Quế Hương, con Ba Quế Anh từ Ba-suyt-ốp (Bar sur Aube) lái xe đến chực sẵn. Cả ba chị em nó pha cà-phê thiệt ngoan rồi vừa ăn sầu riêng vừa nhấm nháp cà-phê, chót chét chuyện đời lảnh lót. Tui phải rút lui về buồng, xức dầu Nhị thiên đường lên chót mũi để báng mùi sầu riêng quái ác kia đi.

Như dì rõ đó, con Út tui chỉ thương nhớ cố quán, cố hương, cố quốc qua miếng ăn. Sức mấy mà nó chịu giúp đõ hội Ái hữu Việt kiều trong cá cuộc tổ chức hội chợ hoặc các buổi trình diễn văn nghệ giúp đồng bào vượt biển! Nhưng mà hễ có đêm nhảy nhót nào do kiều bào tổ chức thì nó mừng húm, mua vé đi nhảy cho tới gần sáng bét, sáng bạch mới chịu về nhà.

Chiêm bao, chiêm bố, chiênm bị! Mèn ơi, tui cũng gặp hoài những hình ảnh cố hương trong chiêm bao như bao người Việt tị nạn khác. Tui thường thấy lại khung cảnh Phú Giáo mà tui đã sống, những cảnh di dân lánh nạn Cộng sản khỏi vùng xôi đậu, những trại định cư giữa các trại lính Ðịa phương quân và các đồn bót Nghĩa quân. Tui cũng thấy lại quê ngoại tui ở vùng Lái Thiêu đẫm đầy bóng mát những cây dâu miền dưới, cây chôm chôm, cây bòn bòn, cây măng cụt, cây mít tố nữ….

Có một đêm tui thấy một chiếc ghe đậu dưới bến chợ Lái Thiêu chở đầy chén dĩa, tô tượng, vịm chậu bằng sành, cái thì tráng men ngà, cái thì tráng men xanh, cái thì tráng men màu da lươn. Tới chừng tỉnh dậy tui bồi hồi xúc động không tài nào dỗ giấc trở lại.

Tui quên kể cho dì biết căn nhà con Út tui thuê giá mỗi tháng 700 quan, nước mưa hay thấm vô tường cho nên hễ mùa mưa là nhà âm ẩm hơi nước. Tui vốn bị phong thấp, hễ mưa kéo dài hai ngày là tui đau nhức từng khớp, từng lóng xương, mình mẫy tê mê. Một đêm nọ tui lại chiêm bao thấy mình đứng trước một tiệm thuốc bắc gần ngôi chợ miệt vườn hồi chạy tản cư. Làng đìu hiu bên dòng sông nhỏ. Vào lúc xế chiều, nhà lồng chợ trống trơn. Tiệm thuốc bắc có một chú chệt mập ú, tóc thắt đuôi sam, tay nung núc mỡ, đeo chiếc vòng cẩm thạch màu xanh hoa lý, bụng bự chang bang. Chú cởi trần trùng trục, cầm cái dầm khuấy vào chảo gang đựng mật ong đang sôi sùng sục. Còn mụ vợ bó chân nhỏ xíu, đi lẩm đẩm tới quầy hàng, tay gảy vào bàn toán lách cách. Ðó là những chú chệt, thím xẩm giàu có, thuở 1945 hãy còn tồn cổ…Vậy mà khi tỉnh dậy tui cảm hoài, cảm khái nghĩ ngợi lan man. Tuổi già nơi đất khách sung sướng thì có, nhưng ấm áp thì còn hỏi lại. Tui vụt thèm một căn bếp có nồi, trách, ơ bằng đất, có mẻ lửa than cháy đỏ. Dì ơi, kho cá bằng trách, bằng ơ đất trên mẻ lửa than chắc chắn cá sẽ thấm tháp, mặn mòi hơn. Nướng cá, nướng thịt trên mẻ lửa than, mỡ cá mỡ thịt nhỏ giọt xuống than, hơi mỡ cháy sẽ ướp khứa cá, miếng thịt thơm hơn. Còn nói gì mình nấu cơm trong chiếc nồi đất! Khi nước cơm cạn, mình phủ một miếng lá chuối trước khi đậy nắp vung lại, hột cơm thấm mùi lá chuối, thơm phưng phức. Tui không thể cắt nghĩa tại sao cơm nấu bằng nồi đất lại ngon hơn cơm nấu bằng nồi đồng, soong nhôm, nhưng sự thiệt là vậy đó dì!

Cứ mỗi cơn đau nhức mình mẩy vào lúc trời mưa, tui lại đâm ra nhớ cảnh đốt hoả lò để sắc thuốc bắc trong cái siêu bằng đất. Thuốc bắc uống thì đắng nhưng mùi thuốc sắc thì ấm áp, thơm tho. Hồi tui còn son giá, sống trong sự tưng tiu, đùm bọc của tía má tui, hễ khi tui ể mình, ấm đầu sổ mũi là má tui đưa tui tới ông bang trưởng bang Phước Kiến vốn là chủ nhơn tiệm Hạnh Huê Ðường ở tỉnh nhà. Ổng sau khi xem mạch hốt thuốc còn cho tui một trái táo tàu và một trái cà na khô, gói chung vô gói thuốc. Má tui khi sắc thuốc xong, rót thuốc ra chiếc tô kiểu tráng men lam đặt trên dĩa sứ trắng. Bên cạnh tô thuốc là trái táo tàu và trái càn na khô tươm mật ướt trĩn. Dì ơi, tuổi già của chị em mình nơi xứ lạ quê người cần có thuốc bắc mới ích khí bổ thần. Ngặt một nỗi trên các nước Âu Châu không có tiệm thuốc bắc.

Thằng rể tui, chồng con Hai Quế Hương, kỳ hè năm ngoái đi viếng thủ đô Hoa Thịnh Ðốn, khi về mua cho tui một mớ thuốc bắc gồm có thuốc xổ, thuốc trị nhức mỏi, thuốc trị no hơi sình bụng và ba thang thuốc ích khí bổ thần. Tui nài được chiếc siêu đất để sắc thuốc, nhưng sắc bằng lửa lò ga, không đúng điệu lắm. Nhưng mà có còn hơn không, phải không dì?

Dì Chín ơi, chúng ta thiếu cái không khí xứ mình. Ở nhà tui cũng nấu phở, nấu suông, nấu bún bò, đổ bánh bèo, tráng bánh cuốn, để cùng ăn với con, rể. Nhưng thỉnh thoảng tụi tui rủ nhau đi Paris ăn tiệm ở quận 13, sau đó đi viếng thăm các nơi để thấy chung quanh mình toàn là đồng hương, để hưởng vài giây phút cố hương trong các tiệm bánh mì dồn thịt, trong tiệm sách báo và băng nhạc…Có nhiều lúc tui nghĩ rằng ở khu Paris 13, nếu ông xã trưởng Tây cho phép ai đó đóng bàn ghế bằng gỗ, mà phải là ghế đẩy rồi che mái tôn bán cà phê vào mùa hè, chắc là cái quán cốc đó sẽ đắt khách lắm. Nếu có ai sắm được gióng, gánh để bán cháo lòng, bì bùn, bánh canh, bún bò, bánh ướt, chè đậu thì chắc thực khách sẽ chiếu cố nườm nượp. Và nếu ai đó sắm được xe đẩy có gắn mấy miếng kiếng vẽ sự tích truyện Tam Quốc xanh đỏ loè loẹt để bán mì, hủ tiếu, hoành thánh…tui chắc khách hàng sẽ chen lấn tới mua. Dì ơi, ăn hàng chưa đủ ngon, mà còn phải ăn cả hình ảnh cố hương, có phải không?

Bởi đó bánh chưng, bánh tét gói bằng giấy bạc đâu có ngon thua bánh chưng, bánh tét gói bằng lá chuối bao nhiêu, nhưng Tết nhứt mà bày những tấm bánh chưng, những đòn bánh tét bằng giấy bạc coi sao trơ quá, dù trước khi gói, người ta có trộn nước cốt lá dứa vào nếp cho có màu xanh và thơm tho như nếp thấm nước lá chuối khi luộc. Cũng vậy, muốn treo các xâu nem trong bếp, ta vẫn thích nem gói bằng lá chuối và khi bày nem ra dĩa, phải lót nem trên lớp lá vông hay lá chùm ruột thì dĩa nem mới ngon mắt, đượm tình.

Mình già rồi, dì Chín à, cứ ưa sống trong kỷ niệm, bởi mình có biết làm gì hơn! Tụi nhỏ hay tụi xồn xồn còn bay nhảy được nên tụi nó còn nguôì ngoai nỗi nhớ cố hương để lo việc sắp tới, việc tương lai cho con cái. Nói nào ngay, ba đứa con gái tui đều biết thương mẹ, nên hè rồi con Hai Quế Hương đề nghị:

– Hè nầy má đi tắm biển với tụi con đi. Hay là đi núi Vôi (Vosges) cũng gần đi thôi. Tụi nầy sẽ thuê nhà gỗ để ở chung với má.

Tui lắc đầu lia lịa:

– Ðất nước nầy đâu phải đất nước của mình. Ði chơi chỗ khác hay là ở Troa (Troyes) nầy thì cũng như xa nhà rồi. Tao đi chơi biển, chơi hồ đâu thể bận may-ô hay bận đồ tắm hai mãnh như mấy mụ đầm già! Tới chỗ có nước, tao bất quá thọc hai bàn chân xuống nước mà cũng gọi là tắm thì đi tắm biển kiểu đó uổng tiền lắm! Còn đi chơi núi, tao đâu có hơi sức để leo núi nữa. Bây có thương tao thì như mua trầu cau thường cho tao, mua truyện Tàu, tiểu thuyết cụ Hồ Biểu Chánh, mướn phim tập cho tao coi là bây trả hiếu cho mẹ bây rồi. Mà bây có mướn phim tập làm ơn tránh giùm tao loại phim chưởng có kẻ gian ác đánh kẻ hiền lương hộc ra hai ba đấu máu. Tim tao yếu, thấy máu mủ là tao xây xẩm mặt mày.
° ° °
Dì chín, con Út tui cứ chiêm bao các món ăn lia lịa, nên tui coi bộ nó lúc nầy bắt đầu tròn trịa rồi tròn hoay mấy hồi. Ðược cái, con gái còn trẻ tuổi, còn son giá, dẫu nó ít nạc mỡ nhiều thì cái bụng nó cũng còn sát rạt. Mỡ chỉ đắp lên mông nó chè bè. Vậy mà thằng kép nó khen nó sét-xi, nịnh sao mà hỗn hào! Tui thấy thằng đó cũng được trai, ăn ở tử tế nên mừng thầm con mình đã chọn mặt gởi vàng, rồi đây tôm cá sẽ lội chung bàu, vịt le sẽ đậu chung bãi. Bởi đó tui ưa nấu món ngon vật lạ cho thằng kép nịnh gốc Bắc đó ăn.

Tui quên nói cho dì hay, gia đình thằng Tuấn Phương hiện giờ ở khu Nhà Thờ Xanh Lục (La Chapelle Saint-Luc). Tía nó hồi xưa làm việc ỏ nhà bưu điện Sài gòn nên dân ở đây kêu là cụ Phán giây thép. Cụ Phán bà khuấy bánh đúc ngon thần sầu. Ngặt bả không ăn trầu nên mỗi khi khuấy bánh đúc là tới xin vôi của tui. Riết rồi dân Bắc kỳ ở Troa trước khi khuấy bánh đúc là điện thoại cho tui để xin vôi. Tui biết ý nên mua vôi mỗi lần hai ba kí, dự trữ trong nhà, hễ ai xin là tui cho. Ðôi khi tui gởi bột gạo, đậu phọng, cùi dừa nhờ họ làm bánh đúc giùm. Mấy bả sẵn lòng khuấy bánh đúc giùm tui, nhưng khi tui nhờ họ chỉ dạy cách làm thì họ tìm cách quanh quẩn để từ chối. Họ làm giùm bánh thiệt ngon, cốt để khoe tài, nhưng dấu cách làm như tui giữ hột xoàn, như thần tài giữ kho tàng trân bữu.

Tui chắc mẽm con Út Quế Lan của tui sẽ là vợ thằng Bắc kỳ Tuấn Phương nên tui giao du với cụ Phán bà và kiều bào gốc Bắc thường lắm. Tui cho con gái út ít của tui ăn bánh đúc chấm mắm tôm hà rầm, ăn bánh đúc chấm tương Cự Ðà lia lịa, để tâm hồn nó thấm tháp phong vị Bắc kỳ, để mai sau nó yêu thương đắm đuối, mặn muối cay gừng với tên kép nịnh kia.

Ai dè một hôm con út mập của tui vừa đi Ba-suyt-Xen (Bar-sur-Seine) về, rít nghe ớn óc:

– Thôi rồi, con gặp thằng tiểu tặc Bắc kỳ đó sánh vai với con đầm ở chung cư gần nhà bưu điện Sạt-trơ (Chartreux) đi câu cá. Má biết con đó mà, con đầm sến chiều mát ưa đưa hai đứa con nó lại trước sân chung cư mình để chơi cầu tuột đó!

Tui giựt mình đồm độp. Thằng Tuấn Phương sanh sự lấy đầm? Ông bà ông vải ơi! Trai Mít mà lấy mấy con Phiên nữ thì đúng là đuôi chuột vọc hũ mỡ! Con út tui coi vậy chớ trai Pháp trai Việt xun xoe đeo đuổi nó hà rầm. Nhưng bởi nó mê ngón đờn ghi-ta cùng giọng hát giống Chế Linh, Duy Khánh của thẳng nên nó cho gie nhiều đám. Thẳng dám cho con gái tui đi tàu bay giấy lên chín từng mây xanh rồi đá giò lái ngang xương cho nó té xuống đất, càng lên cao càng té đau là vậy. Tuy vậy tui cũng tìm lời phải quấy khuyên can con Út:

– Thôi con. Ai làm quấy có đất trời chứng giám. Con mà bày đặt trả đủa nớ, nay Lao Ái mai Tiết Ngao Tào, sớm đào tối mận thì làm nhơ danh đờn bà con nhà có đạo lý.

Cỏn chui vô buồng, đóng cửa khóc rấm rứt suốt cái cuối tuần. Trọn tuần lễ sau, nó lững đững lờ đờ, dật dờ hồn phách, oán trách kẻ bạc tình, bất bình duyên số. Vào cuối tuần kế, hai thị đào lẵng Minh Nguyệt, Thanh Hoa có ghé nhà chơi. Tui cũng mừng cho con gái tui có bạn an ủi, nói chuyện tầm ruồng để giải sầu. Tui lật đật đi nấu suông đãi khách. Ðứng trong bếp quết nhuyễn tôm, tui lóng tai nghe tụi nó đía dóc. Con Minh Nguyệt vo vảnh:

– Xời ơi, tao tưởng thằng Tuấn Phương của mầy quơ được con đầm nào sạch nước cản, ai dè nó vướng vô con Bô-Lết (Paulette). Con đó hôi nách, quơ nó thà quơ con chuột xạ còn sướng hơn.

Con Thanh Hoa cười:

– Nó hôi nách với mầy, với người khác, nhưng nó thơm tho với thằng Tuấn Phương thì sao?

– Con đó mỗi tuần mới tắm một lần. Ít khi nó chịu súc miệng. Hễ hôi nách là nó nã dầu thơm vô nách. Mỗi sáng, nó làm biếng súc miệng đánh răng nên cứ nhai sơ-uynh-gôm để báng mùi hôi răng.

Con Út tui chua ngoa:

– Cứt có thúi mới rù quến được chó. Chuột chết sình mới nhử được kên kên, quà quạ, diều hâu.

Tui bước ra, chỉnh tụi nó:

– Tụi bây còn nhỏ mà nói giọng phách, giọng cầu cao, không sợ giảm phước, không sợ mắc khẩu nghiệp hay sao? Thằng kia không thương con Út nữa thì nó tháo lui trước. Nó chưa đến cho con Út cái bụng chình ình là may phước rồi.

Tui nghĩ tui buồn lắm dì Chín à! Con Út tui vì mê thằng kép Bắc kỳ nên nó ăn lìm lịm bánh đúc chấm mắm tôm, bún riêu, bún thang, bún bung, bánh cuốn… Khi rã rời keo sơn với thẳng, nó vẫn mê các món Bắc kỳ dài dài. Còn tui ra công làm món Nam, nào suông, nào chạo, nào bánh tầm bì chan nước cốt dừa…cho thẳng ăn, vậy mà sao tâm hồn nó không thấm đậm tình ý Nam kỳ, không chịu cưới con gái tui cho rồi! Ðẻ con gái là để dành gả cho kẻ xứng lứa vừa đôi, chớ tui không dám giữ lâu, đố khỏi có ngày sanh giặc.

Tui cứ nằm chiêm bao thấy mình ngồi chễm chệ trên “đi-quăng” chơn qùy. Con Út tui bận áo dài gấm, đầu đội khăn vành dây đứng bên thằng đực mặc áo dài gấm, đầu chít khăn đóng, sắp sửa lạy tui trong ngày rước dâu. Tui sung sướng khóc rấm rứt và tỉnh dậy, để rồi trằn trọc khoảng đêm còn lại.

Như dì đã rõ, tui hề chưa được diễm phước làm đám cưới cho con Hai Quế Hương và cho con Ba Quế Lan. Tụi nầy, con chị kéo con em, con em đeo con chị, xách gói êm ru bà rù về nhà trai. Rõ ràng là gái đâu có gái hỗn hào. Trai chưa làm rể, gái vào làm dâu! Sau bốn lần cặp xách lung tung lang tang, hết thằng đực nội hoá nầy tới thằng dâm tặc ngoại bang khác, con Hai Quế Hương may mắn được thằng Bắc kỳ tuy có cù lần nhưng tử tế làm giá thú đàng hoàng. Ðứa con gái đầu lòng của tui gìờ đây yên nơi yên chỗ, hư trước nên sau, thôi vậy tui cũng mừng. Còn con Ba Quế Anh thì có xé rào lấy tên Pháp tặc hồi còn ở Lộc Ninh, nhưng dầu sao nó vẫn một chồng một vợ, không có vụ buông rồng bắt rắn, đổi trắng thay đen.

Hai con gái lớn của tui biến tui thành bà ngoại quốc tế đó dì. Tui có cháu ngoại Mỹ, cháu ngoại Pháp, cháu ngoại Việt…nhục nhã để đâu cho hết! Khi con Út tui tò tí với thằng Bắc kỳ, tui cũng vái cho duyên nợ nó vuông tròn, như nước mắm hòn pha nước mắm Phan Thiết. Ai dè tên kép nịnh thích mùi chuột xạ củ con đầm Bô-lết nên giết tình đồng chủng với con gái tui. Cái hư bắt đầu từ con chị, từ con chim đầu đàn có phải?

Ít tuần sau con Út vắng nhà hà rầm. Thiên hạ kiều bào ở khu Nhà Ðỏ xầm xì xụt xịt chuyện cỏn dan díu với thằng Tây sửa ống nước có nhà ở gần ga xe lửa. Thôi rồi, con nha đầu yêu lồi nầy muốn trả đủa thằng kép nịnh nên quơ đại tên Pháp tặc xuất thân lao động kia. Bao phen tui gạn hỏi cỏn thì nó mồm năm miệng mười chối leo lẻo: “Làm gì có! Ðâu mà có! Ðâu có chuyện kỳ cục như vậy! Má tin mấy con mụ lẽo lự đó thì có nước bán lúa giống!”
° ° °
Bao nhiêu kỳ vọng nơi cô con gái út của tưi đã tan tành theo mây khói rồi đó dì Chín. Bây giờ tui tìm an ủi nơi miếng trầu vào những đêm khó ngủ. Nhai trầu để thấm thía cảnh sống tạm dụng hiện tại. Nhai trầu để nhớ lại căn nhà quê quán ở tại xã Bố Lá, quận Phú Giáo, tỉnh Bình Dương.

