T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không Phí Ngọc Hùng: Mai đây (Câu thơ tìm nhau) (1)

Người về từ quá khứ – Tranh: Thanh Châu

       Lão đang khăn gói gió đưa cho một chuyến đi xa…để đời.

       Để thăm bạn già từ cái thuở láo ngáo, chưa gặp nhau nhưng lão cũng biết tỏng rằng, không ngòai thưởng lãm trà đắng chát thì cũng ngắm mấy cọng lan đến…xanh mắt. Lại nữa, với ai chẳng biết, chứ với lão, nhắm chừng lặn lội lên mãi tận miền bắc đất ấm tình nồng thì ắt hẳn là xa tít mù khơi. Vì lão tự đo khỏang cách xa gần bằng vào độ dầy, mỏng của lớp tuyết, mới nghĩ đến tuyết cao bằng gần mắt cá chân là lão sợ phát khiếp, nên đâm chùn. Mà lần nào bạn già cũng dục dã, mấy lần lão đã khất lần mãi. Nhưng lão nghĩ quẩn, già rồi cũng cần có bạn trong những lúc trái nắng trở trời, vả lại bạn lão càng ngày rơi rụng dần như những chiếc lá vàng, vàng bay mấy lá năm già nửa…Cứ dây dưa cả tháng nên lão đành phải tính, rằng lão sẽ tay xách nách mang, làm một chuyến giang hồ vặt cho ra chuyện, chả là lúc này cũng ấm giời ấm đất. Chả bù cho cái hồi còn trai xuân, lão chả sợ gì sất, chỉ cần búng tay một cái “cóc”, nhẩy phóc lên chiếc xe đạp sắt tòng tọc, không chắn bùn, không chắn xích là xong tuốt.

       Gặp bạn già phải bù khú, mà bạn tận miền bắc này gần như hơn nửa cuộc đời nặng nợ với lan, nay có mảnh vườn chỉ bằng cái chiếu manh, nghe nói gói ghém đâu đó cũng cả chục cây. Với những thứ của nợ này thì lão chỉ võ vẽ biết dăm ba giống như Tiểu Kiều, Đại Kiều, Nhất Điểm, Loạn Điểm vậy thôi. Không lẽ thăm thú bạn già, đem chuyện chổi cùn rế rách ra tào lao thiên tôn…Nên mới gần đây, qua vườn cụ Vĩnh họ hàng hang hốc với nhà thơ Hồ Dzếnh ở phố Hàng Trống, lão ăn mày cửa Phật, hàm thụ  được mấy giò lan xưa như Hạc Đính, Trần Mộng, Ngân Biên, Yên Tử nên cũng thu vén đủ vốn liếng để hầu chuyện với bạn già. Lão chưa kịp yên chí nhớn thì đùng một cái, bạn già tỉ tê là…là mới được thằng cháu cho một con chim cu đất. Lão thầm nghĩ, thế này thì bỏ bu, già không nên nết, ai đi làm bạn với cái giống chim thô kệch, chỉ đứng gù nhau, rồi đẻ như…cu đất. Bạn già rỉ rả ở bên này đã buồn như trấu cắn, nay được nghe chim cu gáy còn buồn hơn hoa bí buổi chiều nữa, vậy mới rang rức. Nghe vậy, lão chỉ nhủ thầm, bạn già đang cần bạn, thì như các cụ ta xưa đã dậy, “thóc ở đâu, bồ câu đó” thì trời có sập lão cũng phải mò đi.

