T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

T.Vấn: Con cái chúng ta gỉoi thật

clip_image001

Nguyễn ngọc Trang: “Không có gì là không thể làm được”

1.

“Không có gì là không thể làm được (Impossible is nothing) đối với học sinh đỗ Thủ khoa của trường trung học East High!”. Đó là đầu đề một bài báo đăng trên trang chính mục tin tức địa phương của tờ báo lớn nhất thành phố, nói về một cô gái Việt Nam nhỏ nhắn (nhưng xinh đẹp, như bất cứ cô gái Việt nam nào), di dân đến Mỹ chưa đầy 4 năm, lúc cô vừa mới bắt đầu vào học lớp 9 của ngôi trường có lịch sử lâu đời từ hồi đầu thế kỷ 20. Lúc ấy, vốn liếng Anh ngữ của cô chỉ gói gọn trong vài ba câu chào hỏi thông thường. Vì thế, ngòai những giờ theo học chính thức ở trường, cô học trò 14 tuổi còn phải tham dự những lớp Anh ngữ dành cho người không sử dụng tiếng Anh như là tiếng mẹ đẻ. Lớp học này có 5 trình độ từ thấp đến cao. Cô khởi đầu ở trình độ thấp nhất. Niên học kế tiếp, cô lên lớp 10. Đồng thời, cô gái cũng đã hòan tất xuất sắc 5 lớp học riêng về Anh ngữ mà cô coi đó như là bệ phóng giúp cô vươn cao trong những nỗ lực học tập. Nói cách khác, chỉ chưa tới một năm sau khi đến Mỹ, từ một học sinh mới chỉ bắt đầu làm quen với Anh ngữ, cô gái Việt Nam nhỏ nhắn đã được chấp nhận vào ngồi trong lớp 10 chính quy như bất cứ một học sinh nào sinh trưởng ở Mỹ. Lên lớp 11, cô gái chọn học thêm những lớp cao hơn về Tóan và Khoa học để có thể hòan tất sớm sủa chương trình học khá hóc búa của những năm cuối cùng bậc trung học. Ở tất cả các lớp, cô đều đạt điểm cao nhất. Hồi đầu năm nay, cô được chọn tham dự cuộc thi cao nhất về khoa học cấp Tiểu bang có tên Science Olympiad. Ở cả ba bộ môn thi khác nhau, cô gái Việt Nam đều đạt giải nhất. Và bây giờ, ngày tốt nghiệp Trung học của cô đã đến. Vào lúc tôi ngồi viết những dòng này, cô gái Việt nam ấy đang bước lên bục danh dự để nhận bằng tốt nghiệp với thứ hạng cao nhất trường: Thủ Khoa (valedictorian) và đồng thời cũng để đại diện học sinh toàn trường đọc diễn văn (dĩ nhiên, bằng tiếng Anh) trước hàng ngàn quan khách, phụ huynh học sinh hiện diện. Kèm thêm với danh dự mà học sinh nào cũng mơ ước ấy, cô còn nhận thêm giải thưởng đặc biệt về thành tích học tập xuất sắc.

Trong thời gian ngắn ngủi chưa tới 4 năm, cô đã đi những bước dài hơn sức tưởng tượng của con người. Thầy cô giáo của cô gái gọi cô là một “hiện tượng” (phenomenal). Có người thú nhận rằng, trong suốt cuộc đời dạy học của mình, đây là lần đầu tiên họ tiếp xúc với một “hiện tượng” bằng xương bằng thịt. Bạn học cùng lớp của cô gái công nhận cô “thông minh tuyệt đỉnh” (super-smart).