Như dì đã rõ, vào năm 1969, ông Tướng vùng III thấy xã nầy thuộc vùng xôi đậu nên ra lịnh di dân về trại định cư Bến Cát. Chánh quyền quốc gia phái toán dân sự vụ tiểu khu Bình Dương với Sư đoàn 5 Bộ binh tới lo vụ đó. Trước khi đưa dân rút lui, họ giựt sập tất cả nhà cửa để Việt cộng không chỗ tá túc. Ngôi nhà ngói ba căn hai chái của tui chỉ trong một giờ đồng hồ là thành đống gạch ngói ngổn ngang.

Ba mẹ con tui sống ở trại định cư Bến Cát được hai tháng rồi tìm về Lộc Ninh, nơi đó có con em tui sanh cơ lập nghiệp trên 20 năm qua. Với chút ít vốn liếng, tui mở tiệm bán guốc dép Nhựt. Tui còn mua hai chiếc bàn bi-da để mở tiệm cho hai đứa con gái lớn trông nom. Cuộc sống ba mẹ con khá sung túc, tui cũng mừng thầm.

Dì Chín biết hôn? Tai hoạ bỗng dưng dến xuống gia đình tui một cái ình như trời giáng. Có một gã kép hát đã giải nghệ về Lộc Ninh mởi tiệm bán giấy bút, sách báo và cho mướn tiểu thuyết. Tuy đã giải nghệ mà giọng ca nó còn mùi tận mạng. Rảnh rang là nó tới tiệm bi-da của tui chơi vài bàn.. Tối tối nó ôm cây đờn kìm khảy lẳng tẳng rồi mùi sáu câu làm cặp mắt con Hai Quế Hương vốn đã lẵng lại càng thêm ướt rượt. Một đêm nọ, đang lúc tui thao thức khó ngủ thì bỗng nghe bên giường hai cỏn, con Hai Quế Hương cất giọng:

-Suối biếc dãy Nam Sơn cuốn trôi từng bông hoa rụng, như đánh dấu buổi phân ly của Lương Sơn Bá, Chúc Anh ơ…ơ…Ðài…

Tui liền chạy lại, lớn tiếng la rầy:

– Hai, mầy làm cái gì kỳ cục vậy Hai? Nửa đêm thanh vắng mà mầy còn hát xướng, không sợ hai bên hàng xóm người ta quở hay sao!

Con Hai Quế Hương mắt vẫn nhắm nghiền. Té ra nó đang mớ! Cũng sau đêm đó, tui mới vỡ lẽ là tên kép giải nghệ kia tới đây thụt bi-da giữa thanh thiên bạch nhựt, nhưng nó còn lén lút thụt cho con Hai không biết bao nhiêu hiệp mà cỏn mang bầu ba tháng. Tui sợ tai tiếng, phải nói trớ là cỏn bị chứng đau máu, cần lên Sài gòn châm cứu một thời gian. Lên tới đó, tui gửi nó cho con Hai Kim Khánh, chị con nhà bác nó nuôi đẻ giùm, rồi gởi đứa nhỏ cho vú nuôi. Con Hai Quế Hương sau khi đập bầu trở nên mướt rượt, xinh tốt, nếu không như Tạ Nguyệt Kiểu thì cũng Phàn Phụng Cơ trong vở tuồng San Hậu. Nó đi bán sờ-nách-ba đâu chừng bảy tháng thì ôm thêm cái bầu nữa. Úy mẹt mẻ ông bà ông vải đồng đinh tí sửu tiên nhơn tổ đường ơi! Thằng Mỹ, tía cái thai trong bụng con Hai, cỡi máy bay về nước, không hề hay biết mình gởi lại trong bụng nó một cục nợ oan gia, trét cứt gà lên mặt con quỉ đó, bôi cứt chó trên mặt con mụ già nầy.

Rồi thời cuộc dập dồn, đẩy miền nam vô tay Cộng sản.. Từ lúc đến nhà con Hai Kim Khánh tá túc cho đến lúc bán sờ-nách-ba, con Hai Quế Hương được vợ chồng con nầy đùm bọc. Tình bà con đổi dần thành tình ruột thịt pha lẫn tình tri kỷ. Sau ngày 30-4-75, thằng chồng con Hai Kim Khánh vì là đại úy nên phải đi học tập. Hai cỏn cùng đùm bọc nhau, bán chợ trời nuôi lũ con. Dè đâu trước khi thằng chồng con Hai Kim Khánh đăng ký học tập, nó còn ráng gởi lại trong bụng vợ cái thai ba tháng. Vì quá lao lực, cỏn sảo thai, băng huyết và chết tại nhà thương Từ Dũ. Trước khi chết, nó cầm tay con gái tui trối trăn:

– Em ráng nuôi hai đứa con của chị. Và nếu chồng chị về, em liệu cách mà an ủi ảnh.

Tội nghiệp con gái tui! Nó dãi dầu buôn bán để nuôi bốn đứa nhỏ: hai cháu, hai con. Ðứa con gái lớn của Hai Kim Khánh tên là Kim Loan mới 13 tuổi, sớm hiểu biết nên giữ hai đứa con của con Hai Quế Hương cho con Hai đi kiếm sống. Nhờ Phật độ, nhờ hồn thiêng con Hai Kim Khánh phù hộ nên con Hai tui buôn bán chợ đen chợ đỏ khá quá. Nó đi thăm nuôi thằng chồng con Hai Kim Khánh hai lần rồi vượt biên với bốn đứa nhỏ.
° ° °
Trong lúc con Hai Quế Hương lên Sài gòn để đẻ thì con Ba Quế Anh coi sóc tiệm bi-da.

Tui có tài đẻ con gái bóng sắc tuy chẳng chói sáng hơn ai, nhưng con nào cũng có cặp mắt ướt rượt. Hễ gặp mấy thằng đực là con nào con nấy đưa đẩy cặp mắt, liếc dọc liếc ngang, vàng tan đá lỏng.

Nhưng mà dì Chín à, con Ba Quế Anh tuy mê hoặc biết bao anh hùng hảo hớn, nhưng nó lại không ưng ai. Chỉ có một tên đực té vô được cặp mắt ướt rượt của nó. Ðó là thằng Tây thơ ký đồn điền cao su Lộc Ninh. Thiệt tình tui không sao hiểu nổi nó. Có viên đại úy ban tiếp liệu chi khu xun xoe ve vãn nó mà nó không gật cũng chẳng lắc, để tên kia tương tư nhừ tử. Còn cái thằng thơ ký dị chủng kia chiều chiều lái xe ghé quán bà Tám Thẹo uống la-de xong rồi mới qua quán bi-da Tam Quế của tui để thụt bi-da. Ðùng một cái, con Quế Anh thỏ thẻ với tui:

– Má à, thằng Mạc-xen La-ma (Marcel Lamarra) muốn cưới con. Con trót lỡ dại có thai với nó rồi!

Ngộ hén! Tui chưa già cả và vẫn tưởng là mình giữ đám con gái khít khao, con ruồi chui qua không lọt, con mọt khó tọt vô, vậy mà rồi thằng dâm tặc Phú-lang-sa thả được lăng quăng vô bụng con Ba Quế Anh hồi nào không biết!

Tui đành sang tiệm bi-da, tiệm bán guốc dép cho chị bạn Phật tủ để thu xếp về Sài gòn lánh nhục. Kể ra tui cũng may mắn lắm đó. Nếu tui chậm chừng nửa năm là cơ nghiệp bị sa vào tay Việt cộng rồi, vì hồi năm 72, quận lỵ nầy bị tụi nó tràn vô chiếm đóng. Thằng Mạc-xen lúc đó chưa đử vi kiếng để lập nghiệp ở Sài gòn, nhưng vì thấy thời cuộc càng lúc càng găng nên quyết định đưa con Ba về Sài gòn trước, tui và con Út lên sau. Nó giữ chơn cạo giấy cho hãng xuất nhập cãng vỏ xe Michelin đó dì. Còn tui sang một quán bán tạp hoá ở chợ Bà Chiểu.

Con Ba Quế Anh ở trong cư xá đường Bà Huyện Thanh Quan, thỉnh thoảng dắt chồng đi Bà Chiểu ăn bún thịt nướng và thăm mẹ. Nó làm áp-phe dữ lắm, nhưng kiếm chác chẳng được bao nhiêu. Thời cuộc biến chuyển dồn dập, ít ai muốn mua sắm hay khuếch trương cơ sở làm ăn.

Bày ra việc bán buôn, tui không dám mở quán nhậu hoặc quán cà-phê vốn là nơi lui tới của đám đờn ông, bởi lúc nầy con Út Quế Lan mới mười lăm mà đã trổ mã. Nó nhất định không thèm học chữ, quyết ghi tên vô lớp luyện ca tân nhạc của Lê Minh Bằng, ghi lớp ca cổ nhạc của Út Trọng, của Ba Giáo…Nớ mơ trở thành cô Tài Lương thứ hai, ca cổ nhạc đã ngọt, mà ca tân nhạc cũng có nét như ai. Chiều tối, tiêm tạp hoá đóng cửa, con Út lên gác lửng, thả dài trên ghế lấy gân cổ rồi gò giọng cho ngọt:

– Chè bột khoai ngọt ngon thanh mát, xin mời bà con cô bác hãy mua….ơ…ợ…ơ…giùm, giúp em qua khỏi cảnh nguy cùng. Ðêm nay gió âm u, em đã lê chơn khắp phố phường hoa lệ…

Tui nghe nó hát mà phát rầu! Tui nhớ tới cảnh con Hai Quế Hương chiêm bao ngủ mớ hát mấy câu vọng cổ mà tui bồn chồn lo lắng, sợ con út tui chưa thành ca sĩ mà đã ôm bầu do thầy luyện nhạc hoặc do bạn cùng lớp đúc nên.

Thời cuộc đẩy tới tấp miền Nam gần tầm tay cướp giựt của bọn Cộng sản. Thằng Mạt-xen bỗng được tin tía nó bên Pháp qua đời, tiệm nước của ổng tại Troa không ai coi sóc nên nó phải về Pháp coi sóc công việc. Chừng một tháng sau, ngày 30.4.75 tới, làm tui ngơ ngác không biết tính sao.
° ° °
Con Ba Quế Anh rời Sài gòn năm 77. Con Hai Quế Hương đi chui năm 78, mãi tới năm 80 mới được định cư ở Pháp. Con Ba chạy chọt làm giấy bảo lãnh cho tui và con út qua Pháp năm 81.

Từ năm 82, ba mẹ con tui quây quần ở Troa. Con Hai Quế Hương nuôi con của con Hai Kim Khánh cũng như con ruột của nó. Con Kim Loan, thằng Tường Phụng đều được đi học. Lúc đó thằng Thanh Hùng (con của kép cải lương giải nghệ) được 13, con Claudette (đứa lai Mỹ) lên 12, nhổ giò trông thấy. Con Kim Loan trở thành thiếu nữ, xinh đẹp, ăn nói mềm mỏn, cư xử khéo léo. Nó là chị cả trong nhà, phụ giúp con Hai Quế Hương, dạy dỗ hai đứa nhỏ. Cảnh nhà thật đầm ấm.

Nhận thấy hai đứa con nuôi khi tới tuổi thành niên thì con Hai sẽ mất một khoản tiền cấp dưỡng đáng kể nên nó lo lắm. Rồi nó học đòi lũ đờn bà hư thân mất nết, lười biếng, tính quơ bậy thằng đực cà lơ phơ phất nào để đúc cho mình một đứa con, khi đẻ là có tiền trợ cấp. Nó lạng quạng quơ thằng Á Rập mà dân mình kêu là Rệp đó dì Chín. Thằng Ali ăn ở với con Hai Quế Hương nhưng cặp mắt trắng dã của nó cứ xốn xang ngó con Kim Loan, tìm dịp khều móc con nhỏ. Biết được tự sự, con Hai tống cổ thằng Rệp ra khỏi nhà liền.

Mà nào đã hết chuyện, dì Chín? Thằng Rệp lưu manh xách va-ly rời tỉnh Troa còn lén giấu theo sợi dây chuyền vàng của con gái tui. Con Hai thấy của không đáng bao nhiêu nên không thưa gởi, vì nó biết nếu phanh phui ra thì xấu chàng hổ thiếp, nghiệt là hổ thiếp thì nhiều chớ thằng kia mà xấu xa bao nhiêu!

Sau vụ đó, con Hai Quế Hương nào có tởn đâu! Nó xoay qua cặp xách với thằng gốc Chí Lợi tị nạn chính trị, chừng năm sau là đẻ ra thằng con trai dễ thương lắm. Nhưng rồi thằng Chí Lợi kia về nước, thơ từ thăm hỏi tới năm 84 là thưa dần rồi dứt luôn. Nó vốn có vợ cái con cột bên nước nớ rồi! Thiệt tình số phận con Hai thiệt truân chiên, bảy nổi ba chìm, thân như tờ giấy bạc hết chuyền tay người này sang qua tay kẻ nọ. Bởi nó dám thiếm xực hết Rệp tới Chí nên đờn ông Việt ở Troa dù có đói vợ cũng không dám cầu hôn nó.

Con Hai Quế Hương về sau đi may nửa chánh thứ nửa lậu mới có đủ tiền nuôi con. Ðều đều, nó gởi tiền về má chồng con Hai Kim Khánh để bả thăm nuôi cha của con Kim Loan. Sau hết, nó giúp tiền để thằng nọ vượt biên sau khi đuợc phóng thích.

Rồi dì biết sao không dì Chín? Khi tới Troa, thằng chồng con Hai Kim Khánh xin cưới con Hai Quế Hương. Hai đàng có ân thâm nghĩa trọng với nhau nên cùng làm lại cuộc đời, cố quên dĩ vãng hư hỏng, đau buồn. Vậy mà con gái tui hạnh phúc. Thằng rể Bắc kỳ nầy nhận hết mấy đứa cháu ngoại tui làm con. Năm sau, con Hai đẻ cho chồng một cặp trai song sinh. Con riêng của chồng, con riêng của vợ giờ đây trên giấy tờ là anh em một mẹ một cha. Tụi nó cùng cưng yêu cặp hổ bôn hổ bịch đó.

Nhìn cảnh nhà đầm ấm của con Hai Quế Hương mà tui hạnh phúc quá chừng chừng. Từ khi lấy chồng, con Hai ăn chay một tháng mười ngày. Nó cưng chồng lại được chồng cưng nên chí thú làm ăn. Ai mà dè con gái tui có cái hậu vận tốt dường ấy! Năm nào vợ chồng nó cũng làm đám giỗ chay cho con Hai Kim Khánh rồi cả nhà kéo nhau đi chùa dự lể cầu siêu cho cỏn. Ai không tin, chớ tui thì luôn nghĩ rằng con Hai Kim Khánh luôn luôn phù hộ con gái tui. Thằng Bắc kỳ rửa mặt rửa mày cho con gái tui. Dân Việt ở Troa lúc trước khinh khi thói đi ngang về tắt của con Hai Quế Phương bao nhiêu thì sau nhờ thằng rể tui kể lể cách đối xử tử tế của nó nên đâm ra có cảm tình với nó.

Còn con Ba Quế Anh thì tâm địa nhỏ mọn hẹp hòi. Hồi nó được thằng Mạt-xen bảo lãnh, nó chạy xuôi chạy ngược làm giấy khai sanh cho hai đứa con người quen làm con của vợ chồng nó, nhận luôn món quà là đôi vòng cẩn hột xoàn. Từ khi định cư ở Troa thì tuy là nó cho hai đứa nhỏ đi học, nhưng hễ hai đứa nhỏ làm điều gì không vừa ý là nó dùng roi mây áp đảo. Thằng chồng Tây của nó khuyên ngăn hoài mà không được. Hễ đánh hai đứa nhỏ sau lưng chồng xong là nó hăm he:”Bây mà đi học lại với chú Mạt-xen là tao giết hoặc tao bỏ bây vô viện mồ côi”. Hễ có món ngon vật lạ là nó để dành ăn riêng với chồng nó và thằng con bốn tuổi. Thiệt tình, chồng tui họ Ðào mà sao tui đẻ đứa con gái ác đức như mụ mẹ ghẻ Tào Thị trong tuồng Phạm Công Cúc Hoa!

Cái thói khắc bạc, độc dữ của nó rồi cũng có ngày tiết lộ. Cô giáo trường mẫu giáo một hôm khám phá ra lằn roi ngang dọc trên đít, trên lưng hai đứa nhỏ thì gạn hỏi, nhưng tụi nó không dám hé răng. Thế rồi cổ thưa cò bót để điều tra. Sau hết, con Ba Quế Anh bị ra toà đóng tiền phạt, và hai đứa nhỏ được giao cho một cặp vợ chồng Pháp không con nhận nuôi. Bởi nhục nhã như vậy nên con Tào Thị đó phải bỏ Troa dọn về Ba-suyt-ốp. Tui không biết sau vụ đó nó có tởn hay không nhưng nó già đi trông thấy. Nó không hài lòng thằng con nó vì đứa nhỏ cứ ốm đau quặt quẹo, học hành biếng nhá, trí khôn chậm lụt. Có lần nó than thở với tui:

– Phải chi con sanh thêm vài đứa. Chồng con yêu thương con lắm nhưng con lại sanh cho nó thằng con như bún thiu, như mèo ướt thì còn nước non gì!

Nước mắt nó rưng rưng. Tui chẳng biết nó hối hận vì đã khắc bạc với hai đứa con nuôi hay vì đường tử tức bất như ý nên tui làm thinh. Nó thở dài:

– Trong thâm tâm, con đâu có ác độc. Cũng bởi con thấy hai đứa kia xinh đẹp, thông minh, còn con ruột mình thì yếu đuối, chậm lụt nên con đâm ra ghét số phận, mới hành động hơi quá tay như vậy.

Ủa ngộ chưa? Oán ghét số phận sao lại đối xử tàn ác với hai đứa nhỏ vô tội? Tụi nó có đại diện số phận đâu? Tuy bất bình, nhưng thấy nó thiểu não, tui không nỡ dùng lời gay gắt, chỉ khuyên nó nên năng tụng kinh Phổ Môn, và nhứt là thành tâm sám hối thì hoạ may…

Con Ba Quế Anh không nói gì. Kỳ lễ Phật Ðản vừa qua nó đi hành hương qua chùa Tây Ðức thỉnh tượng A Di Ða Tam Tôn và một mớ kinh về. Bàn thờ Phật của nó trang nghiêm, nhang thắp đều đều. Tui không hiểu nó có thiệt lòng ăn năn sám hối hay không, nhưng mấy bà nào ở khu Nhà Ðỏ, nhờ Nhà Thờ Xanh Lục đập bầu tại nhà thương, nó cũng chịu khó đến thăm, tặng quà châu đáo. Có điều là bạn bè lẫn bà con bên chồng nó không còn giao du với nó nữa. Xã hội Tây Ðầm đã đóng chặt cửa với nó từ khi vụ hành hạ con nuôi của nọ bị lôi ra toà, bị tường thuật trên báo. Ðối với tui, mấy chuyện đó không đáng quan tâm lắm. Tui chỉ mừng là con gái tui biết quay đầu về chính nghĩa, bớt ích kỷ, bớt tính toán nhỏ nhen, bớt cay cú những người mà nó tiếp xúc.