       Qúy hóa hơn nữa là bạn già ân cần gửi cho lão cái vé xe “búyt” nữa mới hay, vì đi xa lại được ngắm cảnh ruộng đồng, rừng núi của mảnh đất mới. Lão bồi hồi nhớ lại cái ngày  mới bẩy, tám tuổi, lần đầu được đi xe ca “Con Ngựa Bay” từ Hải Dương xuống Hải Phòng, vậy mà chớp mắt một cái bây giờ đã tóc bạc da mồi, như giấc kê vàng, tỉnh dậy thì thấy mình đã già khú đế lúc nào. Ấy vậy mà lão vẫn còn tâm trạng háo hức như những ngày còn bé tí, chỉ lóng ngóng đến ngày ra bến xe, mấy đêm nay, đêm nào lão cũng bồn chồn mường tượng đến bạn già lão đang làm bạn với con chim cu đất, như để gậm nhấm đau thương làm cái thú giải sầu. Lão cũng chẳng hơn gì, lão ngẫm ra một điều, đất khách quê người lại ở cái tuổi vắng gió đìu hiu, có nhiều cụ không có thì giờ lẩm cẩm cho quá khứ, cất kỹ xuống đáy rương làm kỷ niệm, thì lão lại lọm khọm chống gậy đi tìm dĩ vãng thấp thóang qua lũy tre xanh, bờ mương ao cá…Lão hình dung đến sau tuần trà, trong một ngày nắng quái chiều hôm, ngồi ở ngòai vườn, thế nào lão cũng sẽ rủ rê bạn già ngắm trời ngắm đất, đi tìm những tia nắng muộn màng, lục lọi ngăn kéo trí nhớ, thẩn thơ về những ngày tháng cũ, “Sông kia rày đã lên đồng – Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai”…(thơ Trần Tế Xương) của ngày nào năm nọ.

        Và lão nghĩ, bạn vong niên gặp nhau cũng chỉ từng ấy chuyện là hết đất.

       Nghĩ đến trà, lão chợt nhớ ra vừa sắm được bộ ấm trà Thế Đức gan gà. Cái ấm độc ẩm hình quả bứa, nắm gọn trong lòng bàn tay, nhẹ tênh và mát rượi, còn hai cái chén quân, to bằng mắt trâu, mỏng như trứng gà đang ấp. Vớ được bộ này, lão bấm bụng cũng mất gần nửa tháng tiền già, lão cứ tiếc ngẩn tiếc ngơ, nhưng bù lại, qua ông Tầu già chỉ vẽ, lão cũng vừa đã gom góp được dăm điều lỉnh kỉnh về ba cái…”trà đạo”. Như xoay cái nắp ấm, nghe tiếng kêu vừa êm vừa thanh là ấm tốt, thấy rèng rẹc là của ôi, quẳng ngay đừng có tiếc với phí của giời này nọ… Vẫn chửa xong, về đến nhà, lão lui cui lật ngửa cái ấm xuống mặt bàn. Giời đất ạ, nhất cụ Nguyễn Tuân: Vòi, mặt ấm và cái quai nằm ngang thẳng băng, đúng là nhân bảo như thần bảo. Lão lại bỏ cái ấm vào chậu nước như cụ Vương Hồng Sển mách nước, cái ấm nổi lềnh bềnh như lông vịt, không lệch không chao, lặng lờ như con thuyền trên mặt nước ao thu làm mặt mũi lão cứ đần ra. Ấy tuổi già của lão nó cứ tủn mủn thế đấy, ngày nào lão cũng vêu vao, nghệt mặt ra mà ngắm như nuôi con so, con mọn …..

       Đánh mõ không bằng đụng thớt, ngày trước thầy bu lão từ xó làng lên tỉnh, chả cần sĩ bọ gì, cứ với lồng gà, bu vịt để làm quà là xong. Lão lúc này trên răng dưới hột thị, chẳng là đã rách như xơ mướp lại hay khoe mẽ, bạn già có chim cu đất, lão cũng muốn khênh bộ ấm “xòang” này lên để ngầm khoe “quý hồ tinh bất qúy hồ đa”. Lão cũng không quên xách theo gói trà móc câu Thái Nguyên, được thể lão sẽ huyênh hoang về nghệ thuật pha trà mà lão vừa học lóm được qua sách vở với nước sôi già, tăm nước sủi to bằng mắt cá, gọi là ngư nhãn. Còn nước sôi sủi, tăm to bằng mắt cua, gọi là giải nhãn, thế nào bạn vong niên cũng phục lăn chiêng về cái thú chơi cầu kỳ của lão. Nghĩ ai cười lão thì hở mười cái răng, gia dĩ lão còn có bộ ấm tàm tạm cho như cổ xưa đi, vì không ít thì nhiều, lão còn có một cái gì để dựa dẫm, tất cả gia tài đơn chiếc lúc này của lão, vỏn vẹn chỉ có vậy. Ở cái tuổi này, lão chẳng còn gì bằng bám víu vào dĩ vãng qua chiếc ấm đất, như vang bóng một thời với cụ Nguyễn Tuân.