Cô gái 18 tuổi ấy tên Nguyễn ngọc Trang, cha mất từ khi còn ở Việt nam vì một tai nạn nghề nghiệp, hiện sống với mẹ ở thành phố Wichita, Kansas. Nguyễn ngọc Trang sẽ theo học ngành Sinh Hóa học (Biochemistry) ở Creighton University, tiểu bang Nebraska với hai học bổng tòan phần từ Gates Millennium (*) và Dell Scholarships. Cô mơ ước được mặc chiếc áo chòang trắng của người bác sĩ. Không một ai biết đến cô gái mà không tin tưởng rằng sau 4 năm đại học, Nguyễn ngọc Trang sẽ vững chãi bước vào ngưỡng cửa trường Y khoa để hòan thành ước vọng của mình.

2.

Sau 33 năm cộng đồng người Việt định cư trên đất Mỹ (cũng như những mảnh đất ngòai quê hương khác trên tòan thế giới), người bản xứ đã không còn ngạc nhiên lắm trước sự thành đạt đáng ghi nhận của tầng lớp di dân này, nhất là trên phương diện học vấn của con em của họ. Từ nhiều năm nay, các công trình khảo cứu của giới chuyên môn đã chỉ ra những nguyên nhân chính đưa đến sự thành đạt này,

clip_image002

Nguyễn Hòa Dung: Summa Cum Laude

trong đó yếu tố gia đình luôn đứng đằng sau lưng con em mình, hỗ trợ tòan diện từ tinh thần đến vật chất, được coi là nổi bật nhất. Năm ngóai, nhân mùa tốt nghiệp, cũng trên trang viết của tạp chí Ca Dao, tôi đã nhắc đến:

” . . . Đằng sau mọi thành công, luôn luôn có sự hiện diện của những nỗ lực và hy sinh. Với sự thành công của thế hệ người Việt trẻ tuổi trong lãnh vực học vấn, ngòai nỗ lực của chính bản thân, còn có phần đóng góp thậm chí lớn hơn, của gia đình. Sự đóng góp ấy, đi từ cái cụ thể là vật chất, đến cái trừu tượng là tình thương, truyền thống và cao hơn hết, là sự hy sinh của gia đình về mọi phương diện cho tương lai của con cái. Cô gái Nguyễn Tống Mỹ Linh đã thú nhận rằng, chính sự hy sinh của bố mẹ cô, của gia đình đã giúp cô đạt được những danh dự cao nhất như cô mong ước. Anh chàng Việt nam nhỏ thó David Bành cũng cho rằng học giỏi là một cách đền đáp lại những công ơn hy sinh của cha mẹ anh. Cô gái Mimi Nguyễn, tốt nghiệp thủ khoa một trường trung học ở thành phố Hucher, tiểu bang Mississippi đã khẳng định rằng chính đức tính khiêm nhường, lòng kiên nhẫn và quyết tâm mà mẹ cô đã dạy dỗ cô từ khi còn bé thơ đã góp phần chính yếu trong sự thành công của mình ngày hôm nay. Nguyễn Mai Phương, người tốt nghiệp thủ khoa một trường trung học lớn nhất thành phố Oklahoma, tiểu bang Oklahoma thì trân trọng nhắc đến những sự chăm sóc nhỏ nhất của người mẹ không hề biết lái xe, không có khả năng điền một tờ đơn xin việc bằng tiếng Anh, trong bài diễn văn của sinh viên thủ khoa (Valedictorian) đọc trước hàng ngàn người Mỹ đến tham dự lễ tốt nghiệp của con em họ. Vì, theo cô gái Mai Phương, không có những chăm sóc nhỏ nhặt nhất của người mẹ Việt nam, thì chắc hẳn cô không có vinh dự đứng ở vị trí danh dự nhất trong ngày lễ ra trường trung học. Tất cả cử tọa đã đồng lọat đứng dậy vỗ tay, có người đã khóc, vì những lời chân tình từ cửa miệng cô gái Việt Nam xinh đẹp và gỉoi giang.

Như thế, gia đình Việt Nam là chỗ dựa không thể thiếu, là cái bệ phóng để những người trẻ bay lên, chứng tỏ chính mình, đóng góp cho xã hội và làm rạng danh nòi giống (Việt). . .” (T.Vấn – Nhân mùa tốt nghiệp).