Thằng Hăng-ri (Henri) cháu ngoại tui, nhờ đi châm cứu mà trở nên mập mạnh. Tuy trí khôn còn chậm lụt nhưng nó hiền hậu ngoan ngoãn nên cả nhà ai cũng cưng.

Tui khuyên con Ba Quế Anh:

– Con nên tìm dịp thăm hai đứa con gái nuôi cũ của con. Bề gì nó cũng là con của bạn con.

Con Ba đỏ mặt tía tai, lắc đầu:

– Con không có can đảm gặp tía má nuôi hiện giờ của tụi nó. Con cũng không mặt mũi nào ngó tụi nó.

Tui nói:

– Nếu cái khó đó mà con làm được thì ác nghiệp con sẽ tiêu bớt được vài phần.

Con gái tui không nói không rằng. Tui nghĩ rằng không nên ép uổng nó quá. Nó đâu có khí phách, hùng tâm để chuộc lại lỗi lầm, dù nó có ân hận, nhưng cái ân hận đó chưa đủ sức giúp nó giáp mặt hai đứa con nuôi.
° ° °
Hôm đầu hè, con Kim Loan đi chơi hồ về ghé thăm tui. Tuy nó chỉ có chút máu mủ với chồng tui, nhưng tui thương nó như cháu ngoại ruột. Cảnh nhà con Hai Quế Hương nếu không có nó chăm sóc thì chưa chắc đã ấm êm. Nó báo tin:

– Có một anh dược sĩ muốn cưới con, ngoại à.

Tui mừng lắm:

– Hễ con thương nó, nó thương con là được.

Kim Loan nói:

– Nhưng ảnh muốn dắt con ra khỏi tỉnh nầy. Con chỉ ngại chỗ đó.

Tui trổ giọng Khổng Mạnh ra:

– Làm gái, hễ xuất giá thì tùng phu, con quên rồi sao?

Kim Loan hơi bất mãn:

– Ảnh qua Pháp có một mình. Ở đây ảnh có thể kiếm một chân trong nhà thuốc Tây, tại sao ảnh muốn đưa con đi chỗ khác? – Giọng nó như muốn khóc – Ngoại không hiểu con đâu! Khi ba con đi học tập, con đã thấy hoang mang rồi. Khi má ruột con chết đi, con tưởng nửa cuộc đời con theo bả xuống ba thước đất. May nhờ có má Hương ra tay cưu mang. Năm má con đã từng vật lộn với nghèo đói, nguy cơ. Trên đường vượt biên, trừ hai đứa nhỏ, má Hương và hai chị em con chia nhau từng chút nước. Rồi khi định cư ở đây, nếu cả ba không nương tựa lẫn nhau thì chẳng biết sống ra sao! Con thương anh chàng dược sĩ đó, nhưng con cũng không muốn xa má Hương và mấy em con!

Tui bảo nó:

– Con nên mời thằng đó tới đây chơi, để ngoại liệu lời nói rõ chuyện của con cho nó hiểu.

Rồi tui đem chuyện con Út Quế Lan ra than thở. Con Kim Loan như chợt nhớ, kể:

– À, tối hôm qua con có gặp chú Phương. Chú mời con đi uống cà-phê ở tiệm gần ga xe lửa. Té ra dì Út với chú giận nhau nên trả thù nhau cho lợi gan. Rốt cuộc cả hai đều cảm thấy khổ. Chú Tuấn Phương nói rằng dì Út giỏi tài hành hạ đờn ông, nhưng thà chú thua cuộc chứ không muốn mất dì. Sáng nay dì Út gọi điện thoại cho má Hương, báo tin rằng bồ cũ không rủ cũng tới . Má Hương nghe cũng bắt tức cười và mắng dì Út cả dây cả nhợ.

Chèn ơi, tui nghe lời tiết lộ của con Kim Loan mà như trút được gánh nặng ngàn cân ra khỏi ngực. Té ra con Út Quế Lan nhỏ người mà lớn nết, muốn trả đũa cho lợi gan mình nên mới đùa với lữa mấy tuần nay. Nếu chàng Tuấn Phương không thông cảm, không chịu thua thì chắc chắn là keo rã hồ tan, cỏn lang bang theo thằng Phiên tặc, quen thói đi ngang về tắt, cầm sắt sẽ đảo điên.

Thôi vậy tui cũng mừng. Tui vừa nấu bánh canh gìò heo vừa chờ con hùm nhai sấp táp đó về để nghe nó tỏ tường trong đục. Khi tui đang chặt giò heo thì chuông điện thoại reo. Vừa cầm ống nghe thì bên kia đầu dây một giọng eo éo vang lên:

– Má đó hả? Con đây, Út đây! Chiều nay có anh Tuấn muốn tới thăm má. Ối, chuyện tuổi trẻ có gì là lạ đâu! Rầu má quá! Anh Tuấn Phương con đi câu cá thì chỉ là chuyện đi câu cá. Còn con đi coi hát với thằng Bờ-Noa (Benoit) thì chỉ là đi giải trí bằng phim ảnh, xong rồi ai về nhà nấy. Con sống trên đất Pháp năm năm rồi, đầu có sạn rồi, con đâu có ngu dại gì! Dạ, dạ má nói phải. Chị Hai con gặp nhiều cảnh lỡ làng thì đời chỉ khác đời con chớ bộ. Nhưng giờ đây chị Hai con có tổ ấm thiệt sự rồi. Thôi nghe, con cúp máy nghe má. Anh Tuấn Phương chở con đi lại trại nuôi cá hương đây. Chiều nay má muốn làm món cá hương lăn bột chiên giòn hay kho tương gì đó tùy ý.

Nước mắt hân hoan của tui trút từng đợt theo cuộc điện đàm với đứa con ương ngạnh của mình. Khi gác ống nghe lên máy, tui cứ ngỡ là mình chiêm bao, dì à.

Ðồng thời tui nhớ tới con Kim Loan. Tui rất thông cảm, rất xúc động trước cái tình quyến luyến của nó với con gái tui. Song như dì biết, tụi nhỏ sanh sống ở đây cần phải hướng tới tương lai. Lòng dạ con Hai Quế Hương đâu có hẹp hòi. Nếu nó thấy thằng dược sĩ kia muốn tìm cách tiến thân ở tỉnh khác, tui chắc nó còn khuyến khích nữa là khác. Con Kim Loan vì thương mến mẹ nuôi mà cản ngăn bước tiến thủ của chồng mình thì hơi quá đáng, phải không dì?

Tui đã hài lòng về ba đứa con gái tui rồi. Giờ đây, tui phải khuyên con cháu ngoại không biết nhìn xa của tui. Nghĩ vậy, khi nhắc nồi bánh canh lên bếp, tui quay điện thoại cho con Hai Quế Hương:

– Hương con, mai con có rảnh kéo rốc cả nhà lại đây ăn cơm. Má có chuyện muốn nói với con. Ủa, con đã gặp thằng dược sĩ đó rồi hả? Ừ, nó nhỏ nhẹ, khiêm tốn thì má mừng. Con tỏ ra thông cảm vậy là tốt. Thôi nghe, mai nhớ tới sớm phụ làm bếp với má. Ðể má kêu điện thoại cho vợ chồng con Ba. Nhớ bồng hai thằng hổ bôn hổ bịch tới để má hun cho mát mẻ tim gan.