                                                        x            x            x

        Như “Dế mèn phiêu lưu ký” muốn lấp đầy khỏang trống của con đường dài hun hút, lão đảo qua tiệm sách tìm cái gì đọc cho khuây khỏa trong chuyến đi. Vừa thấy quyển “O Chuột” của Tô Hòai là chộp ngay không đắn đo, luộm thuộm nó là như thế này, gần đây có dăm bài đăng rải rác ở trên báo, lão đọc…”cách nhật”, thấy chập chọang, như mất thời gian tính nên lão thờ ơ với mấy con chuột nhắt, chuột bạch của ông ấy. Thêm nữa, thấy quyển này từ tháng trước, trước sau chỉ vì cái tật cân, đo, đong, đếm và ven sới trong cái nghèo lõ đít, trăm người bán vạn người mua, đến khi lão sớn sác trở lại thì chưng hửng, ngây ra mà nhìn cái kệ sách trống. Tiệm này ở mãi tận dưới phố, mua một quyển sách phải băng qua ba cánh đồng, lão phải đợi tới cuối tuần, lũ con đến, rồi tạt qua dăm, ba cái chợ nên nhiêu khê không phải là ít.

       Cuối cùng Tô Hòai cũng lẽo đẽo theo lão về đến tận nhà để lão lẩn quẩn với những ký ức cũ xưa nơi đất quê. Hình như lão…”chớm” già rồi cũng nên, có những chuyện mới đây lão lại bí đao, bí đặc, nhưng có những mẩu chuyện bé bằng cái đầu tăm, nhất là vào cái tuổi thiếu thời, lão nhớ như in: Như chuyện cả nhà đi vắng, chỉ còn bà ngọai ngồi giã cối têm trầu trước hè để trông chừng thằng cháu, lão chẳng biết chơi với ai, con mực, con mướp đi hoang từ sáng sớm. Lão đành lủi thủi một mình đằng góc vườn đi tìm gặp những lũ bạn bè nhỏ bé hàng ngày. Như mọi lần, lão lân la đuổi bắt với mấy chàng dế nâu, dế đất đang lục sục trong đám cỏ non, lão thóang bắt gặp mấy chị muôm muỗm, chị cào cào xanh mầu mạ, xô nhau nhẩy rào rào qua vạt cỏ và biến mất vào rặng cà nhà ai mọc hoang bên cạnh, những trái cà pháo tròn vo, trắng tinh lỏng ngỏng trên khỏang đất nâu. Lão tiếc nuối, nhìn lên bầu trời lại bắt gặp mấy chú chuồn chuồn bé xíu nhởn nhơ trong buổi sáng đầu ngày và một lát thì lặng lờ bên hàng dậu, xa xa là vài gợn sương nhạt đọng trên những tầu lá cau rách rưới nhưng xanh om…Mỗi lần hồi tưởng lại thì lão cảm thấy càng ngày càng gần gũi với cái tuổi ấu thời đầy mầu sắc dân dã cùng âm thanh bình dị và mộc mạc như bành bạch, bòm bọp vỗ áo, đập quần bên cầu ao. Tất cả những hình tượng ấy, thêm một lần bám cứng lấy lão, gắn bó không rời qua nhà văn Tô Hòai. Vì vậy ông ấy cùng với lão leo lên chiếc xe búyt của dĩ vãng…

       Lão nhìn ra ngòai, cũng cánh đồng với cây cỏ chạy dài, và bây giờ là cuối thu, cây cỏ tàn tạ, lão cảm thấy trống vắng, hụt hẫng, như vuột mất một cái gì chẳng bao giờ tìm lại được, từ mụ gà mái, gã mèo mướp, chàng ngỗng đực, chẳng con nào sâu đậm với lão. Ngược dòng thời gian, từ bé tới lớn, nghĩ lại thì chỉ có…lũ chuột là gắn bó với lão.