Dù vậy, một yếu tố khác, không kém phần quan trọng, là ở nghị lực vượt khó, quyết tâm vươn cao ở chính những người trẻ mà hòan cảnh lịch sử đã đặt họ ở vào một vị trí mà ngay cả cha mẹ của họ trước đây không dám mơ ước tới. Đó là được sinh sống và học tập giữa một môi trường thuận tiện và ở một số phương diện, là môi trường giáo dục hòan hảo nhất thế giới. Và họ đã không phụ lòng mong mỏi của cha anh.

Cô gái Nguyễn ngọc Trang, khi được hỏi “làm thế nào mà cô đã đi được một đọan đường vừa gian nan, vừa vinh quang từ một người không biết rành về Anh ngữ đến danh vị Thủ khoa một trường trung học lớn nhất thành phố chỉ trong vòng 4 năm”, đã khiêm tốn trả lời: “Tôi là một người chậm hiểu, nên tôi phải hết sức siêng năng học hành.” Sự khiêm tốn còn cho thấy nghị lực phi thường nơi cô học trò nhỏ nhắn khi ấy mới 14 tuổi. Hầu như phần lớn những người di dân Việt Nam đều có thể hình dung ra những khó khăn mà cô gái Nguyễn ngọc Trang đã gặp phải. Để học một ngôn ngữ, không thể một sớm một chiều, nhất là thứ ngôn ngữ chính quy nơi trường lớp. Nguyễn ngọc Trang kể lại, cô kiên nhẫn tập nghe radio, xem những chương trình truyền hình cho trẻ con, đọc những quyển sách vỡ lòng của học sinh lên 4, lên 5 tuổi, rồi sau đó bập bẹ bắt chước cách phát âm từng vần, từng chữ, rồi ráp vần, ráp chữ thành câu, thành cú. Và, còn biết bao thì giờ rảnh rỗi, thay vì vui chơi, cô đã dành cho việc đọc sách với người bạn đường là quyển tự điển dầy cộm. Kiên trì, thận trọng, học hỏi đến nơi đến chốn, đó là những đức tính mà người thầy thân cận nhất với cô gái ở trường East High nhận xét về cô.

Tôi lại không thể không nhắc đến một hiện tượng “sống” khác, cũng ở một cô gái Việt Nam , thậm chí còn nhỏ nhắn hơn bất cứ một cô gái nhỏ nhắn nào. Tôi đã đứng thích thú nhìn cô, vóc dáng nhỏ bé chìm nghỉm giữa rừng sinh viên trong ngày lễ tốt nghiệp ở một trường đại học công giáo uy tín của thành phố. Người ta chỉ chú ý đến cô vì trên bộ áo tốt nghiệp là sợi dây vàng chói lọi chỉ dấu của thứ hạng mà cô tốt nghiệp. Nhìn vào danh sách ở hàng đầu, cô gái Việt nam Nguyễn Hòa Dung là người duy nhất tốt nghiệp hai bằng đại học với danh hiệu tối danh dự: Summa Cum Laude. Cũng như Nguyễn ngọc Trang, Nguyễn Hòa Dung bước vào trường học nước Mỹ với vốn liếng thật nhỏ nhoi về Anh ngữ, nhưng ý chí và nghị lực thì lớn hơn rất nhiều so với số tuổi và vóc dáng của mình. Định cư muộn màng nơi xứ người, cha mẹ cô phải bận rộn cả ngày với cuộc mưu sinh và bầy con 6 đứa. Bằng chính sức lực của mình, Nguyễn Hòa Dung đã đi xong đọan đường thật gian nan mà bố mẹ của cô không hề dám mơ tưởng có một ngày nhìn thấy con mình nụ cười rực rỡ bước những bước tự tin lên bục nhận bằng tốt nghiệp, một tấm bằng có giá trị lớn hơn rất nhiều những người bạn đồng trang lứa, vì cô đã phải đổ vào đó tòan bộ nghị lực từ thấm thân xác vừa nhỏ nhắn, vừa không khả quan lắm về sức khỏe. Nắm bàn tay rụt rè, e lệ của cô gái để chúc mừng, nhìn đôi mắt hồn nhiên nhưng đầy tự tin, tôi biết rằng chỉ trong một thời gian ngắn ngủi nữa, tôi sẽ lại thấy cô rực rỡ trong bộ áo tốt nghiệp bác sĩ y khoa từ một trường đại học nổi tiếng miền Trung Tây.