Gả thiếp về vườn

Mẹ mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh
(Ca dao)
Bà Phán Hoành bảo con gái:
– Không phải má ép uổng con, nhưng má thấy thằng Ba Thoại hiền lành lại con nhà khá giả, có của ăn của để nên má mới tính gả con cho nó.
Cô Hai Phụng Cơ e dè:
– Con không muốn cãi má, nhưng lấy chồng miệt đó con ngại lắm. Má ơi đừng gả con xa, chim kêu vượn hú biết nhà má đâu! Nội nghe ba tiếng U Minh Thượng là con rùng rợn rồi!
Ngọn đèn đặt trên chiếc bàn dài giữa cặp trường kỷ chạm nai, khỉ, chim, sóc, chùm nho bỗng kêu một tiếng tách, tóe bông đèn rực rỡ như chùm pháo bông. Bà Ký Banh trấn an:
– Cháu đừng lo, Ông bà Hội đồng Huờn, ba má thằng Toại giàu sụ, có toà cao lẫm lớn, dãy dọc nhà ngang. Dinh cơ họ rộng minh mông, đầy cây cao bóng mát. Ổng bả tuy ở miệt khi ho cò gáy nhưng biết cách ăn ở theo người tỉnh thành, nuôi nhiều tôi trai tớ gái. Cháu mà về làm dâu nhà họ, cháu khỏi làm động tới móng tay, sẽ có ba con tớ gái hầu hạ. Một đứa lo việc chải đầu rửa mặt, một đứa lo việc bếp nước, một đứa để cháu sai vặt. Con vợ thằng Hai Tường sao thì cháu cũng được như vậy.
Cô Hai Phụng Cơ liếc xéo bà Ký Banh. Bà nầy có tật ít xít ra nhiều. Vận sự nào mà lọt qua miệng bả cũng được bả nhơn lên gấp rưỡi, gấp đôi sự thiệt. Ðó là vận sự thường. Còn đối với việc làm mai làm mối, làm áp-phe để sanh lợi biết đâu bả chẳng nhơn lên gấp ba gấp bốn, một nhúm gạo bả nấu thành nguyên nồi cháo, nghe tiếng pháo bả sẽ hô tiếng pháo thần công cũng không chừng. Chèn ơi, lúc kể về cái bề thế giàu sang quí phái của ông bà Hội đồng Huờn, mặt bà Ký Banh như mê đi. Bà Phán Hoành ngồi giảo tai ra nghe, miệng nín khe nhưng cặp mắt long lanh háo hức, coi không giống ai.
Cô Hai Phụng Cơ là bạn cô Tư Nguyệt Yếng, con gái của bà Ký Banh. Cô nầy có người chị con nhà bác tên Hai Nguyệt Thanh lấy con trai lớn của ông bà Hội đồng Huờn là Hai Tường. Song thân cô Hai Nguyệt Thanh là ông bà Phủ Bảnh chẳng những có tước trọng quyền cao mà lại là bực đại điền chủ ở Vĩnh Long, có 200 mẫu ruộng tốt ở miệt An Hương, Mỹ An. Khi cô Hai Nguyệt Thanh về làm dâu ông bà Hội đồng Huờn thì ông bà Phủ Bảnh cho cô hai đứa tớ gái là con Xiêm, con Lài theo hầu.
Theo lẽ thường, khi sanh con đầu lòng, con gái phải về nhà cha mẹ, xổ bầu, tịnh dưỡng cho tới khi cứng cáp mới về lại nhà chồng. Cô Hai Nguyệt Thanh vừa về tới nhà tía má mình, véo von với lũ em liền:
– Chèn ơi, được về đây, tao tưởng chừng ở chín tầng địa ngục trồi lên dương gian. Bởi tao lụy ảnh nên tao mới chịu về U Minh Thượng chớ xứ gì mà đầy rừng tràm, nước đỏ au, đất phèn khô khao khô khốc, trồng chuối còn chưa được, nói chi tới trồng cam, quít, ổi, mận… Hãy day qua bên nầy thì gặp rừng tràm; day bên nọ thì gặp sóc Thổ; ngó về bên kia là đồng đầy cỏ lác, cỏ năng; ngước qua đàng trước gặp đám điều lộn hột; ngoái lại đàng sau là thấy ao, bàu, lung, vũng, đám sậy, rừng lau…
Về tới Vĩnh Long, cô Hai Nguyệt Thanh ăn hàng để báo thù những ngày thèm lạt ở chốn khỉ ho cò gáy. Cô ăn quít đường, cam hồng mật, đu đủ, xoài, mận, ổi xá lỵ…Cô ăn ốc gạo, thịt heo quay, thịt vịt quay…Nhưng hôm cô Hai Phụng Cơ theo cô Tư Nguyệt Yếng tới thăm ông bà Phủ Bảnh, được mời ăn cơm, mới rõ được phần trù phú của quê chồng cô Hai Nguyệt Thanh. Vừa ngồi vào mâm, cô Hai Nguyệt Thanh đã trề môi nhún mỏ, ỏng ẹo chê bai :
– Xời ơi, con cá lóc xứ Vãng mình sao mà ốm o đèo đẹt! Tôm trứng cỡ ngón tay thì nhiều mà tôm càng cỡ cườm tay thì ít nên mắc như vàng. Xứ sở của chồng tui bị thiệt hại về trái cây nhưng được xôm về tôm cá. Tôm càng dưới đó rẻ rề, mỗi lần ăn tôm, lấy gạch ra cầu cả chén. Cá lóc, cá bông bự bằng bắp chơn, trứng lớn cả ngón trỏ…Còn loại cá lụn vụn như cá cốt, cá rói, cá linh ai mà thèm ăn! Thứ đó chỉ dùng làm phân bón rẫy. Từ hôm về đây, bà con có thấy tui đi ăn cá nướng trui, bún tôm nướng, chạo. suông bao giờ chưa? Mấy món đó, chị bếp của tía má chồng tui làm hà rầm, ăn tới ngán ngược…
Cô Hai Nguyệt Thanh vừa sanh xong thì tuần lễ sau Hai Tường và Ba Thoại đi đò máy rồi đi xe đò lên thăm ở chơi nhà ông bà Phủ Bảnh vài ngày. Cô Hai Phụng Cơ tháp tùng cô Tư Nguyệt Yếng đến đó chơi nên cô lọt vào mắt xanh chàng công tử miệt vườn Ba Thoại.
Hai Tường trắng trẻo, cao lớn, đẹp trai, ăn nói mềm mỏng duyên dáng, cô Hai Nguyệt Thanh vui lòng về làm dâu chốn khỉ ho cò gáy cũng phải. Còn Ba Thoại tuy cao lớn như anh, mặt mũi không có gì đáng chê trách, nhưng sắc diện lầm lì, cặp mắt soi mói, nhìn ai là như muốn xoáy vào da thịt, tim gan đương sự. Vừa mới chạm mặt chàng ta, cô Hai Phụng Cơ đã nghĩ thầm : «Cái thứ tẩm ngẩm tầm ngầm như tên nầy dám làm chuyện động trời động đất lắm đa. Xời ơi, cái miệng thằng chả khi cười coi sao mà nham nhở! Tui có giành trâu cướp ruộng hắn đâu mà hắn cứ nhìn tui gườm gườm như muốn ăn tươi nuốt sống vậy cà! »
Ba Thoại muốn ăn tươi nuốt sống cô Hai Phụng Cơ thiệt. Chàng nhờ chị dâu mình cậy bà Ký Banh làm mai cô Hai Phụng Cơ cho chàng sau khi viết thơ về tỏ tường trong đục cho cha mẹ hay.
° ° °
Cô Hai Phụng Cơ lấy chồng mà lòng bất mãn lắm. Không phải cô chê Ba Toại xấu trai hay dị dị, nhưng khi nghĩ đến cảnh đi làm dâu tại vùng cực nam đất nước, chốn đĩa vắt muỗi mòng, trên có rừng cọp, dưới có sấu mà tay chơn cô bủn rủn, hồn phác cô bàng hoàng.
Ðám cưới được tổ chức tại nhà hương hoả của ông bà Cai Tổng Viên, anh ruột của bà Hội đồng Huờn, thuộc quận Cái Răng, tỉnh Cần Thơ. Cô dâu chú rể ở đó chơi một tháng hoặc đi Sài gòn, Vũng Tàu tùy ý rồi mới trở về U Minh Thượng.
Trưóc ngày vu qui, cô Hai Phụng Cơ khóc với cô Tư Nguyệt Yếng :
– Tao lấy chồng mà lòng lạnh ngắt. Trời đất thánh thần ơi, rồi đây về U Minh Thượng nếu tao không bị muỗi tha xác thì cũng bị đĩa hút hết máu, sống sao cho nổi để về thăm mẹ cha, chòm xóm cùng bạn bè xứ Vãng nầy?
Bà Ký Banh bảo bà Phán Hoành :
– Rồi đây con Hai của chị sẽ ăn nên làm ra. Từ của cải ruộng đất của chồng, nó sẽ làm ra cơ nghiệp đồ sộ cho chị coi. Hôm tui tới nhà chị làm mai thì thấy ngọn đèn trổ bông chói loà. Ðiềm hên đó đa chị!
Cô Hai Nguyệt Thanh bảo cô Tư Nguyệt Yếng và cô Hai Phụng Cơ :
– Má chị có lần đi xuống U Minh Thượng dự đám tang của bà mợ dâu, có dịp viếng nhà ông bà Hội đồng Huờn. Bả thấy gia cảnh của họ rỡ ràng nên muốn gả chị cho anh Tường, không cậy ai mai mối. Khi trở về đất Vãng, bả rủ chị tới thăm cậu của chị, rồi tổ chức cho anh Tường gặp chị. Vừa gặp chị, cả hai bị tiếng sét ái tình long trời lở đất, dội ngực thốn tim. Bởi đó chị mới chịu về cái xứ quê mùa hẻo lánh đó làm dâu.
Ai cũng nói vô thì cô Hai Phụng Cơ làm sao lộn nài bẻ ống tháo ra đây? Vào thập niên 30, các cô gái đều phải chịu cảnh cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Vả lại Ba Thoại chẳng những có ăn học mà còn dễ coi, vóc mình liền lạc, tay chơn cứng cáp, phải thế trượng phu, cho nên cô đành ngâm hai câu :
Ra đi là sự đánh liều,
Mưa mai nào biết nắng chiều nào hay
Cô Hai Phụng Cơ đi lấy chồng thì cảnh nhà ông bà Phán Hoành lạnh ngắt. Bởi tánh cô bãi buôi vui vẻ, ưa nói véo von, ưa cười giòn khấm khứu, ca hát lảnh lót nên cảnh nhà ấm áp, vắng cô là vắng tất cả sinh động. Cây khế ngọt trổ bông tím quanh năm ngoài bến nước từ đó vắng bóng cô chiều chiều ra hóng má hoặc thêu thùa. Có chàng trai chiều chiều chèo tam bản dọc trên sông Long Hồ, khi qua đó thường ngâm nga :
Trèo lên cây khế mà rung
Khế rớt đùng đùng không biết khế ai!
Khế củ ông Phán chẳng sai
Khế vừa có trái, cô Hai đi lấy chồng…
Hôm đám cưới, cô Hai Phụng Cơ mặt mày ủ ê bất mãn. Lũ chị em cô cậu, lũ chị em bạn dì, lũ chị em chú bác với cô kẻ thì lấy chồng cùng tỉnh, người thi lấy chồng Sài gòn, Mỹ Tho, Cần Thơ, Sa Ðéc…ai cũng được hưởng ánh sáng thị thành, ai cũng có dịp khoe thú ăn chơi, những chuyện giao du của mình với xã hội…Riêng cô phải lấy chồng xa mú tí tè. Ðã vậy khi xe nhà trai tới thì trời bắt đầu mưa lâm râm, tới lúc ông bà mai lên cặp đèn sáp chạm rồng phụng thì bên ngoài mưa như cầm tĩn mà đổ. Tuy nhiên hai ngọn đèn cháy đều, sáng phừng như hai búp sen bằng lửa.
Trên đường về Cái Răng qua bắc Cần Thơ, tới nhà ông bà Cai Tổng Viên, trời vẫn mưa lai rai. Trước khi ra xe để về Vĩnh Long, bà Ký Banh vịn vai cô Hai Phụng Cơ, cười ngỏn ngoẻn :
– Ðám cưới mà gặp mưa là điềm tốt đó đa cháu. Lại nữa, khi bác trai và bác lên cặp đèn, thì ngọn đèn cháy đều và sáng quắc. Thêm một điềm tốt nữa, cháu có thấy không?
Cô Hai Phụng Cơ miệng thì dạ dạ nhưng cặp mắt kín đáo liếc xéo bà mai, tại bà thày lay mà tui xa xứ, tại bà ham đầu heo bự mà tui lìa quê.
Cô Hai Phụng Cơ hai tuần sau, từ Vũng Tàu gởi thơ cho cô Tư Nguyệt Yếng :
Ô Cấp, ngày….
Bớ con Nguyệt Yếng,
Chồng tao dắt tao đi Ô Cấp, ở khách sạn để hưởng tuần trăng mật. Sau đó ảnh sẽ đưa tao qua Long Hải ở chơi thêm một tuần nữa. Tụi tao sẽ leo núi Bồng Lai, viếng am cốc..
Giờ đây tụi tao tắm biển đã đời, ăn sò huyết, cua biển, ghẹ, nghêu, chem chép, ăn đủ món cá…Tao thức thiệt khuya, dậy thiệt trể, đêm ngắm trăng biển, ngày nghe nhạc phi lao. Tao phải nói rằng tao hạnh phúc. Chồng tao cưng tao lắm Yếng à. Trung tuần tháng tới tao sẽ theo chồng về chốn U Minh Thượng xa lắc tí tè. «Có chồng thiếp phải theo chồng. Nắng mưa thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam ». Có tình yêu của chồng, tao thấy cuộc đời nơi quê hương mới không còn ghê gớm như tao đã nghĩ trước kia. Rồi đây mầy và tao mỗi người mỗi ngả, hướng rẽ càng dang xa. Tao chỉ biết cầu cho mầy hạnh phúc viên mãn, cầu luon cho trăm năm sau, hạnh phúc của tao vẫn tròn trịa như bây giờ, không sứt mẻ, không trầy trụa, Yếng à.
Tao tạm dừng bút. Hẹn khi về tới U Minh Thượng sẽ gởi thơ tiếp. Nhớ cầu Trời Phật phò hộ cho hai đứa mình nghen mậy.
Bạn mầy,
Trần thị Phụng Cơ
Bà Ký Banh nhân một hôm đến nhà bà Phán Hoành ăn giỗ, cười bảo bạn :
– Con gái đứa nào cũng như đứa nấy, hễ đi lấy chồng xa là mặt mày ủ dột, oán ghét ông bà mai cắc cớ trớ trêu xô tụi nó ra khỏi nhà cha mẹ. Ðó, chị coi đó, con Hai bây giờ cơm ngon canh ngọt với chồng, nó viết thơ về tháo trút tâm sự với con gái tui mà tâm sự nào cũng hân hoan ráo trọi.
° ° °
Cô Hai Phụng Cơ vừa đút đầu vô nhà chồng ở U Minh Thượng là gặp cái không khí nghiêm trọng rồi. Ông bà Hội đồng Huờn mặt như tráng một lớp thép mỏng nguội ngắt. Hai Tường tuy cười mà nụ cười kềm hãm không để lộ nguyên hàm như hồi chàng đến thăm ông bà Phủ Bảnh. Còn cô Hai Nguyệt Thanh chưa chi đã đổi gương mặt nhí nhảnh hồn nhiên thành vẻ mặt trịch thượng của bậc kẻ cả, thấy mà ngứa gan.
Dinh cơ của ông bà Hội đồng Huờn cách chợ làng khoảng năm cây số. Chợ nầy có nhiều gian hàng lợp lá của người Tàu, có tiệm mì, hủ tiếu, có tiệm chạp-phô tiệm vải. Từ nhà họ, khác bộ hành có thể vượt qua đám điều lộn hột hoang dã, vượt qua bãi lau sậy, qua cánh đồng cỏ năng để đến sóc Thổ của người Miên rồi đến xóm Cây Da của người Việt dọc theo dòng kinh đào. Từ vàm kinh đào giáp với lòng rạch song song với rừng tràm, du khách có thể vượt sáu cây số là tới chợ Chắc Băng, nơi thị tứ sầm uất.
Nhà ông Hội đồng gồm ba căn hai chái, nóc lợp ngói âm dương, nền đá da qui cao tới ngực, ở hàng ba thì lót gạch men trắng vẽ bông xanh, bên trong lót gạch trắng chen gạch đỏ. Bên trái ngôi nhà từ ngoài ngó vô là sân lót gạch tàu, kế đó là lẫm lúa gồm ba căn, vách bổ kho, mái lợp ngói móc. Lẫm lúa cũng có hai chái. Chái bên trái dành để nông cụ, chái bên mặt để cối xay lúa và cối giã gạo. Trong sân nhà có cây mù u tàn rậm, che bóng mát một vùng. Sân trước bày hòn non bộ, mấy chậu cau kiểng, tóc tiên, kim quít. Phía sau nhà là cây da xà cũng để lấy bóng mát. Trong vườn, ông Hội đồng Huờn cho trồng dừa Tam Quan, cau xiêm, mãng cầu xiêm. Ông cũng đang thử trồng chuối nhưng vì đất còn nhiều phèn nên chuối còi cọc lắm. Chung quanh khuôn viên nhà, ông cho đào mương, mỗi hướng có chiếc cầu tre bắc qua bên kia đường đê của đám ruộng. Dọc theo mương, ông trồng làm hàng rào bên ngoài, trồng cây xương rồng và cây độc trụ bọc bên trong.
Vợ chồng Hai Tường chiếm căn phòng ở chái bên trái, có cửa sổ trổ ra sân gạch tàu và lẫm lúa. Vợ chồng Ba Thoại chiếm căn phòng ở chái bên mặt, có cửa sổ ngó ra mương nước thả dây ấu xanh tươi,
Cô Hai Phụng Cơ từ nhỏ tới lớn chỉ lo ăn học. Tư tưởng tự do lãng mạn nơi mấy cuốn tiểu thuyết từ năm nầy qua năm nọ chui vô óc cô rồi mắc kẹt luôn trong đó. Song nó chưa có dịp ngo ngoe vẫy vùng. Bởi lẽ cô chưa va chạm với đời nhiều nên cô còn nhút nhát. Bởi lẽ ba má cô giáo dục cô theo lối xưa nên cái tánh quật khởi của cô chưa có dịp cháy phừng. Về nhà chồng, cô chẳng biết nấu nướng chi ngoài các món cá kho, thịt kho, vài món canh, món xào thông thường. Trong khi đó, cô Hai Nguyệt Thanh là con ông Phủ, địa vị bên cô ta trội hơn bên chồng nên cô được thung dung tự tại, làm bếp hụ hợ, thêu may cầm chừng. Cô Hai Nguyệt Thanh ngoài con Lài, con Xiêm là hai tớ gái cô mang theo, cô còn được bà má chồng cho thêm con Kim Heng lai Miên để cô sai vặt. Trong khi đó, cô Hai Phụng Cơ chẳng mang theo tớ gái nào, mà bà Hội đồng Huờn cũng chẳng nghĩ tới việc mướn cho cô một mụ nào để phụ bếp, để coi sóc nhà cửa giúp cô. Từ khi cưới cô cho Ba Thoại, bà Hội đồng Huờn cho mụ bếp Năm Cánh nghỉ việc. Con Lài, con Xiêm tuy có phụ cô việc bếp núc, việc coi sóc nhà cửa, nhưng tụi nó không phải là đầy tớ của cô nên cô không dám sai bảo tụi nó nhiều hay cằn nhằn rầy la chi cả.