       Tại sao là “ Chuột ” …Chịu, lão chẳng hiểu nổi !

                                                        x            x            x

        Gấp quyển sách lại, lão xa vắng…

       Sẩy đàn tan nghé, lão qua đây cũng đã lâu, vợ lão với lão lại khắc nết, con ruồi đậu trên mép bà chẳng buồn đuổi, thế nên cả ngày bà chả buồn há mồm nói đến một câu, ra cái điều chả ai rỗi hơi nói chuyện với…lão, ra thể thà nói chuyện với cái đầu gối còn sướng hơn. Mà cái chân là “khúc ruột nối dài” với cái gối nên nó chán, “Nó”, tức cái chân, chán quá thể thì nó súi lão nói với đám con…đi ra ở riêng. Lão lại đang ở cái tuổi ngất ngư, xác như vờ xơ như nhộng, thuổng được cái tiền già, nghĩ chòen chọet là cứ ăn no phích. Nói cho ngay, chẳng có gì để mà an phận ngòai cái thân già, lão mơ hồ một điều, có những ngày chạng vạng, trời chiều bảng lảng bóng hòang hôn như đang từ từ…ập xuống. Sáng hôm sau, nhìn thấy nắng lên, nghe lũ chim ríu rít ngòai vườn, lão biết là có thêm được…một ngày như mọi ngày…để lão cứ ru rú trong phòng. Phòng ốc cũng có cái bàn cái ghế, ở đấy lão ngồi rị mọ viết lách lăng nhăng, trải rộng tâm tư như để dối già. Rảnh rỗi đọc lại, lão cũng cảm thấy bâng khuâng, cùng những dấu ấn của một thời đã qua…Vả lại ai chẳng có lúc vơi đầy, cảm hòai vấn vương cùng ngày qua tháng lại, để rồi một lúc nào đó, luyến tiếc đến ngẩn ngơ với muôn ngàn chữ…”nếu”. Vì vậy, có ít tiền của các con dấm dúi thì lão đổ dồn vào tủ sách, cái kệ mỗi ngày mỗi cao, phòng mỗi ngày mỗi hẹp và lão thích hít thở trong đám mùi mực khô, giấy mới ấy.

       Cái vườn sau cũng chỉ vừa đủ cho mấy chậu ớt, lá mơ, khóm riềng cùng mấy gìò lan dân giả như hòang lan, địa lan, chỉ bấy nhiêu thôi nhưng lão lẩn thẩn cũng hết ngày. Nói cho cùng thì cái nhà cũng có hơi cũ, mấy cái cửa tủ đồ ăn khô nứt nẻ, có chỗ vỡ bằng cái nắm tay, nhưng lão chẳng ngó ngàng gì đến ba cái vặt vãnh ấy. Nhất là cái tủ ấy chỉ to bằng cái lỗ mũi và cũng ọp ẹp như lão vậy, ở trong đó cũng chẳng có gì, tập tàng ba thùng mì với dăm ba vỉ trứng. Được cái, chiều chiều, sau giờ đi làm, lũ con thay nhau xào xáo quấy quá nồi cơm, lão thì ăn uống phất phơ cho qua ngày đọan tháng nên cũng gọn. Cuộc sống lão chẳng có gì gợn sóng, để ủ ê, để mà nên chuyện…

       Cho tới mùa đông năm đầu tiên dọn về cái nhà thổ tả này:

       – Giời đất ạ, cơ ngơi nhà lão có chuột.