3.

clip_image003

Trần Kim Thi trong ngày tốt nghiệp trung học

Sự thành đạt trong lãnh vực học vấn của thế hệ con cháu người Việt hải ngọai, đồng thời cũng tạo cho họ một tư thế hết sức thuận lợi để họ bước vào những lãnh vực khác trong sinh họat dòng chính ở những xứ sở họ định cư. Qua trường học, qua những đòan thể, tổ chức xã hội, chính trị, văn hóa, họ ý thức được mục tiêu cuối cùng của những nỗ lực học vấn không phải chỉ là một công việc làm với thu nhập cao cho bản thân và gia đình. Đó có thể là mục tiêu ngắn hạn của những bậc làm cha mẹ nhắm tới khi họ hết sức lo cho việc học hành của con cái mình. Nhưng với chính bản thân những người trẻ, đó có thể không phải là động cơ đã thúc đẩy họ nỗ lực hòan thành xuất sắc nhiệm vụ nơi trường lớp.

Tuổi trẻ nào cũng có những lý tưởng cao đẹp để họ hướng tới. Như cô gái Nguyễn ngọc Trang, cố gắng học hành để trở thành bác sĩ, mong một ngày tìm ra được phương cách chữa trị chứng bệng máu lõang mà một người bạn thân của cô ở Việt Nam mắc phải, nhưng nhà nghèo không có tiền chạy chữa. Như câu chuyện khó tin mà có thật về một cô gái Việt Nam khác tên Nguyễn Yến Vi mới 14 tuổi, vừa hòan tất xong chương trình trung học cấp I (Middle School) đã được nhận thẳng vào trường đại học Mary Baldwin, một trường đại học tiếng tăm ở tiểu bang Virginia. Cô gái 14 tuổi này sẽ không phải trải qua 4 năm trung học cấp 2 như những học sinh thông thường, vì sức học và sự thông minh xuất chúng của cô khiến nhà trường tin rằng cô đủ sức để hòan tất 4 năm đại học và sẽ bước vào trường y khoa năm 2012 . Như vậy, cô sẽ trở thành bác sĩ năm cô chỉ 21 tuổi. Số tuổi quá trẻ để có thể mang trên vai một chức nghiệp cao quý như vậy. Lý do chính khiến cô gái Nguyễn Yến Vi cố gắng đốt giai đọan trên đường học vấn của mình vì cô nghĩ đến những người thân yêu của cô, những con người chung quanh mà cô quen biết, đang mang nhiều chứng bệnh hiểm nghèo khiến họ không thể hưởng được niềm vui cuộc sống, nên cô muốn được sớm có khả năng giúp đỡ những con người bất hạnh ấy. Điều ngạc nhiên thích thú là cô bé Yến Vi đã bước đầu hòan thành được mơ ước của mình khi bé mới chưa đầy 14 tuổi.

Xa hơn nữa, nhiều người trẻ hôm nay, tuy vẫn còn là học sinh cấp trung học, đã có những suy nghĩ và họat động liên quan tới những người thiếu thốn những nhu yếu tối cần nhất, những người bị áp bức, bị giết hại một cách oan ức ở bất cứ phần đất nào của thế giới, và tuổi trẻ sẽ không giữ thái độ bàng quang, “mackeno” (mặc kệ nó, một từ chỉ sự vô cảm trước những nỗi đau của đồng bào, đồng lọai, phát sinh từ trong nước những năm 90).