Một hôm, cô Hai Phụng Cơ nấu cơm gạo mới. Cô vô ý đổ nhiều nước và đợi cơm sôi ba dạo mới chắt nước. Cô Hai Nguyệt Thanh khi mở nắp vung ra liền cười bảo bà Hội đồng Huờn :
– Mèn ơi, con tưởng đâu hôm nay thím Ba khuấy bánh đúc chớ!
Bà Hội đồng Huờn xáng cho cô Hai Phụng Cơ một cái nhìn nháng lửa :
– Xời ơi, ai coi con dâu út của tui! Nó nấu cơm chẹt nhẹt, nhão nhừ làm như ai nhai cơm rồi nhổ phẹt vô nồi vậy!
Khoảng đời làm dâu ba năm của cô Hai Phụng Cơ tốn biết bao là nước mắt. Nhưng trời bù đắp là Ba Thoại yêu thương cô rất mực, thường che chở cho cô nên cô cũng nguôi ngoai phần nào. Lại nữa cô Hai Nguyệt Thanh chỉ đẻ một mụn con gái rồi nán một thời gian dài. Còn cô Hai Phụng Cơ đẻ liên tiếp hai đứa con trai. Nhờ sanh đẻ, máu huyết thay đổi, cô Hai Phụng Cơ phốp pháp và trắng phau phau.
Ít lâu sau, ông bà Hội đồng Huờn cất nhà cho vợ chồng Ba Thoại ở xóm Cây Da để cả hai trông nom sở ruộng ba mươi mẫu, loại ruộng gò. Nhà của họ cũng ba căn hai chái, vách bổ kho nhưng mái lợp ngói móc, nền lót gạch tàu. Chung quanh khuôn viên là hàng rào đóng bằng cây tràm khô dầy bịt.
Ngay khi về nhà mới, cô Hai Phụng Cơ ỏn ẻn với chồng :
– Em thiệt không ngờ mình cưng em nên khi thì òn ỉ, khi thì làm trận làm thượng với ba má để giờ đây vợ chồng mình có giang sơn một cõi. Có vậy em mới tìm lại đời sống riêng cho em, cho anh…
Trong lúc bồng bột vì sung sướng, Ba Thoại ôm vợ hun trơ hun trất:
– Em càng ngày càng mơn mởn nuột nà, nhìn hoài không chán, nhìn suốt tháng cũng chưa bưa. Hễ chỗ nào em vui là anh vui. Ba mươi mẫu ruộng nầy là của chú Tư anh để lại cho anh chớ không phải của ba má anh đâu.
Về ở xóm Cây Da, cô Hai Phụng Cơ sắm chiếc ghe hầu, mui sơn xanh da trời, mũi ghe chạm trổ, khung cửa khoang cũng chạm trổ. Hễ buồn buồn, cô kêu bạn chèo ghe đưa mẹ con cô ra chợ Chắc Băng ăn mì, cháo, hoành thánh, nem nướng đã đời. Ðôi khi cô cùng chồng đi viếng các sở rẫy của người Triều Châu, mua bông bí đem về luộc chấm nước cá kho hay chấm mắm nục, mắm nêm. Có lần đi ngang Cầu Ðúc Cái Xình mua dưa hấu về ăn Tết, gặp trái ruột hường lợt, cô xắt ra để nấu canh tôm thịt rồi rắc tiêu, hành, ngò gai. Rừng tràm bên kia dòng rạch đầy dây choại, hễ khi ăn chay cô sai con Tím qua bên đó hái đọt choại nõn mềm về luộc. Khoai lang ở đây rẻ rề, cô sai bà vú Dần mài khoai ra nhào với nước rồi vắt nước cốt lược qua lớp vải the mỏng. Bột trong nước cốt lắng xuống, cô chỉ cần gạn bỏ nước trong rồi đem bột ướt phơi khô. Thứ bột nầy khuấy nước sôi, trong văn vắt, có màu nâu tím lợt, pha với đường phèn là trở thành một môn thuốc giải nhiệt thần sầu, chẳng những ngon miệng mà còn trị được chứng mụn nhọt, đổ ghèn…
Cô Hai Phụng Cơ khi về xóm Cây Da, đẻ lần thứ ba con tiểu tỳ song sanh, ba năm sau cô rặn thêm một con oắt tì nữ. Còn bên U Minh Thượng, cô Hai Nguyệt Thanh đẻ thêm một đứa con gái đèo đẹt nữa rồi nín luôn.
Cô Hai Phụng Cơ biết địa vị của mình trong gia đình chồng đã vững lắm rồi. Cô ngoả nguê trong hạnh phúc với người chồng lúc nào cũng một lòng một dạ yêu cô. Nhưng cô vẫn còn vài điều bất mãn. Trước hết là cuộc đất ở xóm Cây Da khô khao, đất chỉ có thể làm rẫy chớ không thể lập vườn. Ở đây chỉ có cây da, cây gừa, cầy bình bát sống được. Nhìn quanh quất cô chỉ thấy rừng tràm dầy bịt, còn là đồng chua, đất khô nứt, hoa đũa bếp nở rộ khi mùa mưa lướt thướt kéo về. Chợ Chắc Băng thì xa, rồi đây hai đứa con trai cô phải rời xóm Cây Da ra ngoài học, sáng đi chiều về bằng tam bản, thiệt không tiện chút nào. Thêm nữa, cái sóc Thổ gồm toàn là người Miên khiến cô ngại lắm. Người Miên vốn giỏi bùa chú, thư ếm. Biết đâu họ thấy vợ chồng cô giàu có sẽ thư ếm cho cả hai điên khùng hoặc đỏan mạng để đoạt của.
Bà Hội đồng Huờn tuy thương yêu hai thằng cháu nội nhưng vẫn không hề thông cảm với nàng dâu út. Bà tức ấm ách vì từ khi về xóm Cây Da, cô Hai Phụng Cơ tìm cách đuổi hết tôi trai tớ gái bà đưa đến. Từ chị bếp, cô tớ sai vặt, chị vú, các anh lực điền đều là người quen biết của cô Hai Phụng Cơ, của bà Phán Hoành đưa về. Bà Hội đồng Huờn ghim mối bất mãn trong bụng nên lâu lâu bà giả đò đến xóm Cây Da để thanh tra và quan sát nếp sống của vợ chồng Ba Thoại. Bà lấy cớ ở cuối xóm có ông thầy thuốc Miên giỏi tài trị phong thấp bằng ngải và lá thuốc cứu nên lâu lâu bà cần đến xóm Cây Da vài ngày, truớc trị bịnh, sau để tiện đường ra chợ Chắc Băn nhờ ông Bang Xạch Hui ở tiệm thuốc Khương Kiện Ðường coi mạch hốt thuốc ích khí bổ thần cho bà.
Cứ mỗi lần bà Hội đồng Huờn cùng con ở tên Thia tới nhà là cô Hai Phụng Cơ như cá mắc cạn. Cô quay mòng phục dịch mẹ chồng, không dám nhõng nhẽo với chồng. Bà Hội đồng Huờn đụng đâu là chê đó:
– Nè vợ thằng Ba, đây là chỗ tạm, mầy sắm chi chén kiểu dĩa kiểu nhiều dữ vậy? Còn đồ chứa nước mưa, mầy chỉ cần sắm hai chiếc mái dầm là đủ rồi, ai coi nó đã sắm hai chiếc mái dầm rồi còn đến thêm lu bầu, rồi khạp, rồi bồn, rồi ảng…Nhà ông Thiên Hộ, nhà ông Vạn Hộ chưa chắc xuê xoang bằng nhà nầy. Chèn ơi, cái sân thì nhỏ, để dành phơi lúa chớ, sao mầy trưng bày bùm sụm, cau kiểng, mít kiểng làm chi? Theo mép rào mà mầy không biết trồng bông đũa bếp là mầy quê lắm…Nhà nầy sao mà không phép tắc gì hết! Tôi trai hễ rảnh là nhậu nhẹt, tớ gái bạ đâu nằm đó, rồi tụm năm tụm bảy ngồi lê đôi mách, không thèm lý tới việc nhà…
Rồi vào một lần thăm viếng của bà Hội đồng Huờn, cô Hai Phụng Cơ bắt đầu phản kháng. Cô thấy mẹ chồng cô cư xử vượt quá giới hạn hơi xa. Hễ tức nước vỡ bờ, già néo thì đứt dây, cho nên cô đợi dịp trả đũa.
Trưa hôm đó, sau một chầu chỉnh lý nàng dâu, bà Hội đồng nằm trên võng đong đưa thiu thiu dỗ giấc. Trong khi đó cô Hai Phụng Cơ ngồi trên chiếc divan cẩm lai, cắt chiếc quần đáy giữa bằng cẩm nhung trắng. Cô liếc xéo về phía mẹ chồng. Xời ơi, người gì mà khuôn mặt lưỡi cày, cặp môi củ ấu, đôi chơn mày xiên xiên, cái bên mặt dấu sắc, cái bên phải dấu huyền. Mặt mày như vậy hèn gì tánh tình khó khăn! Tui vốn nghiệp dầy đức mỏn, phước cạn nghiệp sâu nên mới nhào vô làm dâu mụ mẹ chồng khó tánh hay chấp nhặt chấp thưa như bà thái hậu Ðịch Thiên Kim…Tui phải làm sao cho bả từ đây nể mặt tui, lần lần tránh xa tui, để tui thở khoan khoái, ợ ngáp tự do, duỗi co mặc ý…
Cô Hai Phụng Cơ vừa thấy thằng Khương đi ngang qua liền hét lên :
– Khương, tại sao bà nội mầy vừa ngủ mầy làm lộp cộp lạc cạc vậy? Ðồ bất hiếu, không sợ trời đánh hay sao chớ?
Bà Hội đồng Huờn giật mình choàng dậy thì cô Hai Phụng Cơ bồi liền :
– Ðời nay con cháu gì kỳ quái! Bà nội tụi nó già cả giấc ngủ càng lúc càng ngắn, bữa ăn càng lúc càng vơi, vậy mà khi bả mới dỗ giấc là tụi nó chạy rần rần, khua động rầm rĩ thì bực già cả làm sao ngủ ngon được!
Bà Hội đồng Huờn thở dài, đưa võng qua lại, mắt khép mà miệng lầu bầu. Cô Hai Phụng Cơ xuống bếp kiếm cái dĩa nhôm rồi trở lên chiếc divan cẩm lai. Vừa khi nghe mẹ chồng ngáy se sẽ, cô lấy chiếc kép đập vô dĩa nhô, và dù không thấy thằng Ninh ở đâu, cô cũng la oai oải :
– Thánh thần thiên địa ơi! Mầy làm giống gì vậy Ninh? Bà nội mầy vừa ngon giấc kia cà, bộ mầy đui hay sao mà cứ làm ầm ầm loảng xoảng, bưng đầu nhức óc vậy Ninh? Mầy gan quá mà, mầy không sợ lưỡi búa Thiên Lôi mà!
Bà Hội đồng Huờn choàng tỉnh dậy, giựt mình thảng thốt, cô Hai Phụng Cơ giả nhơn giả nghĩa :
– Xin má cứ ngủ ngon giấc. Bởi hai thằng cháu khỉ khọn rắn mắt cứ chạỳ giỡn làm đồ đạc rớt bể tùm lum không cho má ngủ suông sẻ nên con phải la rầy tụi nó.
Bà Hội đồng Huờn lại tiếp tục dỗ giấc. Vừa nghe bà ngáy như cưa cây, như thụt ống bễ lò rèn, cô Hai Phụng Cơ ré lên :
– Tiên nhơn tổ đường ơi, diều tới kia cà! Bây đâu? Mau đuổi diều mau coi nào. Tụi nó bay qua sân thế nào cũng xớt gà con ăn thịt. Ê! Ế! Diều! Diều! Ê! Ế! Bay chỗ khác chơi!
Bà mẹ chồng lồm cồm ngồì dậy, nguýt nàng dâu một cái nháng lửa rồi đứng dậy phủi đít bước ra hàng ba.
° ° °
Dòng lịch sử chảy qua biết bao khúc quanh biến động. Từ khi ra riêng ở xóm Cây Da, cô Hai Phụng Cơ cứ òn ỉ chồng mua vé quốc trái và gởi tiền vào Ðông Dương ngân hàng. Riêng cô, cô lo sắm vàng, sắm hột xoàn và gởi cho má cô giữ.
Trước năm 1945, nào Nhựt đảo chánh Tây, nào giặc Ðàng Thổ dậy lên giết chóc người Việt, nào bọn Việt Minh đêm bắt hào phú trong làng đem đi thủ tiêu…Riêng ở xóm Cây Da, nhờ ngài lục cụ và mẹ sóc hiền đức, tu hành tinh tấn nên dân Ðàng Thổ không nổi lên làm giặc. Tuy vậy cô Hai Phụng Cơ vẫn sợ lắm, cô òn ỉ chồng bán ba chục mẫu ruộng cho ông bà Bang Biện Hanh rồi dọn về Vĩnh Long mở tiệm bán đồ tạp hoá nhập cảng từ bên Tây.
Năm 1945 khi Việt Minh lên nắm chánh quyền, vợ chồng Ba Thoại bị bọn Quốc gia Tự vệ cuộc bắt tống giam về tội giao du với Tây. May nhờ có Ba Tốt, chồng Tư Nguyệt Yếng vốn có công trạng với Việt Minh, ra tay can thiệp nên cả hai chỉ bị cạo đầu và giam hai tuần lễ rồi được thả ra.
Riêng ông Hội đồng Huờn thì bị bọn Việt Minh bắt đem thủ tiêu. May cho Hai Tường nhờ theo ghe lúa đem bán cho chành ở Cái Răng nên thoát nạn. Cô Hai Nguyệt Thanh tom góp của cải rồi cùng hai con chèo ghe than len lỏi đến chợ Vàm Xáng, Hoả Lựu rồi đi đò máy về Cái Răng. Sau đó, vợ chồng Hai Tường lên Lèo làm ăn, mở hãng xuất nhập cảng, công việc buôn bán càng lúc càng phát đạt.
Khi Tây trở lại, Ba Tốt phải bỏ nhà vào khu Tám. Ðể nhớ ơn cứu mạng, cô Hai Phụng Cơ giúp vốn cho Tư Nguyệt Yếng mở một tiệm chạp phô bán đồ nhậu kèm với món cháo cá giò heo đối diện với miễu Quốc Công.
Khương, Ninh vừa lớn thì tỉnh Vĩnh Long đã mở trường Cao Tiểu. Cả hai trúng tuyển vào năm đệ nhứt. Cô Hai Nguyệt Thanh cũng cho hai đứa con gái mình là Nguyệt Hiên, Nguyệt Phố về ở với ông bà Phủ Bảnh. Nguyệt Hiên học sau Khương, Ninh một năm, còn Nguyệt Phố học chung trường Long Hồ với ba cô con gái của Ba Thoại là Phụng Kiều, Phụng Các, Phụng Song.
Trước khi người Thổ dậy giặc khắp Hậu Giang thì bà Hội đồng Huờn bị té, mang chứng bán thân bất toại. Chính cô Hai Phụng Cơ đến U Minh Thượng săn sóc mẹ chồng. Chính cô huấn luyện con Thìn trong việc chăm nom bà trước khi cô trở về xóm Cây Da. Sau khi bà chết đi, tình bạn giũa cô và cô Hai Nguyệt Thanh nẩy nở chơn thành. Rồi đó, những cơn gia biến đã thắt chặt thâm tình của hai chị em bạn dâu thêm chặt chẽ.
Thù giết tía chồng, thù bị sung công ruộng đất, thù bị cạo đầu xâm chàm vào tâm khảm cô Hai Phụng Cơ. Tuy thương yêu, biết ơn cô Tư Nguyệt Yếng nhưng cô vẫn không làm sao có cảm tình nổi với phe kháng chiến mà cô biết rằng cùng một phồn một lũ với bọn Việt Minh cộng sản. Cô Tư Nguyệt Yếng từ chỗ có chồng vào bưng kháng chiến, đâm ra có cảm tình với Việt Minh và chịu đứng ra truyền nọc cộng sản khắp nơi. Chối tai gai mắt cho cô Hai Phụng Cơ biết bao khi cô thấy Ba Thế Phụng, em trai cô, đi cưới Năm Huỳnh Mai, em gái Ba Tốt. Cả hai vợ chồng nầy hễ gặp Tư Nguyệt Yếng là xúm vô nói xấu Tây, ngắt véo địa chủ, xỉa xói cái xa hoa của những người giàu có như vợ chồng cô. Xời ơi, nói vậy mà nghe được! Nhà giàu sang cũng có kẻ tốt người xấu, người nghèo hèn cũng có kẻ hiền lương người trật búa chớ bộ! Cái bọn Việt Minh dưới mắt cô Hai Phụng Cơ là bọn ăn cướp cạn, vừa sát nhơn vừa điêu ngôn xảo ngữ để tự phong thánh phong thần. Tía má chồng cô tuy nghiêm khắc nhưng đối đãi với tá điền tá thổ vẫn có lòng nhơn đạo. Còn nhà nước Bảo Hộ theo cô thấy chẳng có chỗ nào đáng chê trách hết. Thời họ, dân Nam kỳ dù nghèo mạt rệp trên mâm cơm cũng có món canh, món mặn, món xào. Từ khi có vụ chống Pháp, bề sinh sống bắt đầu khó khăn, mua gì cũng mắc. Cô Hai Phụng Cơ vốn không ưa chánh trị nên cô không để ý gì đến thời sự. Cô nhìn những người ái quốc qua những tên Việt Minh đã cạo đầu còn mắng nhiếc bêu xấu cô đủ điều. Tụi khốn nạn đó sẵn dao bén còn cạo đôi chơn mày lá liễu của cô trụi lủi.
Hiện giờ cộng sản, Việt Minh ở đâu không thấy, cô chỉ thấy vợ chồng Ba Thể Phụng, cô Tư Nguyệt Yếng và lũ bạn cô Tư xúm lại bàn tán mấy cuốn tiểu thuyết đề cao kháng chiến của Vũ Anh Khanh, Thẩm Thệ Hà, Liên Chớp, Dương Tử Giang, cô Hai Phụng Cơ hầm lắm, đợi dịp chỉnh lý cái thứ ăn no rồi bày đặt ủng hộ bọn siêu mưu làm loạn kia.
Hôm đó nhà ông bà Phủ Bảnh có đám giỗ. Vợ chồng cô Hai Phụng Cơ, Ba Thể Phụng được mời tới dự tiệc. Cô Tư Nguyệt Yếng là con cháu trong nhà nên có mặt từ hôm bữa giỗ tiên qua bữa giỗ chánh. Từ khi con gái út của bà Phủ Bảnh là cô Út Ngọc Dung si tình một thanh niên khuynh cộng thì Tư Nguyệt Yếng thường theo vợ chồng Ba Thể Phụng đến rủ rê cô mỗi tháng đóng nguyệt liễm cho trạm y tế của phe kháng chiến ở Cái Ngang. Họ còn giới thiệu cô Út bọn công tác thành, bọn nội ứng mà cô Tư Nguyệt Yếng gọi bằng cái tên mỹ miều dũng cảm: “Những kẻ chiến đấu trong lòng địch” để cô Út mở rộng tầm hoạt động.