       Bương bả chạy đi mua cái bẫy chuột, khổ một nỗi là chữ Tây chữ u bẻ đôi không ra một chữ, múa may một hồi thì lão cũng xách về được một cái bẫy to bằng hơn lòng bàn tay. Và lão rung đùi bật cười khan, Đông Tây gặp nhau ở cái chỗ này, cái bẫy chuột ở quê nhà lão và ở đây giống nhau như hai đôi guốc, cũng mảnh gỗ bé con con, cái khung sắt, hai cái lò so và que sắt móc mồi và cuối cùng là…cái khóa giết người. Hóa ra, chuyện chuột ở đâu cũng vậy, chỉ khác một điều là nghe hơi nồi chõ chuột xứ này ăn…“phó mát”…Thế là lão cặm cụi gài miếng “phó mát” vào cái que móc mồi, đặt vào đúng chỗ con đường mòn Hồ chí Minh, nơi chúng xâm nhập nhà lão. Sáng hôm sau, lão mắt nhắm mắt mở ra thăm thú tình hình chiến sự thì miếng “phó mát” vẫn còn nguyên, không mất…một sợi tóc. Lão đực mặt ra để tư duy, hóa ra mấy chú chuột nhắt này là mấy chú “du kích”, trốn nhui trốn nhủi trong rừng, thì ắt hẳn đứt đuôi con nòng nọc là thèm thịt để bồi dưỡng, còn miếng “phó mát” thì mấy thằng cán ngố ắt hẳn ngỡ là xà bông Trung Quốc nhẽo nhèo. Vậy là lão phải nướng một miếng thịt nhỏ cho thơm phức, hì hục đặt cái bẫy ở ngay đầu địa đạo Củ Chi, đó cũng chính là cửa ngõ tủ đồ khô của nhà lão. Lão chắc mẩm với chiến lược dụ địch về thành phố này: Vố này thế nào lão tó một chự. Rồi gán cho hai chữ tử sĩ, thế là xong.

       Cũng sáng hôm sau, cái bẫy chuột…vẫn còn, miếng thịt không cánh mà bay. Lão chưa kịp điều nghiên tiếp thì cũng vừa hết một mùa đông, đám chuột cũng biến mất. Mùa đông năm sau chưa kịp tới, nhưng đất trời vẫn ngôn ngốt, máy lạnh đang chạy âm ỉ. Bỗng nước từ trên trần nhà nhiễu xuống và cái máy lạnh không rên ư hử nữa, “người” sửa máy lạnh trèo lên, trèo xuống, báo cáo anh, báo cáo chị:

– Nhà cụ có chuột!

Rõ dớ dẩn, sự cố này thì lão biết từ đời tám hóanh nào rồi. Mà cũng rõ chán mớ đời

“người” này mắt quáng gà hay sao ấy mà nhè lão gọi bằng…“cụ” và “người” tiếp:

       – Chuột con ngứa răng gặm mấy cái ống nước, cụ phải mua thuốc giết chuột.

       Thế là lão thành “cụ”, và “cụ” có việc làm, việc đầu tiên là tướt người lùng mua thuốc giết chuột, việc kế tiếp là lom khom leo lên trần nhà, lui cui “chôn” mấy hộp “mìn”. Chớm đông, gió hiu hiu lạnh, nệm ấm chăn êm, lão ngủ thẳng cẳng cùng mộng bình thường. Vài tuần sau, mở tủ ra lão thấy mấy cái xác khô, nằm chết bình thường, nằm chết như…mơ, mình không manh áo. Những năm kế tiếp, năm nào cũng vậy, lão lại ru ta ngậm ngùi, đi nhặt xác người…anh em bên kia cánh đồng, trên nóc nhà thành phố, trên những đường quanh co. Hai mươi năm hận thù đã qua….

                                                        x            x            x

       Mới đây, một năm hai, ba lần, cứ ngủ dậy thì lúc lão bị đau chỗ này, nhức chỗ kia. Nhức chân, buốt đầu gối lẽ dĩ nhiên là đi không được là cái cẳng. Nằm bẹp trên giường, nhểu nhão cả ba, bốn ngày, khổ nhất là ê vai, trẹo hông, thăm lăng Bác, đứng lên, ngồi xuống là phải từ tốn và “nghiêm túc”, phải vặn vẹo cái tay, cái chân cho đúng thế, nhiều khi…ho cũng nhói lên một cái đến thốn người. Hỏi thăm quan đốc, quan dẫn giải rất chuyên ngành: Rằng con người ta có bao nhiêu cái đốt xương sống, bao nhiêu cái giây thần kinh là bấy nhiêu trái mìn nổ chậm và từng ấy cái giây điện Claymore. Chạy trời không khỏi nắng là bệnh lão hóa, hay gần gũi thân thương hơn là…bệnh già. Quan đốc còn trấn an, chắc như bắp luộc là hãy sửa sọan sống với…người bạn đời chung tình nhất của…”các cụ”.