Thật là thú vị, khi tôi đọc được bài báo phỏng vấn một cô gái Việt Nam ở địa phương về những nỗ lực mà cô và các bạn cùng trường tìm cách lôi kéo sự chú ý của công luận trước hành vi giết hại hàng trăm ngàn người dân của nhà cầm quyền Sudan, một quốc gia chậm tiến ở Phi Châu, vốn được cả thế giới biết đến và lên án . Sự kiện này được báo chí thế giới gọi là Darfur Genocide (cuộc diệt chủng ở Darfur). Darfur là một địa danh ở miền nam Sudan, nơi một trận nội chiến xảy ra năm 2003, trong đó, giới cầm quyền đã giết hại gần 400 ngàn người dân vô tội, khiến 2 triệu rưỡi người phải sống lang thang trong các trại tạm cư, chỉ vì chủ trương kỳ thị chủng tộc của chính quyền và sự ủng hộ của người dân Darfur dành cho phe nổi dậy đòi hỏi chính quyền phải có những biện pháp nâng cao mức sống người dân.

Những tội ác lớn với nhân loại như thế, cần phải cho mọi người biết đến. Người ta chỉ lãnh đạm, thờ ơ vì người ta không hề biết được rằng những hành vi ấy đã xảy ra. Một khi công luận đã được đánh động, ắt hẳn họ sẽ có thái độ.

Đó là lập luận của Trần Kim Thi, cô gái Việt Nam 17 tuổi, giải thích về những việc làm của mình và bạn hữu, từ viết báo kêu gọi, đến tổ chức những buổi thuyết trình với diễn gỉa là chính những người sống sót đến từ Darfur, đến tổ chức thành một nhóm hành động có mục tiêu, có chương trình hành động cụ thể. Họ đi đến cả quốc hội tiểu bang để điều trần, vận động. Họ còn lôi kéo được sự hỗ trợ đặc biệt của viên Thượng nghị sĩ đại diện tiểu bang và các cơ quan truyền thông địa phương. Kết quả, quốc hội tiểu bang đã thông qua một quyết nghị yêu cầu cơ quan quản trị quỹ hưu bổng tiểu bang phải phân tán số tiền đầu tư 38 triệu vào các công ty có quan hệ làm ăn với chính quyền Sudan. Vì, theo lời nhóm hành động của Trần Kim Thi “Áp lực chính trị, biện pháp ngoại giao với nhà cầm quyền Sudan cần phải đi song hành với những chế tài về kinh tế thì mới mong có những thay đổi tốt đẹp ở Sudan“. Ở một cô gái Việt nam 17 tuổi, mối quan tâm khá đặc biệt về một sự kiện chính trị của cô hứa hẹn nhiều bất ngờ về những họat động xã hội khác trong tương lai, nhất là trong mối quan hệ khá tế nhị giữa người Việt hải ngoại và chính quyền trong nước. Được biết, Trần Kim Thi tốt nghiệp trong số 5% đầu bảng của chương trình International Baccalaureate** ở trường East High và được cấp học bổng tòan phần để theo học về Thương mại và Bang giao quốc tế tại trường đại học Richmond, tiểu bang Virginia .

Sự trưởng thành đáng khích lệ trong những họat động xã hội (và chính trị) cho thấy một khía cạnh khác trong những khả năng tiềm ẩn của con cháu người Việt hải ngoại. Ngòai việc chăm chỉ học hành, họ không thờ ơ với những sinh họat cộng đồng hoặc các sinh họat đa dạng khác tại địa phương. Nguyễn ngọc Trang, ngòai công việc tự nguyện làm thông dịch trong các buổi họp giữa nhà trường và phụ huynh, còn đảm nhận việc dạy tiếng Việt cho học sinh Việt nam vào mùa hè, hoặc cuối tuần đến các trung tâm dưỡng lão đọc sách cho các cụ nghe, đưa các cụ đi dạo. Nguyễn Hòa Dung, thường xuyên có mặt trong các buổi gây quỹ, cứu trợ Thương phế Binh, người nghèo khó tật nguyền. Trần Kim Thi, ngay từ khi còn học tiểu học đã thường theo bố (vốn là một nhạc sĩ) ca hát giúp vui trong những dịp lễ lậy của cộng đồng người Việt địa phương.