Sau bửa tiệc thịnh soạn, cô Út Ngọc Dung mời vợ chồng Ba Thể Phụng, cô Tư Nguyệt Yếng và cá cô bạn đồng tâm đồng chí ra nhà mát, giáp mé sông Cái Cá để dùng trà bánh. Cô Hai Phụng Cơ liếc xéo về phía họ rồi cất giọng rổn rảng hỏi bà Phủ Bảnh:
– Thưa bác, mấy năm nay bác có góp được lúa ở mấy sở ruộng miệt Tam Bình, chợ Thầy Phó không?
Bà Phủ Bảnh xụ mặt:
– Có được hột nào đâu, cháu! Hồi năm 45, hai bác nhờ ông bà khuất mày khuất mặt phò hộ nên trốn khỏi cuộc lùng bắt của bọn quỉ vương đó, kể là may lắm rồi. Giờ đây mình vác thây vô vùng đó để góp lúa thì có khác nào dưng thây vào miệng cọp, miệng chằn tinh cháu ơi!
Giọng cô Hai Phụng Cơ rổn rảng một thì giọng bà Phủ Bảnh rổn rảng mười. Giọng bà rót vào tai đám thanh niên rõ mồn một. Bà Phủ Bảnh tuyệt nhiên chưa rõ sự kết ước của cô gái út mình với chàng thanh niên khuynh cộng. Bà chỉ thấy cô trưởng nữ mình là cô Hai Nguyệt Thanh đã bao phen bị trầy vi tróc vẩy vì bọn Việt Minh, cùng sự điêu đứng của vợ chồng bà hồi năm 1945, cho nên bà hung hăng khạc từng tràng từng lọn lời ác, lời thô:
– Ai sao kệ mồ tổ họ, chớ riêng bác, bác thích Tây ở xứ mình hoài. Tụi Tây mà xuống tàu về nước, những kẻ chết trước là vợ chồng bác đó cháu. Hai bác làm sao sống nổi với bọn đầu trâu mặt ngựa Việt Minh đó!
Cô Hai Phụng Cơ cười hăng hắc, ôm chầm lấy bà Phủ Bảnh:
– Thiệt tình, sao bác nói hạp ý cháu quá!
° ° °
Nhiều đêm nằm gác tay lên trán để suy nghĩ nỗi nọ đường kia, cô Hai Phụng Cơ mới thấy dù đời sống thị thành hạp với óc cầu tiến và tánh ham hoạt động của cô, nhưng tâm hồn cô đã mọc rễ vào vùng đất U Minh Thượng, xóm Cây Da, chợ Chắc Băng khó mà bứt ra. Ðành rằng đất phèn khô khan, trồng lúa thì được mà lập vườn phải đợi vài chục năm nữa, nhưng đó là cuộc đất hứa hẹn vì nhà nước bắt đầu đào thêm rạch, khơi thêm ngòi mới. Chất phèn trong đất mỗi mùa mưa, theo nước mưa trôi xuôi ra biển mỗi lúc một nhiều. Trong những chuyến đi thăm bà con bên chồng ở miệt Hóc Hoả, Hoả Lựu, vịnh Chèo, vịnh Trà Bay, cô Hai Phụng Cơ thấy đất cát vùng đó bắt đầu trồng được chuối, mãng cầu xiêm, dừa, cau, khó …Những vùng đó nào có xa xôi gì với quê chồng cô, vậy thì cái ngày U Minh Thượng lập thành vườn chắc cũng không mấy lâu. Nhưng Việt Minh đã xô đẩy vợ chồng cô Hai Nguyệt Thanh và vợ chồng cô khỏi cuộc đất hứa hẹn đó. Sau hiệp định Genève, cô dò dẫm về thăm quê chồng thì nghe rằng trước khi tập kết ra bắc, Việt Minh gài bọn nằm vùng rất đông. Chúng đã nửa đêm tới nhà bắt thầy Tư Thạnh con ông Bang Biện Hanh đem di thủ tiêu. Chúng còn liệng lựu đạn vào đám tiệc của Xã trưởng Thọ. Cảnh sát hương thôn yếu quá, không dám vô sâu trong lán trong bưng nên bọn nằm vùng vẫn tiếp tục lộng hành.
Ðường về quê chồng đối với cô Hai Phụng Cơ kể như mất lối. Thuở ở xóm Cây Da tuy cô siêng năng lo việc tề gia nội trợ nhưng không quá nô lệ vào thời giờ như khi ra thị thành buôn bán. Ðối với cô, nó là thiên đường vì vợ chồng cô đã sống đời tự lập, đã nếm mùi hạnh phúc lứa đôi ở đó. Hai thằng con cô không hề giữ lại một chút gì về quãng đời thơ ấu của chúng nơi quê cũ. Thằng Khương thi đậu tú tài liền ghi tên học Y khoa, còn thằng Ninh thì học Dược. Thằng anh đãi bôi:
– Con ráng kiếm tiền để về già chuộc lại ruộng vườn xưa, sửa lại mái nhà hương hoả. Từ đây tới đó, tình hình thời cuộc sẽ đổi khác, má tin đi!
Thằng em cũng nói xạo:
– Hễ lúc nào đầu óc căng thẳng, con đọc truyện đồng quê của Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam là đầu óc con mát rười rượi. Kiếm nhiều tiền, con sẽ mua vườn ở ven đô hay vùng phụ cận tỉnh nhà, con sẽ nhường cho má sắp đặt khuôn viên giống như nhà cửa, khuôn viên ở xóm Cây Da.
Ôi, tất cả còn là lời hứa, còn là dự định, bao giờ mới thực hiện được đây? Cô Hai Phụng Cơ dẫu sao cũng bằng bụng lắm. Cô nghĩ con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Cô chẳng có cái tài gì đặc biệt để cho các con giống, cô chỉ có niềm yêu đất quê. Tụi nó mà biết noi theo chí hướng và tấm lòng tha thiết với cố hương thì tụi nó sẽ tạo được một cơ nghiệp, một giang san cho con cháu sau nầy.
Con Phụng Kiều thi đậu xong trung học đệ nhứt cấp thì chọn học ban A. Nó thường khoe với cả nhà:
– Chèn ơi, thầy Toản dạy toán lý hoá ăn nói đậm đà, có duyên ác!
Con Phụng Song chõ mỏ:
– Em biết mà, thẩy là người Bắc kỳ.
Con Phụng Kiều trợn mắt nhìn em, táp liền:
– Bắc kỳ rồi sao? Bộ Bắc kỳ không có quyền hát hay, nói giỏi hay sao? Tao thử hỏi mầy: ca sĩ hát tân nhạc xứ mình, người Bắc nhiều hay người Nam nhiều? Trong mấy cuộc họp, ai lên phát biểu ý kiến hay? Tao thấy người Nam mình hát vọng cổ thì mùi, còn hát tân nhạc thì lạt nhách. Hễ vô hội họp thì người Nam mình ngồi thù lù một đống, quan bảy cũng ừ, quan tư cũng gật…
Cô Hai Phụng Cơ hoảng kinh nhìn cô trưởng nữ. Coi vèo nầy, con nha đầu kia mê trai Bắc kỳ rồi. Cái thứ Bắc kỳ vô đây ở nhờ mà luôn coi mình là khách. Họ ăn vú sữa, xoài, tôm càng, cá chái mà miệng cứ luôn luôn ca tụng đào, mơ, mắm rươi, cá chép…Cô nhứt định rồi, không cho nó kết hôn với kẻ khác xứ. Ai chê cô kỳ thị Bắc Nam cô chịu, chớ cô nhứt định chọn rể nếu không là người sông Hậu thì cũng là người sông Tiền, biết rành tập tục miền Nam, biết thưởng thức cải lương, vọng cổ, biết nhậu rượu đế với thịt chuột, dơi, rắn, lươn…Nhưng rồi con Phụng Kiều của cô tuy khen thầy Toản nói giỏi, hát tân nhạc hay mà nó lại chọn thằng sinh viên Bắc kỳ học trường Nông lâm súc. Thằng nầy tuy khôi ngô nhưng ít nói, giọng thùng thiếc bể nên hát tân nhạc rất dở. Cô Hai Phụng Cơ bực mình lắm vì bọn Tư Nguyệt Yếng, Ba Thể Phụng cứ theo eo sèo chì chiết.
Sự chia rẽ Bắc Nam càng lúc càng phai lợt dần trong tâm tưởng hai bên, Bắc cũng như Nam. Ðó là lúc vợ chồng cô ghiền nghe ngâm thơ Tao Ðàn, mê trà mạn sen, ưa ăn bánh cuốn, phở, bánh tôm chiên, bánh cốm, bánh xu xê…Nhìn thằng rể Bắc kỳ ăn thử một múi sầu riêng mà nhợn tới nhợn lui, cô Hai Phụng Cơ thông cảm:
– Cũng có nhiều người Nam không ăn được sầu riêng vì chê hôi, để má gọt xoài cát, đu đủ cho con ăn.
Tía má chàng rể Bắc kỳ vốn hấp thụ nho phong nên cư xử đứng đắn, ăn nói mực thước khiến trước mặt họ, cô Hai Phụng Cơ cảm thấy mình quê mùa kém cỏi. Dù họ không có chỗ nào đáng chê trách, nhưng cô vẫn kiếm chuyện để hạ họ xuống ngang hàng thì cô mới bằng bụng. Bởi đó, trong bức thư gởi cho vợ chồng Hai Tường, cô viết: “Ông suôi bà suôi của tụi em mặt mày chim bỉm. Xời ơi, theo người Nam mình, suôi gia gọi nhau bằng anh chị. Ðằng nầy họ gọi tụi em bằng ông bà..Xí, cái thứ trôi sông lạc chợ vô tới quê người mà không chịu nhập giang tùy tục, cứ ăn nói kiểu cách, nghi lể rườm rà thấy phát ghét!”
Con Phụng Kiều tuy được làm kỹ sư phu nhơn nhưng cô Hai Phụng Cơ coi con gái mình như Chiêu Quân cống Hồ. Cô chỉ còn cậy trông vô sự hiểu biết của hai đứa kế. Nhưng ông bà ông vải ơi, trái tim con người vốn dại dột. Nghe con Phụng Các mở miệng ra là khoe dân Nam mình thế nầy, dân Nam mình thế nọ, ai có dè nó lên Sài gòn gặp một thằng Bình Ðịnh là lậm liền. Nó ỏn ẻn khoe với con Phụng Song:
– Ảnh sanh trưởng tại làng Tây Sơn, quê hương của vua Quang Trung Nguyễn Huệ đó đa. Ảnh còn biết võ nữa. Em còn nhớ câu: “Ai về Bình Ðịnh mà coi. Ðờn bà cũng biết múa roi đi qườn” không?
Cô Hai Phụng Cơ sẳn lòng chiêm ngưỡng vua Quang Trung cùng chiến công hiển hách của vị anh hùng ấy. Cô cũng rất ái mộ văn tài của nhà văn Võ Phiến. Nhưng nếu hoàng đế Quang Trung có tái sanh, ông Võ Phiến có chưa vợ mà đi hỏi con Phụng Các, chắc cô cũng hoang mang lắm. Làmsao cô ưa nổi cái quê hương nghèo nàn cùng cách phát âm bù chả bù chẹt của một vùng trên dải đất Trung kỳ?
Phụng Các và gã sinh viên Bình Ðịnh kia vừa tốt nghiệp xong thì được bổ đi dạy ở Bình Dương. Có thêm thằng rể không phải là dân Nam kỳ quốc, lại chỉ là nhà mô phạm lương ba cọc ba đồng, cô Hai Phụng Cơ bất mãn ra mặt.
Trong chiến tranh, vùng kiểm soát của phe quốc gia sau chiến dịch Phụng Hoàng càng lúc càng thu hẹp. Cô Hai Phụng Cơ hết mong lập vườn ở ven đô hay các vùng phụ cận tỉnh Vĩnh Long vì vùng nào cũng có đánh nhau , có lộn xộn. Tuy bị cuốn theo mệnh nước nổi trôi, cô Hai Phụng Cơ vẫn hy vọng mong manh, hy vọng vô căn cứ. Nhiều đêm nhớ về U Minh Thượng, cô trằn trọc với nỗi u hoài khó hiểu trong khi chồng cô, Ba Thoại, ngủ ngáy pheo pheo bên cạnh. Từ lâu sống ở đô thị, tiếp xúc với thị dân miền Nam, với người Bắc trung lưu, nghe cách phát âm ráo rẻ của người Sài gòn, cô Hai Phụng Cơ nhớ tha thiết giọng nói quê mùa đả đớt của dân Hậu giang. Họ không phát âm đúng được những tiếng khởi đầu bằng chữ r và bằng chữ kh. Ôi làm sao cô quên câu “con cá gô bỏ vô gổ nhảy nghe gột ghẹt” và câu “phia phia ăn phai cho phẻ” của các anh nông dân, của các chị thương hồ? Vậy mà khi ra đồng làm ruộng hoặc lúc chèo ghe nới sông rộng, họ “mùi” sáu câu vọng cổ, vần và chữ được phát âm trúng phóc, nghe giống Út Trà Ôn, Hữu Phước thất kinh. Ôi Hậu Giang! Ôi quê xưa xa lắc! Có nhiều lúc cô tưởng chừng nó lọt ra ngoài giấc mộng qui khứ lai từ của cô khiến cô đau thắt ruột gan.
° ° °
Sau 30.4.75, đứa con trai lớn của cô Hai Phụng Cơ đi học tập năm năm rồi được thả về sống nhờ tiền cấp dưỡng của thằng cháu đích tôn của cô gởi về. Thằng thứ nhì nhờ vợ có quốc tịch Pháp nên được qua Pháp theo chính sách hồi hương. Con Phụng Song nhờ làm chiêu đãi viên hàng không nên bay qua đảo Guam trước ngày 30.4.75. Vợ chồng con Phụng Kiều liều thân vượt biển, trên chuyến hải hành phải thủy táng thằng con bốn tuổi vì thiếu nước. Sau đó gia đình nó định cư bên Úc. Vợ chồng con Phụng Các may mắn vượt biên êm xuôi qua Nam Dương rồi lập nghiệp ở Hoa kỳ. Con Phụng Song làm giấy tờ bảo lãnh cho cha mẹ qua Mỹ. Ba Thoại bắt đầu lẩn thẩn, ưa moi đống rác, lượm chai lọ, đồ phế thải chất đầy góc nhà. Còn cô Hai Phụng Cơ mạnh dạn mở tiệm bán sách báo, kèm thêm bánh mì nên sống rất vững.
Phụng Song làm quen được một chàng bác sĩ, dắt về nhà giới thiệu với cha mẹ:
– Nam kỳ chánh cống đó ba má.
Cô Hai Phụng Cơ bằng bụng lắm, lòng phơi phới. Chàng rể nầy chào đời ở Ô Môn thuộc Cần Thơ. Chàng có kiến thức sâu rộng về miền phù sa sông Cửu. Cô Hai Phụng Cơ có nhiều dịp kể cho chàng ta nghe về quê hương của chồng mình. Từ đó chàng lân la tới nhà cha mẹ vợ tương lai, chàng khuyến khích Ba Thoại viết hồi ký cho nên chồng cô có việc làm để giải trí. Cô Hai Phụng Cơ tưởng như ông trời vừa lì xì cho mình một đứa con mới, hồn quê lúc nào cũng sáng vằng vặc như bóng trăng rằm trong tâm tưởng. Cô gọi điện thoại qua Washington DC để báo cho anh chồng chị dâu, giọng háo hức:
– Anh chị ơi, con út của em tìm được thằng nầy thuộc gốc gác Nam kỳ để trao thân gởi phận rồi. Nam kỳ muôn năm!
Cô gọi điện thoại qua Pháp để báo tin cho đứa con trai thứ nhì bằng giọng đắc thắng:
– Con Phụng Song em con từ bấy lâu nay bưng rổ may đi nửa vòng trái đất mới tìm được một chàng dõng tướng Nam kỳ. Con nên mừng cho em con!
Cô gọi cho Phụng Các ở Texas, cho Phụng Kiều ở Sydney, khoe bằng giọng sôi nổi nồng nàn:
– Chèn ơi, Phật Trời nhận lời cầu xin của má nên mới lì xì cho má thằng rể bác sĩ sản sanh ở Ô Môn, tâm hồn mát rượi như giòng sông Bassac. Ai dè con Phụng Song có phước phận dường ấy. Biết đâu nay mai cộng sản bị tiêu diệt, nó sẽ về làm dâu đất Ô Môn. Từ Ô Môn đi U Minh Thượng bằng đò máy chỉ chừng một ngày là cùng.
Những khi chàng rể Nam kỳ tới chơi, cô đãi hết bánh tầm bì chan nước cốt dừa tới món suông, chạo tôm, gỏi gà…Cô mua tôm đông lạnh bự cỡ cườm tay để làm tôm bùn, cô mua cá hồi để thế cá lóc làm bún nước lèo…
Cha mẹ chàng rể tương lai ở chung với người anh kế chàng ta tận tiểu bang Ohio. Cô Hai Phụng Cơ kèo nài để được gặp ông bà suôi cho biết. Chàng rể cứ ừ hử cầm chừng, thái độ không mấy sốt sắng.
Thế rồi một hôm, Phụng Song mặt mày chù ụ, tiết lộ với má:
– Má à, ảnh thú thiệt với con rồi. Ba má ảnh là Bắc kỳ. Ba ảnh vốn là nhơn viên nhà dây thép vô Nam năm 1935. Thuở đó, lưu dân Bắc kỳ chỉ có mấy ông làm việc nhà dây thép và dân cạo mủ cao su. Má ảnh vô Nam một lượt với chồng. Bởi ảnh biết con kén chồng gốc Nam kỳ nên ảnh giấu giếm cội nguồn của ảnh. Mà cũng bởi sanh trong Nam nên ảnh nói tiếng Nam, ăn giá sống, húp nước dừa rồn rột không kém chi người Nam hết, do đó con mới lầm. Nhưng mà con thương ảnh lắm, xa ảnh chắc con chết…
Cô Hai Phụng Cơ hơi cau mày. Thiệt ra cô đã bớt kỳ thị Bắc Nam từ lâu. Cô chỉ muốn có chàng rể Nam kỳ để huấn luyện lũ cháu ngoại cô yêu miền Nam sâu sắc đậm đà hơn vậy thôi. Thôi duyên nợ biết sao mà lường được! Số các con gái cô là gặp duyên thiên lý, cô làm sao cưỡng lại ý trời? Vả lại mẹ nào mà nỡ ngăn cản nhơn duyên tốt lành của con? Cho nên, cô Hai Phụng Cơ sau phút do dự, hăng hái bảo:
– Ối, chánh quán mà nhằm nhò chi con! Chỉ có sanh quán là đáng kể! Như thẳng đây, sanh ở Ô Môn, học trung học Cần Thơ, đại học ở Sài gòn. Từ thuở nhỏ tới lớn nó hít thở không khí miền Nam, uống nước sông miền Nam, ăn cơm gạo, bột bún cùng con cá lá rau miền Nam, như vậy nó là người miền Nam rồi. Ðứa nào dám lôi nó về phe người Bắc là phải bước qua xác chết của mụ vợ Ba Thoại nầy. Thôi thì má cũng đành hô: “Bắc kỳ muôn năm” cho nó gọn!