       Mùa đông năm rồi, lão nằm chết bầm, chết dí cả mấy tuần, người cứ rói ra: Số là ngủ dậy thì lạy Chúa tôi, lão như bị trúng gió, như con gà chọi bị bệnh giây, cái cổ cứ đuỗn đuồn đuột ra như gà mắc thóc. Xoay đầu qua bên trái, cái bả vai buốt trẹo xương sườn, xoay qua bên phải, năm đầu ngón tay…giật giật. Tay không làm nhưng hàm phải nhai, ngồi ăn, cái cổ như sinh viên sĩ quan võ bị ở thế nghiêm trình diện huynh trưởng, tay trái cầm bát, tay phải cầm đũa, khủy tay song song với mặt bàn, cùi chỏ giữ góc thước thợ 45 độ, lưng thẳng đứng. Mỗi lần lão nuốt một miếng là nhói lên một cái, đành thân thương nuốt nhè nhẹ, mòn mỏi đợi cái nhói kế tiếp. Ngủ cũng dễ thôi, nằm ngay tán tàn, như nằm trong…nhà Chung Sự tối om om đến…lạnh người.

       Cứ như vậy, đêm về, lão nằm trên giường nghe cóc nhái kêu, muốn nằm sấp, nằm ngửa cũng chẳng xong, co ro như con mèo già bị hen cò cử. Lâu lâu lại cấn lên một cái, đành cắn răng muốn ứa nước mắt, thuỗn người ra đợi cái đau kéo dài như vô tận, mãi một lúc lâu sau, lâu lắm, mới thậm thụt đi vào cõi…êm ả. Buồn tình suy nghĩ vu vơ, chuyến này, lão vừa dẫm phải…”mìn” nổ chậm, vừa chạm phải giây điện…”Claymore”, chưa “ùynh” một phát là phúc bẩy mươi đời. Ngủ không được, lão lần mò ra ghế sa-lông xem T.V hay đọc sách, mặc cái mùa đông lạnh lùng ngòai kia, từ đấy, lão có một khỏang không gian riêng với cái đèn lúc nào cũng sáng trưng, vì lão chỉ có hơi ngài ngại bóng tối một chút đấy thôi. Thực tình…ma thì ai chẳng sợ, sợ vãi đái là cái chắc.

       Có cái gì khác lạ thật thì phải, nửa đêm lão chợt tỉnh giấc, có tiếng lịch kịch ở đằng sau cái máy rửa chén. Ngừng một lúc, có tiếng cào cào, hóa ra không phải…ma, mà là mấy chú chuột ngòai kia đi trốn một mùa đông lạnh lẽo, như mấy con chim trốn tuyết. Lão phớt lờ, ngủ cái đã, nhưng bực một nỗi là hai vợ chồng gã chuột này rửng mỡ, động cỡn làm trò ma bùn với nhau, sao mà lâu lắc, ồn ào quá sức. Như muốn trêu ngươi lão, làm lão chập chờn mấy đêm liền, trong bóng đêm, giữa người và vật như có giao hòa thì không hẳn là đúng, cuộc chiến đã tàn và đã đi vào thóang đãng, nhưng cái lũ chuột khốn khổ, khốn nạn ấy cứ nhè nhà lão, lại tự nhiên như người Hà Nội, bê cái này, vác cái kia. Bố ai mà chịu nổi, lão là người chứ đâu có phải là…là ngợm đâu.

       Nhưng bực một nỗi, hai vợ chuột ấy, tối nào cũng đú đỡn.