Rồi đây, những người trẻ giỏi giang ấy chắc hẳn sẽ tìm được con đường đúng đắn nhất của thế hệ mình để đem tài năng, nhiệt huyết phục vụ cho hơn 80 triệu đồng bào còn đang sống trong nghèo khổ, áp bức ở quê nhà. Tôi tin rằng, mục tiêu ấy đã nằm sẵn trong danh sách những việc phải làm của họ. Vấn đề chỉ còn là thời gian, và một số điều kiện về sự cải tiến chính trị ở trong nước.

4.

Mỗi năm, cứ đến mùa tốt nghiệp, là tôi lại nôn nao đi dò từng cái họ Việt Nam ở bất cứ một danh sách tốt nghiệp nào mà tôi có cơ may bắt gặp. Thường thì tôi cứ nhìn vào những chỗ trang trọng trên danh sách ấy trước. Và hầu như chưa bao giờ tôi thất vọng. Năm nào tôi cũng được hưởng cái hạnh phúc lớn lao suy nghĩ về những thành đạt đáng nể của bao người trẻ Việt Nam nơi xứ sở họ định cư. Cứ mỗi lần như thế, bất giác tôi lại nhớ đến nhan đề một tác phẩm của nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ Azit Nexin: Con cái chúng ta giỏi thật!

T.Vấn

(Mùa Tốt Nghiệp 2008)

* Tên gọi đầy đủ là Gates Millennium Scholars Program (GMSP). Học bổng GMSP hàng năm nhận được khoảng trên dưới 13,000 lá đơn dự tuyển từ khắp các trường trung học trên nước Mỹ. Nhưng chỉ có 1000 ứng viên được chọn nhận học bổng. GMSP là một học bổng lớn, chu cấp trọn vẹn chi phí cho các học sinh xuất sắc. Các em được tuyển chọn có thể học suốt lên tới bậc cao nhất về các ngành giáo dục, kỹ sư, toán học, thư viện, điện toán, y khoa… Những em học sinh được phát học bổng này có thể vào học bất cứ một đại học danh tiếng nào của Hoa Kỳ, tuỳ theo lãnh vực chuyên môn mà các em chọn. (Theo http://www.vietkids4vietkids.com).

Được biết, ngòai Nguyễn Ngọc Trang ở Wichita, Kansas, còn có hai học sinh người Việt khác là Michelle Nguyễn và Huỳnh Khải-Hoàn ở Westminster, California cũng nhận được Học bổng Gates Millennium năm học 2008. Có lẽ còn nhiều những học sinh Việt nam khác nữa nhận được học bổng này. Người viết mong được quý bạn đọc bổ túc.
** International Baccalaureate Program, gọi tắt là chương trình Trung học I.B, là một chương trình đòi hỏi học sinh ở một mức độ cao hơn mức độ trung học thông thường về tất cả những môn học. Để được thu nhận vào I.B., học sinh phải trải qua một kỳ thi tuyển khó khăn. Trong thời gian 4 năm trung học, học sinh I.B. phải duy trì mức học trên trung bình, nếu không, sẽ bị đưa trở về học bên trình độ thông thường. Khi tốt nghiệp từ chương trình I.B,, học sinh thường dễ dàng được thâu nhận vào các đại học danh tiếng trên tòan nước Mỹ.

© T.Vấn 2008

Bài Mới Nhất
Search