Tên, thứ, hỗn danh

Một buổi sáng nọ, tôi đi mua sắm một ít thực phẩm tại hiệu tạp hóa ở khu Maubert Mutualité (quận 5, Paris), bỗng có tiếng gọi:
– Có phải ông là cậu Ba Thiềng Đức không?
Tôi quay lại. Một bà già co ro trong tấm áo măng-tô màu xám, hơi cũ, đầu trùm khăn san, cổ quấn khăn len màu rượu chát. Tôi vội hỏi:
– Thưa bà, chắc bà có gặp tôi lần nào chăng?
Bà ta kêu lên:
– Chèn ơi, bộ cậu nhìn không ra tui sao? Tui là cô Sáu Cầu Kè đây?
Cô Sáu Cầu Kè! Tôi nhớ ra rồi. Nhưng mà trải qua hai mươi năm, biết bao là thay đổi, đổi thay. Cô đã trở thành bà già. Còn tôi đã vượt qua chặng đường xuân xanh quá xa rồi. Xưa kia, tôi ở làng Thành Đức, một làng ở ngoại ô tỉnh Vĩnh Long. Vì có một ông huyện trấn nhậm ở đó tên Thành, nên dân chúng cữ tên và gọi là Thiềng Đức mãi tới bây giờ. Cầu kè là làng kế bên, nối với Thiềng Đức bằng một khúc lộ đá xanh.
Cô Sáu Cầu Kè ngày xưa nổi tiếng khá xinh đẹp. Lúc đó tôi mới mười lăm, còn cô đã ngoài ba mươi tuổi. Kể ra, cô thuộc thế hệ song thân tôi. Đó là mẫu phụ nữ nửa chợ nửa quê, tóc xức dầu bông lài bóng loáng, chải kỹ rồi bới thành cái bí bo tròn tròn như trái cam, giắt một cây trâm nạm hột thủy tinh lấp lánh. Cô đeo bông tai cẩm thạch, đeo vòng cẩm thạch và vòng bánh ú bằng đồng, cổ đeo giây chuyền với miếng mề đay bằng cẩm thạch chạm hình một chùm nho, ngón tay cô đeo nhẫn nhận kim cương lấm tấm. Răng cô Sáu trắng trong, vậy mà cô lại bịt chiếc răng vàng ở bên mép và thích cười tít toát để khoe răng vàng làm duyên.
Tôi mời cô Sáu đi uống nước vì dẫu sao cô cũng là người đồng hương. Trong tiệm nước, cô chặm nước mắt:
– Cậu còn nhớ thằng Tính, con trai đầu lòng của tui không? Nó chết trong trại cải tạo rồi cậu à. Tụi Cộng sản nào tha một sĩ quan cấp đại úy làm ở phòng tình báo, đã từng tham gia chiến dịch Phụng Hoàng? Còn con vợ nó cũng chết vì bịnh phù thủng ở vùng kinh tế mới, ven quốc lộ 13, quận Chơn Thành, tỉnh Bình Long. Thằng con trai kế của tui gom hai đứa cháu mồ côi, rồi cùng tôi tháo thân vượt biển, rốt cuộc đến đây. Thằng Sự, con trai kế của tôi, cậu còn nhớ nó chớ? Hồi xưa, cậu ưa rủ nó vô vườn lùng hái ổi xá lỵ hoài đó mà.
Tôi gật đầu xác nhận. Cô lại kể tiếp:
– Từ năm 1968, tui xoay qua nghề bán thuốc tây, mướn bằng cấp cô dược sĩ Minh Tần ở ngoài chợ. Việc làm ăn tấn tới nên tiền bạc tui phủ phê. Tui sửa sang nhà cửa, mua sắm tủ, bàn hực hỡ. Chừng tụi Cộng sản vô, con Tư Chèo Bẻo nó kẻ vạch với thằng cha huyện ủy sao đó. Tụi ôn binh đó đuổi mẹ con tui ra khỏi nhà, không kịp lấy cái khăn mà đội đầu.
Tư Chèo Bẻo! Tôi cũng nhớ ra rồi! Tôi kêu nhân vật đó bằng dì Tư, dì là em bà con xa của má tôi. Dì Tư Chèo Bẻo vào thời kháng Pháp cũng có tham dự vào đoàn thể Phụ Nữ Tiền Phong. Tên cúng cơm của dì là Kiệu, nhưng dì ghét cay ghét đắng cái tên đó như đàn bà ghét tình địch của mình. Theo dì, Kiệu dùng để đỡ chân người ta, chịu cảnh ở dưới đít dưới khu người ta. Bởi vậy dì chọn cho mình cái tên Ngọc Trâm để được ở để đầu trên tóc người ta. Nhưng dân chúng không kêu dì bằng Ngọc Trâm mà kêu dì bằng cô Tư Chèo Bẻo vì dì thích nói chuyện lăng líu suốt ngày như con chim chèo bẻo, toàn là chuyện đầu cua tai nheo nên ai cũng xem thường dì cả. Tư Chèo Bẻo có lưỡng quyền cao, hàm răng hơi hô, mặt không có điểm nào đáng làm thơ ca ngợi. Tuy vậy, dì kén chồng, thường bạ ai cũng tuyên bố:
– Tui coi vậy chớ khó tánh lắm. Cái thứ công tử bột ăn mặc quần áo ủi sắc lẻm, tóc chải bóng đừng có mong cầu hôn tui. Người chồng tương lai của tui phải là kẻ trượng phu mã thượng, “tóc lộng tơi bời gió bốn phương.
Câu tuyên bố sặc mùi văn tiểu thuyết ba xu nên dì được dân trong xóm âu yếm tặng cho một cái tên kiều diễm khác: Tư Tiểu Thuyết.
Cô Sáu Cầu Kè nói:
– Con Tư hoạt động cho tụi Cộng sản lâu rồi, khoảng 1948 gì gì đó. Bí danh của nó là cô Tám Hồ. Nghe nói trong tổ chức hoạt động ở vùng Long Hồ, nó đứng vào hàng thứ tám.
Tôi thở dài. Từ Tư Kiệu, xuyên qua Tư Chèo Bẻo, Tư Tiểu Thuyết rồi qua Ngọc Trâm, rồi đến Tám Hồ quả là giai đoạn trường kỳ khốc liệt, trên 30 năm.
Tôi cũng không quên cô dược sĩ Minh Tần. Đó là cô gái già khó tánh, hay bắt lỗi, bắt phải mọi người chung quanh. Cô có chứng bịnh gì không biết mà mắt cô trố, lòi ra ngoài hố mắt. Có lần cô đi chợ Vĩnh Long ăn bánh canh. Một thằng du đãng ghẹo cô:
– Cô nầy mắt lòi ra như mắt con cá thòi lòi. Coi chừng cô ơi, cô cúi xuống húp bánh canh, cặp mắt cô rớt vô tô nghe cái chũm bây giờ.
Vốn ghét cô kiêu căng, khó chịu nên dân vùng Cầu Lộ, cầu Bà Điều gọi cô là cô Chín Thòi Lòi.
Dân tỉnh tôi thường gọi nhau bằng thứ tự trong hàng ngũ anh chị em trong nhà như: cô Hai, cô Tư, cậu Chín, thím Mười, dì Út. Đôi lúc, dễ xác định cho dễ nhớ họ kèm cái tên vào thứ như: cậu Hai Luông, cô Ba Giỏi, chị Chín Thạnh, anh Mười Liễu… Thứ cũng thường đi kèm với địa danh người ở như cô Sáu Cầu Kè, cô Bảy Chợ Lách, anh Năm Long Hồ, cậu chín Cầu Vỹ, thím sáu Trà Ôn…
Với óc thực tiễn dân miền Nam cũng thích gọi cái thứ kèm theo nghề nghiệp của đương sự: thằng Hai Lò Rèn, cậu Tư Thợ Nguội, dượng Chín Sốp Phơ, anh Chín Thợ Cưa, thằng Bảy Y Tá, thầy Năm Thông Ngôn, cô Út Mụ Vườn (mụ vườn là cô đỡ đẻ ở miệt vườn tược, rẫy bái).
Với óc trào lộng phong phú, người ta còn ghép thứ vào đặc tính của nhân vật: cô Hai Xí Xọn, cô Ba Chót Chét, thằng Năm Cà Chớn, con Bảy Lí Lắc.
Cô Hai Xí Xọn răng hư, phải trồng bốn cái răng vàng, nhà ở miệt Cầu Lầu, gần nhà máy chà gạo. Nhà cô thuộc nhà bánh ếch, trước nhà có trồng cây khế. Chính thằng Năm Cà Chớn đẹp trai kia đã nói cô trồng khế để chùi bóng hàm răng vàng. Cô chửi nó tắt bếp. Nó vẫn cười hề hề, vẫn giữ cái hỗn danh cà chớn như cũ, còn cô Hai Xí Xọn vì giận quá hóa ra dữ, bị gán thêm hỗn danh Hai Kiến Lửa… Có phải cạy răng vàng trồng răng xương, rồi đi lấy chồng theo đạo Hòa Hảo ở Cái Vồn. Thằng Năm Cà Chớn còn dám chọc cô dược sĩ Minh Tần. Chính hắn nói mắt cô giống mắt cá thòi lòi chớ ai “dám trồng khoai đất nầy?” Năm Cà Chớn ve vãn được con Ba Lí Lắc, sau đó hắn lại mèo mỡ lung tung. Con Ba ghen quá, buồn rầu ngồi đâu tiu nghỉu đó nên bị gán thêm cái tên con Ba Bún Thiu.
Có cô nữ sinh học trường đầm tên Paulette, nhưng dân trong xóm không quen kêu tiếng Tây, nên kêu cô là cô Hai Bò Lết, rồi kêu thêm “Hai vừa bò vừa lết.” Lại có cô Năm Nguyệt Nga lấy chồng Tây đẻ thằng con tên Henri Mallet, nhưng thiên hạ gọi thằng Tây Ma Lè, hoặc thằng Hai Ma Lè…
Cô Năm Nguyệt Nga thích mặc áo dài cẩm quít nên bị gắn cho cái hỗn danh cô Năm Cẩm Quít. Cô Hai Ngọc Hạnh vào khoảng năm 1938, thích đi xe kiếng, một loại xe có cửa kiếng, do ngựa kéo, rất thịnh hành ở Sài gòn. Cô bị dân trong xóm đổi lại là cô Hai Xe Kiếng và bị tặng luôn hai câu ca dao:
“Bước lên xe kiếng đi viếng mả chồng
Mả chưa cỏ mọc trong lòng thọ thai”.
Cô Hai Xe Kiếng rủa:
– Tui mà gặp ai nói xấu tui, tui luộc nó như luộc ốc, luộc hột vịt lộn, đừng có chọc tui mà mang họa.
Một mặt cô hăm he, nhưng một mặt cô buồn cảnh góa bụa nên cô đi chùa dâng hương. Đến chùa cô gặp thầy sãi trắng trẻo có cặp mắt ướt rượt. Cô ve vãn, làm trành làm tréo thầy cách nào không biết làm thầy bỏ chùa cùng cô về làng Lộc Hòa trồng khoai mỡ, khoai môn, để tóc hoàn tục. Dân xóm đặt cho cô là cô Hai Thị Mầu.
Khi tôi trưởng thành, chị tôi rất thân thiết với cô Sáu Cầu Kè, được cô thố lộ tâm sự rất nhiều. Giữa cô Sáu Cầu Kè, và thầy Năm Thông Ngôn có một thiên tình sử khá tức cười. Số là thầy Năm làm thông ngôn (tức là thông dịch viên) cho quan chánh chủ tỉnh người Pháp, có ăn cơm tháng ở nhà ông Phán Dậu, gần nhà ông Kế Hiền Thoại, cha cô Sáu Cầu Kè. Thuở đó thầy trạc hai mươi lăm, cao ráo, trắng trẻo, cười tươi, nheo mắt tình tứ, ưa ăn nói pha lửng rất có duyên. Cô Sáu chưa bịt răng vàng, đẹp nõn nà, tóc bới xệ xuống vai, trên trán tóc chải uốn éo như sóng lượn ở Vũng Tàu. Trong vườn cô Sáu có cây chùm ruột sai trái. Đêm đêm, thầy Năm leo rào qua bẻ chùm ruột. Đêm nọ, cô Sáu tình cờ soi đèn ra vườn tìm chiếc kẹp tóc mà cô đánh rớt, bắt gặp thầy Năm đang leo trên cây chùm ruột. Cô liền hăm he:
– Thầy Năm ăn trộm chùm ruột hén? Tui mà la lên một tiếng là thầy có nước… đội quần thiên hạ.
Thầy Năm Thông Ngôn cười hệch hạc:
– Đâu mà có, cô Sáu. Tui đâu phải là đờn bà chửa mà thích ăn chua? Tui leo lên cây chùm ruột nầy để tìm ổ chim dòng dọc đó đa cô.
Cô Sáu xí một tiếng dài ra vẻ ghét bỏ lắm. Thầy Năm tuột xuống, túi quần thầy đầy nhóc trái chùm ruột, nổi cộm hẳn lên. Cô Sáu Cầu Kè nguýt:
– Thầy nói vậy thì có thằng Cuội hoặc con chó nó tin thầy. Nhìn túi quần của thầy cũng đủ biết rồi, khỏi cần dài dòng rồng rắn cho mệt.
– Cô Sáu à, có vài ba trái chùm ruột, cô nỡ nhiếc mắng tui cho đành sao cô Sáu?
Cô Sáu xỉa xói:
– Trái cây ở vườn nầy mất hoài, không thầy thì còn ai vô đây? Mặt mày sáng láng bảnh trai như vầy mà học nghề leo tường, xé rào, chui lỗ chó mà không biết nhục. Thầy không thích ăn chùm ruột thì bẻ chùm ruột cho con mèo thầy ăn. Biết đâu nó chẳng ốm nghén, chẳng thích ăn chua?
Thầy Năm Thông Ngôn nói:
– Cô Sáu ơi, chùm ruột chua có một, còn cô chua cho tới mười, cô Sáu à. Cô xài xể tui, cô mang tiếng chanh chua, có lợi ích gì cho cô đâu.
Hai đàng cãi cọ nhau. Cô Sáu nổi giận xông tới đè thầy Năm xuống, móc chùm ruột ra, toan tri hô lên. Nhưng thầy Năm năn nỉ:
– Cô Sáu không nên, cô à. Cô đè tui như vầy, nếu chuyện nầy đổ bể ra cô cùng mang tiếng chớ chẳng không. Cô nên để tui ra về. Sáng mai, tui sẽ qua nói phải quấy với ông thân cô.
Cô Sáu hậm hực rút lui. Rồi không hiểu từ đó về sau, hai đàng giàn xếp cách nào không biết mà tụi nhỏ trong xóm đồn là cả hai thường hẹn nhau ra vườn làng. Lại nữa, chuyện cô Sáu đè thầy Năm cũng do cô tiết lộ với cô Hai Xí Xọn vốn là bạn thân cô. Rồi đó, từ những cái miệng thèo lẻo, chuyện đó lan rộng ra. Câu vè khôi hài được trở thành câu đồng dao:
“Cô Sáu Cầu Kè đè thầy Năm Thông Ngôn
Thầy Năm Thông Ngôn hôn cô Sáu Cầu Kè”.
Cô Sáu bỗng dưng biếng ăn, biếng ngủ, mắt trõm lơ. Cô Hai Ngọc Hạnh tức là cô Hai Xe Kiếng, thuở đó chưa góa bụa, xầm xì với con Ba Lí Lắc:
– Mầy thấy gì không, Ba? Trái cổ con Sáu nhảy thoi thóp, lông mày nó dựng đứng, con đó ốm nghén rồi, Ba à.
Con Ba Lí Lắc ỏn ẻn:
– Hèn chi, chị Sáu ăn chua dễ sợ. Hết ăn xoài sống tới ăn me, ăn cốc, ăn khế, ăn dưa cải cả cây. Chưa đã đời, chỉ còn uống thêm giấm, uống nước hèm nữa.
Cô Sáu một hôm hẹn thầy Năm ở Cù lao An Thành. Cô cùng thầy ngồi chiếc tam bản rồi bơi vào đám lau sậy bít bùng. Cô khóc bắt đền:
– Tại anh ráo trọi hết. Anh dỗ ngọt, dỗ mặn nên em mới xiêu lòng, mang của nợ trong bụng. Bây giờ nó lớn cỡ con cá lòng tong. Hai tháng sau nó lớn như con cá rô mề, rồi lớn cỡ con cá sặc rằn, rồi bự bằng con cá vồ… Rồi nó càng lúc càng nở bề dài lẫn bề ngang tới lúc nó bực cỡ bắp vế, cỡ con cá bống tượng. Anh mà không tính vuông tròn cho em, em mua giây luộc thắt cổ liền hoặc em mua thuốc chuột tự tử cho mát thân…
Thầy Năm Thông Ngôn ứ hự, ngồi buồn hiu.
Ông Kế Hiền Thoại, cha cô Sáu, sợ để lâu tiếng xấu đồn càng lớn, càng rộng, nên mời thầy Năm lại, nói phải quấy sao đó nên ít lâu sau, cô Sáu trở thành vợ của thầy Năm.
Thầy Năm tuy ứ hự khi bị cô Sáu rúng ép cưới gấp, nhưng khi sống cuộc đời lứa đôi rồi thì thầy hạnh phúc tràn trề. Cô Sáu chiều chồng như chiều vong, nhưng khi cô nổi cơn ghen thì phải biết: cô dữ còn hơn bà Chằng Lửa, hơn quỉ La Sát. Cô hăm he chồng nghe ớn óc:
– Tui mà bắt được anh tò tí tí te với con nào thì hai đứa sẽ coi tui ra tay. Tui lụi cả hai rồi đem nướng như nướng cá trê, tui xé cả hai ra trộn gỏi, tui luộc cả hai như luộc bắp, luộc khoai, tui bằm cả hai rồi vò viên như bằm thịt bò…
Thầy Năm chờ sự tăng trưởng của cái bào thai trong bụng vợ. Vậy mà bụng của cô Sáu vẫn mềm vẫn thon, chứa không lọt con cá ròng ròng bé tí teo chớ đừng nói là cá lòng tong. Mãi bốn tháng, cái bụng của cô cứ xẹp lép. Thầy hỏi cớ sự, cô cười mơn:
– Em có chửa hồi nào đâu. Nhưng nếu em không dùng kế mọn rúng ép anh cưới em gấp thì anh cứ ngâm tôm hoài, chẳng chịu tính tới…
Thầy Năm bực mình:
– Hồi nào, tui muốn em đừng có mang bầu, chớ bây giờ tui trông ngày trông đêm mà sao cái bụng của em chẳng có biến chuyển gì ráo? Hay em là thứ cây độc không trái, gái độc không con? Em sượng ngắt như trứng gà không trống, em chai ngắt như con ong thợ…
– Vô duyên nà. Tính ra từ lúc mình lén lút vụng trộm với nhau cho tới thành vợ thành chồng mới có sáu tháng thôi mà anh rống, anh la đòi em đẻ gấp. Dòng họ em, bà nào bà nấy đều đẻ sai như chuột bạch, như cá bống trứng. Anh chớ lo.
Ông chánh chủ tỉnh đổi về Tây. Tình nhân của ông bà cô Ba Chót Chét không được mang theo. Dân trong tỉnh thường hát:
“Chiều chiều, ông Chánh về Tây
Cô Ba ở lại lấy thầy Thông Ngôn
Thông Ngôn, ký lục bạc chục không màng
Lấy chồng thợ bạc đeo vàng đỏ tay”.
Cô Ba Chót Chét đây tên là Khế. Khi sanh ra cô, mẹ cô từ ngoài vườn chạy vào nhà, tới gốc cây khế liền xổ cô ra. Do đó mà bà đặt tên cô là Khế. Cô Ba Khế buồn về cái tên xấy háy của mình. Cô ân hận là má cô không chạy kịp tới gốc cây mai, cách cây khế không xa để đẻ ra cô, để cô có cái tên Mai đẹp đẽ với chị em trong vùng. Do đó, khi làm tình nhơn của ông Chánh chủ tỉnh, cô ấy tên là Pauline Tuyết Mai. Cô uốn tóc, mặc áo đầm, giồi phấn tô son, xức dầu thơm. Chiều chiều, cô ngồi xe mui trần, phô trương khuôn mặt trang điểm tỉ mỉ, quần áo rực rỡ, nữ trang choáng lộn. Gặp ai quen biết cô cũng khoe khoang nhà cửa, gấm lụa, hột xoàn, nữ trang của cô. Bởi đó, không ai thèm kêu cô là Pauline Tuyết Mai, mà họ gọi cô là cô Ba Chót Chét.
Cô Sáu Cầu Kè, từ khi ông Chánh về Tây, cô sợ cô Ba Chót Chét mượn chồng mình xài đã đời mới chịu trả hoặc cướp sống chồng mình luôn nên cô quyết định khượi cái răng vàng, trồng răng xương và nhứt là cô phải uốn tóc. Khi từ tiệm uốn về tới nhà, cô giả bộ nói với mẹ chồng:
– Con đi lại tiệm gội đầu, họ gội bằng thuốc gì không biết mà tóc quăn queo, cháy hoe hoe. Con liền bắt đền họ. Họ cắt bỏ tóc cháy, rồi uốn quăn kỳ cục lắm nên con khóc ướt cả khăn mùi xoa.
Cô mở bóp loay hoay tìm khăn tay. Bà mẹ chồng cản lại:
– Thôi thôi, đủ rồi. Cô đem khăn nhúng nước rồi về trình cho tui phải không? Tui già, có hai thứ tóc trên đầu mà con dâu tui muốn ló mòi qua mặt tui chớ.
Bà mẹ chồng háy nàng dâu một cái thật bén, rồi ứ hự ra chiều bất mãn lắm. Bà than:
– Tóc đang dài, suông đuột mà nó nỡ đành cắt ngắn rồi uốn quăn queo như “xà lách soong,” như mấy cái bùi nhùi chùi nồi chùi chảo !…
Cô Sáu Cầu Kè giờ đây không còn giữ một chút hình ảnh cũ nào trong nhân dạng, trên khuôn mặt, trừ cách nói chuyện mộc mạc và bộc trực. Thời gian đã làm cho mặt cô dùn da ổi, mắt cô mờ, lưng cô còng, vai cô rút. Đây là hình ảnh một bà già lưu lạc và đau khổ.
Tôi hình dung lại thuở cô còn thanh xuân, với khuôn mặt trái soan, nước da trắng mịn, hàm răng trắng trong như hột dưa leo, có một thời có chiếc răng bịt vàng bên mép để cô khoe duyên với các cô gái miệt vườn. Đó là thời kỳ tại tỉnh tôi, trên khúc lộ từ cầu Cái Cam đến chợ Vĩnh Long, xe thổ mộ bắt đầu chạy từ năm giờ sáng, tiếng nhạc ngựa rung leng keng, vó ngựa khua dòn dã trên mặt nhựa. Đó là thời kỳ máy móc chưa thạnh hành dầu ở nơi thị tứ hoặc chốn phồn hoa. Một thời kỳ thanh bình, mọi người an ổn làm ăn, hưởng thú thanh nhàn, không thể mường tượng nổi chuyện chiến tranh, giết chóc. Thời kỳ đó cô Sáu Cầu Kè, cô Hai Chót Chét, cô Năm Cẩm Quít, cô Hai Xí Xọn tối tối rủ nhau ra chợ Vĩnh Long xem cải lương, khi ra về thì đốt đuốc, rồi thì thào bàn tán về đào kép, rồi cùng xác nhận: “Hát bội hành tội người ta” hoặc “mê cải lương, ốm lòi xương xườn, xương sống…”
Hồi đó nào ai biết ba cái tiếng “giờ giới nghiêm,” nào ai biết những tiếng “tuần tiễu”, “gõ cửa xét nhà.” Dân chúng sợ chăng là hình ma bóng quỉ trong các câu chuyện kể, nhứt là chuyện Quỉ Vương ra đời là có nắng lửa, mưa dầu, có đày ải, chết chóc. Và Quỉ Vương đó, ngày nay còn có một tên nữa là Cộng sản.
Nước Việt Nam mình đã trải qua một cuộc nội chiến thảm khốc hơn cảnh nắng lửa mưa dầu suốt 20 năm. Và rốt cuộc, Quỉ Vương đã chiếm miền Nam. Biết bao người trôi giạt ra biển để tìm đất tạm dung. Bây giờ, người miền Nam mới rõ những trận pháo kích, phóng tiễn còn độc dữ hơn nắng lửa mưa dầu gấp trăm ngàn lần.
Thầy Năm Thông Ngôn vào năm 1945 khi Việt Minh lên nắm chính quyền, bị họ bắt xử tử vì thầy bị gán vào tội Việt gian, giao hảo với thực dân Pháp. Cô Sáu Cầu Kè trải qua 30 năm góa bụa, rồi cuối năm Ất Mão 1975, lại khóc thêm cái chết của đứa con đầu lòng. Người đàn bà khả ái và vui tánh đó chịu hai lần tai ương tang tóc, sống hai chặng đời lịch sử.
Nhân dịp đó, tôi nhắc tới cô Ba Chót Chét, cô Sáu Cầu Kè cất giọng hậm hực:
– Mèn đéc ơi, cái con đĩ Chằng ăn trăn quấn, con đĩ Hà Bá Long Vương đó làm giao liên cho tụi Cộng sản từ hồi năm 1960. Bí danh của nó là chị Mười Vinh, không hiểu nghĩa là gì. Giờ đây, nó làm chức gì lớn lắm trong hội Phụ Nữ tỉnh mình.
Tôi lại nghĩ đến thân thế mình. Thuở còn là học sinh trường tỉnh, người trong xóm gọi tôi là cậu Ba Thiềng Đức vì tôi chẳng có sự nghiệp, chức tước chi, tiểu sử trơn lu… Khi tôi viết báo ở Sài gòn, lâu lâu về thăm quê, thiên hạ gọi tên là cậu Ba Nhựt Trình, vì viết báo há không phải là một nghề hay sao?
Sau ngày 30.4.75, tôi lại về thăm quê, không nghề ngỗng, không nơi nương tựa, chỉ vác cái miệng đi ăn chực từ nhà quen nầy tới nhà quen nọ. Nhưng không ai nỡ gọi tôi là cậu Ba Thất Nghiệp, cậu Ba Ăn Chực, cậu Ba Cà Nhổng, cậu Ba Cà Chớn… Họ niềm nở tiếp đón, đùm bọc tôi. Và nếu tôi tháo vát, có thể giãi nắng dầm mưa ở chợ trời thì họ sẽ gọi tôi là cậu Ba Chợ Trời. Đằng này tôi cứ vác miệng đi ăn chực. Họ đành gọi tôi là cậu Ba Thiềng Đức như xưa. Thời cuộc làm cho cái hỗn danh tôi trẻ lại, trở về nguyên thủy, tuy tâm hồn tôi già đắng, già hôi, mệt mỏi vô cùng trên các khúc quanh của lịch sử tang thương.
Tôi nhìn cô Sáu Cầu Kè, mường tượng lại khuôn mặt trẻ trung của cô khoảng thời gian 1948 đến năm 1960 xa xưa. Tôi yêu mến biết bao những tên Hai Luông, Mười Liễu, Sáu Cầu Kè, Bảy Chợ Lách, Bảy Y Tá… Họ là đồng bào, đồng hương của tôi, tượng trưng cho lớp người hiền hòa, chất phác, cần cù. Tôi đã gặp họ ở các tiệm nước khách trú, ở chợ nhóm, ở các lễ kỳ yên có hát bội, hát tiều, hát quảng giúp vui. Họ cần mẫn làm ăn, yêu nơi sanh quán. Thế mà giờ đây, trước làn sóng đỏ phủ trùm đất nước, họ trôi giạt về đâu?
Tôi cũng yêu cái tên Tư Kiệu, Ba Khế, yêu hơn cái hỗn danh của họ là Tư Chèo Bẻo, Ba Chót Chét hoặc yêu thêm cái biệt hiệu Ngọc Trâm, Pauline Tuyết Mai của họ nhưng quả tình tôi sợ lắm cái bí danh Tám Hồ, Mười Vinh mà Đảng đã ban cho họ. Cũng bởi những cái bí danh đó, cô Sáu Cầu Kè và tôi lạc loài trên đất Pháp, gặp nhau để cùng khóc dĩ vãng trong một tiệm cà phê tại khu Maubert Mutualité.