       Già sinh tật, ít lâu nay lão đốc chứng đi tiểu dắt, tối tối lục đục vật lộn với nhà cầu cả bốn, năm lần là ít, súng nước thì của khôn người khó, đếm từng giọt, giật cái cần  thì nước ồ ồ chẩy sối sả như thác, tháng tháng tiền nước lại nhích thêm một chút. Bò về đến cái ghế, đặt cái lưng xuống muốn chẹo người, chưa kịp thở, đầu óc lão hoa lên như nổ đom đóm mắt và lão không tin ở mắt mình nữa: Đúng là giời đi vắng, thật là quá quắt lắm rồi, giời ạ, ai đời chình ình giữa nhà hai vợ chồng thằng chuột chẳng mời mà rủ nhau nhau tới…thăm lão. Không chủ không khách, chẳng đứng chẳng ngồi, mụ vợ thản nhiên nằm ngửa tênh hênh lên trời, bốn chân ôm sát sạt trái trứng gà to hơn cả người ả, che cả cái bụng, chỉ lòi cái mặt ra một tí tẹo, còn thằng chồng, mõm ngậm đuôi vợ, vừa lùi vừa hì hục kéo. Đúng lúc lão vừa ngả lưng nên gây tiếng sột sọat nhẹ, thằng chồng ngừng lại nghe ngóng thăm chừng. Cái mõm với mấy sợi râu ngắn cũn cỡn rung rung, mắt nhìn lão lơ láo như muốn hỏi han, nhưng mắt mũi thì vẫn tỉnh queo. Ả vợ vẫn nằm kềnh ra đấy, làm như không phải chuyện của ả và vẫn khư khư ôm quả trứng.

       Người và vật ngó nhau được một lát thì thằng chồng lại khom người, cong đít, ngậm đuôi vợ, không kéo phăng đi mà kéo giật lùi rất ư chậm chạp, rất ư từ tốn, như sợ mụ vợ đau lưng…như lão không bằng. Như sợ quả trứng mà lăn tòm xuống thì gã ốm đòn với mụ, cái đuôi dài thò lò ngoe nguẩy như đệm nhịp kéo cưa lừa xẻ, lôi được một khúc ngắn, ngừng lại để lấy sức, thằng chồng đứng thẳng lên bằng hai chân sau, hai chân trước quậy quậy ba, bốn cái ra cái điều lấy gân lấy sức, mệt hốc người ra chứ đâu có bỡn. Cái đuôi mụ ngoe nguẩy như dục dã, thằng chồng như hiểu ý, nằm mọp kéo tiếp, vừa nhích được mấy đốt ngón tay thì cũng vừa lúc hai đứa con chạy ùa ra, thằng anh mũm mĩm như trái chuối cau săng sái, sắng sẻ chạy chung quanh mẹ, vừa chạy vừa khụt khịt hửi hửi. Còn con em, đỏan người và tròn chịa như hạt mít, đứng bằng hai chân sau, hai chân trước lần này xoa xoa vào nhau như…vỗ tay, mắt thì chố ra nhìn…Như lão đang nhìn chúng vậy.

       Trong tâm tư lão như chùng xuống và đẩy đưa về những ngày tháng cũ của…”cái buổi đầu tiên” ấy. Và lão ngộ ra một điều, có những chuyện nằm chôn vùi, ẩn mình trong tâm khảm cả mấy chục năm dài, chẳng có dịp để đào sới lên và nghĩ đã đi vào quá khứ. Vậy mà một ngày, có một cọ xát nào đó, như một buổi sáng lắng đọng với trời xanh mây tím, nhìn con bướm vàng vật vờ bên luống hoa lại bừng bừng sống dậy với một cánh bướm trắng khác đã về bên ấy rồi và vật vờ tiếc nuối. Để rồi cái cọ xát đến tê người của cái tối hôm nay, chất xúc tác chính là ở “đôi vợ chồng chuột “ này…

        Như vào cái năm mười ba, mười bốn tuổi, cả nhà gọi “lão” là…thằng ngốc.

        Thằng ngốc dong dóng ăn chơi từ tấm bé đến lớn, mà ăn thì không ngòai cơm nắm muối vừng với dăm quả cà muối nên cứ còi cọc, cớm rớm như mèo đi kiết. Bu ngốc riếc: “Có mà ăn trứng giời cũng chẳng nhớn được” nên bị tống cổ xuống nhà bà bác “nuôi” cho chóng nhớn vào cuối tuần. Nhờ đó thằng ngốc được biết đến món tép đồng kho tương, trộn lẫn với bún và đậu rán vàng ròn, mà cái giống này ăn tùng tục mới ngon, quất hai chập là no căng. Sau đấy sáng thứ bẩy, chủ nhật nào ngốc cũng xuống trại di cư Tân Chí Linh ở ngã ba Ông Tạ đi lễ nhà thờ, mong giữ một chỗ trên thiên đàng cho mai hậu và cũng để được ăn ngon hơn. Trời đất run rủi làm sao ấy, một ngày ngốc chạy chân trần đuổi bắt con chuồn chuồn ớt gần ao rau muống cạnh trại di cư thì đâm sầm vào cô bé hàng xóm ngọai đạo. Thế là quen…để thành chuyện. Thế là từ đấy ngốc không tin có Chúa ở trên trời nữa, để rồi càng ngày càng bơi trong biển tình, càng về sau thằng ngốc càng xuống trễ, trốn cái cảnh ê a đọc kinh trầm bổng đến buồn thiu.

       Ấy là cái Sửu, cô em gái Bắc Kỳ của thằng ngốc thân hình như con cá trắm, da bánh mật, lông mày dậm, môi dầy cong cớn dẩu lên như chó cái, nghịch ngợm như con trai, chỉ thích vật nhau với thằng ngốc ở trên cái chõng tre và ngốc nhớ như in, nhớ mồn một…Một lần hai đứa đang đùa nhau, cắn nhau, véo nhau, cái nan tre ọp ẹp, rung rung kêu cót két. Rồi đè nhau, lăn qua lăn lại, đến độ cái chiếu hoa gần như cũng muốn rơi tuốt tuồn tuột xuống đất. Cúc áo thì có tuột thật…và lần đầu tiên trong đời, thằng ngốc mới thấy thế nào là cái gì ấy của cái Sửu cồm cộm cứng như mo nang, như chọc vào mắt thằng ngốc, rõ ra trắng hếu, trắng như ếch lột. Thằng ngốc nhìn lòi mắt với “cảm nhận” thế nào là nhễ nhại, nhễ nhại như lưng ngốc đang lấm tấm mồ hôi vì nhịp tim đang đập thình thịch khi bất chợt nhìn thấy trái cấm lần đầu. Thế nhưng thằng ngốc thề, không phải thề kiểu cá trê chui ống, mà với “đức Chúa giời có ba ngôi” là: Không có chuyện tòm tem của người lớn, mà nếu có muốn thì thằng ngốc cũng chẳng biết tí tóay ra làm sao nữa. Vả lại thằng ngốc còn bé tí, hòan tòan chỉ là chuyện láo ngáo như ếch vồ hoa mướp của cái tuổi lông ben ấy thôi. Mà ngốc nói thật đấy, vì cái trò ma mãnh này chỉ có cái thứ…“đĩ như con đom đóm đực” là quen thói, dù thằng ngốc là đực nhưng mù tịt, ấy là mãi về sau này học lóm được qua sách vở của người lớn đấy thôi.

        Đã bảo là ngốc mà…

        Để rồi hai đứa vẫn hồn nhiên vần nhau một hồi và đang cười nắc nẻ như không có chuyện gì xẩy ra trên cõi đời tội lỗi này thì đột nhiên…Cô hàng xóm Bắc Kỳ nhỏm dậy, mặt mày xanh như tầu lá, tay run lẩy bẩy, chân dẫy dành đạch như đỉa phải vôi và rú lên hãi hùng như cha chết mẹ chết. Đồng thời chỉ xuống cái nền đất thô lồi lõm, cả hai thấy: Hai con chuột ăn cắp trứng đang kéo đuôi nhau. Và hai vợ chồng thằng chuột đang đường ta, ta cứ đi, bỗng nghe tiếng gào bải hải như sấm rền, thế là quáng quàng, ù té chạy bán sống bán chết, bỏ lại quả trứng nằm lăn long lóc chơ vơ giữa nhà.

       Giê-su-ma lạy Chúa tôi…Thằng ngốc thì cứ…cứng đơ ra .

       Mà chuyện chỉ có vậy ! Và…không hơn.

(Còn tiếp một kỳ)

Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

©T.Vấn 2022

Bài Mới Nhất
Search