Màu tím mồng tơi

Trên đất Pháp, tôi đã từng ăn canh rau mồng-tơi xanh nấu với tôm he . Đôi khi lười biếng, tôi đi ăn self-service, món légume ăn kèm với thịt vẫn là rau mồng tơi xanh nghiền trộn bơ lạt và kem tươi . Khó mà tìm được mồng tươi tím. Mồng tơi xanh to lá hơn, cọng bụ bẫm hơn, nấu canh tôm he cũng ngọt không kém mồng tơi tím. Vậy mà trong tâm hồn tôi, lá mồng tơi tím đã mọc rễ từ lâu lắm rồi, trải qua bao khúc quanh éo le của lịch sử và đã tỏa một màu tím thật lãng mạn và thật thi vị trong suốt thời thơ ấu của tôi .
Bạn ơi, chắc bạn chưa quên lá mồng tơi tím ngoài bờ giậu khi bạn còn ở bên quê nhà? Dường như chỉ ở xứ miền nhiệt đới như xứ sở mình mới có mồng tơi tím mà thôi . Tôi còn nhớ vào thuở ba tôi về Ngã Ba Trung Lương (tỉnh Mỹ Tho) lập nghiệp, bà ngoại tôi bảo tôi và chị tôi nên gầy dây một giậu mồng tơi tím chung quanh khu trồng rau thơm. Chị em tôi chẻ nứa thành những thanh hơi mỏng để đan giậu . Chỉ chừng hai ngày thôi, bờ giậu thành hình với những thanh nứa đan nhặt với những ô hình mắt cáo . Chị tôi lôi từ gian bếp đen óng vì mồ hóng và khói bếp, lấy một cái gói nhỏ đựng trong mo cau . Mở gói giấy ra, tôi chỉ thấy những hột đen đen ngoài bọc một lớp vỏ nhăn nheo . Chúng tôi đào những lỗ nhỏ cỡ đồng xu và sâu ba phân, mỗi lỗ cách nhau nửa thước, rồi bỏ một hột mồng tơi trong đó. Ngoại tôi nói:
– Bây giờ là vào giữa mùa mưa, các cháu không cần tưới làm gì. Mồng tơi tím dễ trồng lắm.
Chúng tôi chỉ chăm bón những loại rau khác, hầu như quên lãng những hột mồng tơi gây giống đi .
Mùa mưa tháng bảy kéo về. Những trận mưa kéo dài có khi suốt ngày, suốt đêm. Mưa ngập ở dãy cây đu đủ và làm cho mấy gốc đu đủ úng thủy chết đi . Rồi vào một ngày nắng đẹp, tôi bắt gặp trên lớp đất ướt mịn, những mầm cây lá non mơn mởn nhú lên. Những cơn nắng lũ đã làm cho hột mồng tơi nứt vỏ, những trận mưa rào ấp ủ cho mầm sống nhú lên. Rồi thì cùng với mưa nắng, sương buổi sáng làm cho mầm cây trưởng thành mau chóng; chỉ độ hai tuần thôi, nó đã thành một sợi dây leo bò dọc theo một thanh nứa, lá vẫn xanh mơn mởn để rồi cùng với cọng dây ửng lên màu tím và rồi tím sẫm dần. Lá mồng tơi có hai mặt: mặt dương quay về ánh sáng mặt trời nên có màu xanh của diệp lục tố, còn mặt dưới ẩn trong bóng râm thì có màu tím.
Từ dây chính, len qua những nách lá, những vòi dây mồng tơi mọc dài ra thành những dây phụ bám ngang, bám dọc theo những thanh nứa đan hình mắt cáo, chỉ trong vòng một tháng thôi, bốn mặt giậu chung quanh khu trồng rau đã được lá mồng tơi mặt xanh mặt tím che kín rợp.
Dù mùa mưa trôi qua, dù dầu giãi dưới những cơn nắng trong tiết trời khô ráo, dây mồng tơi vẫn mượt mà, tươi mát, thấm nhuần nhựa sống dồi dào .
Thế là khu trồng rau của chúng tôi, nhờ giậu mồng tơi đã có một chỗ riêng biệt giữa những cây cỏ hoang dại mọc hỗn tạp. Ngoại tôi giậm thêm những cây bồ ngót để nấu canh tôm, giậm thêm những khóm cao kỷ để nấu canh thịt. Rồi thì cải ngọt, rau tần ô, rau diếp, rau thơm, ngò gai, rau cần tàu được trồng theo từng luống. Những loại rau này cần phải tưới nước và chăm bón cẩn thận. Riêng những dây mồng tơi thì không cần săn sóc, vẫn đâm tược nẩy vòi .
Tôi đã từng say ngắm sự tăng trưởng của những dây mồng tơi ngoài giậu . Những ngày nắng ráo, lá mồng tơi trông thật mướt, mặt lá bóng láng rung rinh dưới những cơn gió nhẹ hiu hiu, lóe lên những chấm sao nhấp nháy . Tôi hái một vài lá vò sát trong lòng bàn tay, khoan khoái cảm nhận chất nhựa trĩn ướt của lá. Và có những đêm rằm, trời trong mây tạnh, tôi cũng đến thăm giậu, mê mải nhìn ánh trăng giát bạc và trắng thủy tinh trên những phiến lá lung linh, hư ảo .
Ngoại tôi không nấu canh mồng tơi suông đâu . Bà cũng hái rất nhiều lá mồng tơi, rồi cùng với rau tập tàng, rau bồ ngót, rau cải trời, rau dịu để nấu canh tôm. Những con tôm he được ngắt đầu, bóc vỏ, bỏ đuôi, rút gân máu, đem quyết nhuyễn và tra thêm tiêu, hành lá, nước mắm … rồi vo từng cục tròn tròn, dẹp dẹp thả vào nồi nước sôi, trước khi bỏ rau mồng tơi và rau khác vào . Canh rau do đó, thật ngọt, được múc vào những chiếc tô sành sản xuất từ Lái Thiêu, với một nét họa phóng bút bằng tay .
Mâm cơm thuở tôi còn thơ ấu chẳng mấy thịnh soạn. Cùng với canh rau, ngoại tôi kho cá bống trứng, hoặc cá rô mề, kho bằng tộ để cho cá được thấm tháp, mặn mòi hơn. Đôi khi trên mâm cơm có thêm món xào, nhưng độn rất nhiều giá hoặc rau càng cua hay rau cần ta . Mâm đựng thức ăn thì bằng thứ gỗ tầm thường, đũa vót bằng tre; chén dĩa và muỗng cũng bằng sành, cùng do các lò gốm Lái Thiêu sản xuất. Những thuở đó, ba má tôi rất yêu thương nhau, cùng chấp nhận cảnh nghèo để tách ra khỏi đại gia đình dưới sự quản trị nghiêm khắc của ông nội tôi . Má tôi tự hào là chồng mình đã bắt đầu sống cuộc đời tự lập. Rồi đó, công cuộc làm ăn của ba má tôi dễ dàng hơn, cảnh nhà được sung túc hơn. Bàn ăn phủ khăn trắng, chén dĩa sành được thay thế bằng đồ sứ mỏng tanh và bóng hơn, đũa tre được đổi thành đũa mun có đầu bịt bạc hoặc đũa sơn son. Vậy mà, canh rau mồng tơi vẫn được dọn thường xuyên. Bà ngoại tôi nói:
– Sắp nhỏ hay nổi rôm sảy và đổ ghèn con mắt, phải cho tụi nó ăn canh mồng tơi hay ăn canh bồ ngót để cho tụi nó giải nhiệt.
Bồ ngót nẩy lá không kịp theo nhu cầu những nồi canh rau trong gia đình tôi thuở đó. Chỉ có giậu mồng tơi mới cung cấp đủ món canh rau thường xuyên mà thôi . Mặc kệ nắng cháy hay tiết trời khô hạn, những giây mồng tơi vẫn thản nhiên hiến dâng lá và mầm sống phong phú. Chúng tươi mát, mềm mại như cô gái đẹp dậy thì. Chỉ cần trải qua một đêm sương là lá và đọt đã thấm nhuần chất nước trong mát rồi .
Và thú vị hơn nữa, những trái mồng tơi tím thẳm, to cỡ đầu mút đũa, bóp dẹp trái mồng tơi giữa hai ngón tay, chất nước màu tím tươi tiết ra . Chị tôi hái rất nhiều trái mồng tơi để làm mực tím, viết một lá thư kể tội tràng giang đại hải cô bạn trong xóm mà nhờ tôi chuyển giao .
Tôi còn nhớ rõ thuở đó, chị tôi cỡ bảy tám tuổi, để tóc và ăn mặc nam trang, theo lũ con trai chơi những trò chơi con trai . Lối xóm hầu như quên chị tôi là gái . Lúc nào cũng liếng thoắng nghịch ngợm, lấy mực mồng tơi vẽ lên mặt rồi đi dọa con nít. Những đêm rằm, chị thủ sẵn những bông nấm sáng (nấm lân tinh) đợi những bà hàng xóm đem bánh và trái cây ra sân cúng rằm, chị rên hừ hừ, rồi núp vào lùm bụi đối diện với sân, tay cầm nấm sáng quơ lên. Các bà tưởng là ma, la bài hải, rồi lết vào nhà, bỏ bánh trái lại . Chị chui ra lấy hết bánh trái và không quên bỏ lại vỏ trái cây và giấy phong bao bánh cho khổ chủ.
Ba má tôi vì mãi lo làm ăn nên ít khi săn sóc và giáo dục chúng tôi . Như rau mồng tơi, chúng tôi tăng trưởng tươi mát khỏe mạnh. Những người ở xa mới tới xóm thường nhìn chúng tôi khen:
– Hai đứa nhỏ coi ” ngộ” quá chớ. Nhứt là cái thằng anh, vừa cao ráo, trắng trẻo, mắt sáng như sao .
Bà lối xóm ở gần nhà chúng tôi nhất, nhún trề:
– Đứa lớn là con gái đó đa . Con gái gì mà như quỉ sống, ma vương. Khạp nước trong của tui để dành nấu nước pha trà mà nó dám thọc chân dơ vô để rửa chớ.
Tuy ghét chị tôi như vậy mà mỗi khi chị tôi mang qua tô canh mồng tơi do ngoại tôi nấu, bà không quên thưởng cho chị khi thì trái ổi, khi thì khúc mía, phong bánh in.
Năm 1946, ba má tôi đem chị em chúng tôi đi chạy giặc. Với chiếc xuồng ba lá, ba má tôi vượt từ Cai Lậy (Mỹ Tho) qua Cái Tàu Thượng, Cái Tàu Hạ (Sa Đéc), vượt qua sông Bassac (Cần Thơ) rồi theo kinh Bảy Ngàn xuống tới Hỏa Lựu, Hóc Hỏa . Ở Hóc Hỏa ba tháng, gia đình tôi trôi xuống Chắc Băng, và ở tại xóm Cây Đa cách chợ Chắc Băng sáu cây số. Ở đây đất phèn, chẳng có rau cỏ chi cả. Chung quanh là đồng hoang, nắng cháy . Nhưng con kinh đào, chạy qua xóm có rất nhiều cá sặc rằn lẫn cá rô mề. Chị em tôi thường vào rừng tràm hái đọt choại về nấu canh hoặc luộc. Thèm canh rau mồng tơi và quê nhà ở Ngã Ba Trung Lương (Mỹ Tho) biết chừng nào!
Vào năm 1946, vừa thấy tình hình yên ổn, má tôi đem chị em tôi hồi cư . Về quê cũ, gia đình tôi trở lại nếp sống đạm bạc như xưa . Má tôi bán bớt tư trang và những món đồ sứ. Canh rau mồng tơi được nấu thường xuyên, nhưng không còn nấu với tôm thịt, mà chỉ nấu suông và nêm thêm một chút mắm ruốc cho ngọt. Chiến tranh càng lúc càng khốc liệt. Con lộ băng qua trước ngõ nhà tôi thường xảy ra những cuộc chạm súng kinh hồn.
Chúng tôi nghỉ học. Tìm được tập giấy trắng và ngòi viết lá tre cũ, tôi hái trái mồng tơi pha chế thành mực tím chép những bài hát nổi tiếng đương thời . Trên nền giấy ố vàng, những hàng chữ gò gẫm, sắc nét và lối trình bày sạch sẽ cũng làm cho tập giấy có vẻ ngoạn mục riêng.
Trong cuộc chạm súng ở trước nhà, tôi bị một vết đạn trên đầu . Sau hai tuần hôn mê ở bệnh viện Mỹ Tho, tôi được giải phẫu . Vừa khi tôi lành mạnh ăn giả bữa, chị tôi đem một ” gà-men” đựng canh rau vào để tôi ăn cho ngon miệng hơn. Lúc đó, tôi ngạc nhiên quá đỗi, chị để bôm-bê và mặc quần sa-teng đen, áo bà ba lụa tím, đi guốc sơn đen. Áo lụa tím vẫn là màu mực mồng tơi mà tôi ưa chuộng.
Rồi chúng tôi bỏ Ngã Ba Trung Lương, về Vĩnh Long sống nhờ ông nội chúng tôi . Chung quanh nhà, chúng tôi rào giậu mồng tơi, trồng bồ ngót, cao kỷ, bạc hà, cây lá giấm. Mâm cơm quê nội có bát dĩa sang trọng, nhưng thức ăn rất đạm bạc. Việt Minh đã sung công hết ruộng đất của ông nội tôi . Sản nghiệp của ông dần dần khánh kiệt. Với tài chế biến khéo léo, má tôi làm những món đạm bạc nhưng ngon lành và tinh khiết: canh rau nấu bột ngọt, cá cơm kho tương ăn với dưa leo và rau thơm, cá linh, cá rô kho sả ớt, con ruốc chấy tóp mỡ … Giậu mồng tơi quê nội đã giúp cho mẹ con tôi chịu đựng cái nghèo trong cuộc chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh suốt chín năm.
Gia đình tôi lại bắt đầu sung túc khi ba tôi đi kháng Pháp trở về. Mâm cơm đã có những món xúp nấu với bột mì hoặc xúp nấu với cải bắp, khoai tây, hành tây và thịt bò, nhưng chúng tôi vẫn thích ăn canh mồng tơi, nhứt là để tưởng niệm bà ngoại tôi chết vào năm 1948.
Từ năm 1967, chị tôi thực sự bước vào làng văn do sự giúp đỡ của ông bà Võ Phiến. Vừa viết văn, làm báo, vừa đi dạy Anh văn, chị tôi có nhiều tiền. Vậy mà chị vẫn ở trong căn nhà hẹp té ở gần tòa đại sứ Cam- bốt. Chị cho rằng chỉ ở trong cái nhà đó, chị mới làm ăn khấm khá. Tôi cứ ăn chực, sống nhờ chị để đi học, mà rồi cứ lận đận ở bực đại học hoài . Mâm cơm ở nhà thật thịnh soạn. Vậy mà vào những buổi xế nóng nực, uống nước cốt trái cây, uống bia và coca mà không đã khát, chị tôi dặn cô giúp việc:
– Em nấu canh mồng tơi và kho cá bống trứng cho chị đi .
Rồi tôi vào trường Bộ Binh Thủ Đức, khóa 26, bắt đầu từ khoảng đầu thu 1967. Vào Tết Mậu Thân, Việt cộng mở một cuộc tổng tấn công, trường hoãn việc huấn luyện. Các sinh viên sĩ quan phải ở trong tình trạng ứng chiến. Nhà bàn dọn cơm ăn toàn là thịt trâu nấu với khoai lang hoặc các thực phẩm đóng hộp. Không có chất rau cỏ trong người, chúng tôi (các bạn đồng khóa và tôi) cảm thấy táo bón, bực bội . Nhiều đêm, tôi nằm ngủ trong căn liều cắm bên giao thông hào, mơ thấy mình lạc vào những khu rừng xanh mát, có những bồn nước mưa trong vắt, có những rẫy trồng rau mơn mởn và tươi hơn hớn, nhứt là giậu mồng tơi với những phiến lá mặt tím, mặt xanh, lung linh hư ảo dưới ánh trăng huyền hoặc. Trong thời gian đó, chị tôi kẹt ở Lộc Ninh. Khi về được Sài gòn, có đến Thủ Đức thăm tôi, đem theo rất nhiều trái cây và rau . Tôi và các bạn bắc ba cục gạch, chất củi khô nhúm lửa rồi dùng nón sắt đun nước sôi, thả rau vào luộc hoặc nấu canh với bột ngọt. Bữa cơm rau mồng tơi đầu tiên trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân mới ngon lành làm sao! Anh bạn Q. đem cơm và nước tương ở nhà bàn về, cả bọn bốn đứa ngồi xúm xít bên nón sắt, chan canh vào cơm, rồi chấm rau vào nước tương, nhai rau ngau ngáu, húp nước canh xì xụp, cảm thấy gan ruột mình mát mẻ, mình được chút sinh tố tươi mát, mình được nhuận trường.
Mãn khóa 26, tôi thực sự bước vào đời lính suốt bảy năm ròng, lê gót giầy saut khắp Quân Khu 3. Này Bến Cát, Lai Khê với bản doanh bộ Tư lệnh Sư Đoàn 5. Này Trị Tâm nằm trong đồn điền cao su Michelin. Này Tây Ninh có chợ trời Hiếu Thiện băng qua biên giới . Này Phú Giáo với thị trấn mới có những căn cứ Mỹ đóng. Này Củ Chi, nơi ổ giặc núp kín đang làm bàn đạp để tấn công Quân Khu 3, đêm đêm tôi có thể nghe tiếng chày giã lá bàng trong các xóm xa . Này Tống Lê Chân, căn cứ được mệnh danh là ” con mắt hồng ngoại tuyến” đã từng dọ dẫm và ngăn chận sự xâm nhập của địch quân vào lãnh thổ Quân Khu 3. Này Phước Long, ải địa đầu cực bắc đã chịu nhiều cuộc pháo kinh hồn cuối năm 1974 và lẫn trong rừng chồi có những sào huyệt của địch với những tên Chiến Khu D, mật khu Dương Minh Châu, vùng Tam Giác Sắt với chiến dịch mùa mưa, cao điểm Đông Xuân … Sau hết tôi về bộ Tư lệnh Quân Đoàn III và Quân Khu 3 ở Biên Hòa, làm việc trong ban Báo Chí.
Tôi đã đi nhiều địa danh, đã theo những toán Dân Sự Vụ đưa đồng bào ở các vùng xôi đậu về khu định cư lánh nạn Cộng sản. Bước chân tôi đi trải qua những vùng rừng chồi rậm rạp, những cánh đồng nhiều hố bom, những ruộng dưa hấu bỏ hoang, những khu vườn đất còn khét pháo và cây cối loang lổ vết đạn. Vậy mà rau hoang dại vẫn sinh sôi
nẩy nở. Nhiều nền nhà còn sót lại giàn mồng tơi tím. Dù không ai săn sóc, dù không khí nồng thuốc khai quang, dây mồng tơi vẫn mượt mà bám vào những nhánh cây khô, trườn mình lên nền đất để phơi bày những phiến lá mọng nước, rung lấp loáng dưới cơn nắng đổ lửa .
Cuối xuân năm Ất Mão, sau khi Việt cộng xâm lăng toàn thể miền Nam, tôi bỏ xóm ở Phú Nhuận, về nhà chị tôi ở gần hồ tắm Thiên Nga tá túc. Anh rể tôi, nhà thơ Tô Thùy Yên đã đi học tập cải tạo . Chị tôi bị cấm hành nghề viết lách, bán dần từng món trong nhà. Giàn mồng tơi ngoài bờ rào và bên cửa sổ mọc xum xuê . Nồi canh mồng tơi thời
kháng Pháp ở tại Ngã Ba Trung Lương có dịp nấu lại, và chẳng có tôm thịt mà chỉ mêm bằng vài thìa mắm ruốc, thêm một chút ớt bột và tiêu . Tôi cùng với chị tôi và các cháu cứ ăn canh mồng tơi, rau muống luộc, trứng luộc dầm với nước mắm từ bữa ăn này sang bữa ăn khác. Vậy mà chị tôi vẫn vui vẻ, hồn nhiên, nói khôi hài, kể chuyện tiếu lâm không ngớt. Trong khi đó, tôi lo sợ bị bắt vì không đăng ký học tập. Tóc tôi bạc đi nhiều mà quái lạ thay, tuy chị tôi lộ vẻ vui tưoi, nhưng tóc của chị bạc mau chóng. Nhưng khuôn mặt hai chị em tôi không già héo, dáng dấp vẫn dẻo dai . Nội lực, tiềm lực của chị em tôi làm sao cạn với trong tình thương đùm bọc của một số bạn bè? Dù qua biết bao nhiêu vận nước bi thảm, dù trải qua những tai ương, chúng tôi còn niềm tin yêu cuộc đời . Chúng tôi là những dây mồng tơi tím, mượt mà bò trên mặt đất mấp mô, lăn xả vào gai góc để trổ lá, đâm tược, tha thiết quấn vòi vào .
Chúng tôi giờ đây dù kẻ ở bên quê nhà, người sống nơi tha hương vẫn bền lòng đợi anh Yên trở về trong một ngày nước nhà được thoát khỏi ách thống trị của Việt cộng. Anh Yên còn ở nhà, rất dở chịu đựng. Thế mà anh đã chịu đựng trong ngục tù lao động của Cộng sản suốt bảy năm ròng. Tin mới nhứt từ quê nhà đưa sang là anh vẫn khỏe mạnh. Có chạm trán và thử thách gian nan, tôi mới rõ phần tiềm lực sâu sắc nhứt của từng cá nhân. Tôi đã đương đầu với sinh kế gian nan trên cái xứ nổi tiếng về nạn thất nghiệp là xứ Pháp. Nếu anh Yên trong vòng kềm kẹp khắt khe của Cộng sản, vẫn là dây mồng tơi tím, trườn mình vào chông gai, thì trên đất Pháp, tôi cũng bò lên những nhiêu khê phiền toái của sinh kế, kiếm chút ít tiền để mua quà và thuốc men gởi về cho mẹ tôi, chị tôi và các cháu tôi .
Có một thời gian, nằm trong căn phòng tại thành phố Meudon, cách Paris hàng mười cây số, trên ngọn đồi cao, đêm đêm vọng tiếng cú rúc ở bìa rừng, tôi hình dung lại giậu mồng tơi và tô canh mồng tơi tím nấu với vài thứ rau khác cùng tôm he . Tôi đã thấy rồi, qua hồi ức, trên những phiến lá óng mượt dưới ánh trăng, trong đáy bát canh cả một cuộc đời thăng trầm của gia đình tôi, những vận mệnh bi đát của quê hương tôi . Tuy vậy, cùng với mái tóc sớm điểm bạc, tôi đã giữ một chút tươi mát tận trong cõi tiềm lực thâm thúy, để còn hy vọng ngày về, để kể cho con cháu nghe lại một loại rau mát lành của quê hương từng nuôi sống gia đình tôi và gieo cho tôi ý niệm về cái ung dung, tươi mát của một tâm hồn thơ mộng không bao giờ hủy diệt trước nghịch cảnh.

Bài Mới Nhất
Search