T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Tuyển tập “Những Tình Khúc Tiền Chiến Tiêu Biểu”

Tân Nhạc Việt Nam – Nhạc Tiền Chiến

(Trích từ: dotchuoinon.com)

Túy Phượng

Tân Nhạc (tiếng Anh: Vietnamese Modern Music) – tên gọi khác: Nhạc Tân Thời (tiếng Anh: Vietnamese modern musical era), Nhạc Cải Cách (tiếng Anh: Vietnamese reformed music) – là tên gọi thông dụng của dòng nhạc xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng năm 1928.

Bối cảnh ra đời của Tân Nhạc Việt Nam là những năm đầu thế kỷ 20. Đây là giai đoạn có nhiều thay đổi trong nghệ thuật văn học Việt Nam nói chung. Tân Nhạc xuất hiện sau phong trào thơ mới và dòng văn học lãng mạn vài năm.

Giai đoạn trước 1937 được xem là giai đoạn chuẩn bị của Tân Nhạc. Trong bài Lịch sử Tân Nhạc Việt Nam nhạc sĩ Trần Quang Hải gọi đây là “giai đoạn tượng hình”. Còn nhạc sĩ Phạm Duy cho rằng những năm đầu thập niên 1930 là “thời kỳ đi tìm nhạc ngữ mới”.

Âm Nhạc của Châu Âu theo chân những người Pháp vào Việt Nam từ rất sớm. Đầu tiên chính là những bài thánh ca trong các nhà thờ Công Giáo. Các linh mục Việt Nam được cũng được dạy về âm nhạc với mục đích truyền giáo. Tiếp đó người dân Việt Nam được làm quen với “nhạc nhà binh” qua các đội kèn đồng. Tầng lớp giàu có ở thành thị được tiếp xúc với nhạc khiêu vũ, nhạc cổ điển phương Tây.

Năm 1938 được coi là điểm mốc đánh dấu sự hình thành của Tân Nhạc Việt Nam với những buổi biểu diễn và thuyết trình của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên tại Hà Nội.

Sau thành công của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên và được sự ủng hộ của báo chí, nhiều nhóm nhạc được thành lập và các nhạc sĩ phổ biến rộng rãi những tác phẩm của mình. Và ngay từ thời kỳ này, nhiều nhạc sĩ tài năng đã ghi dấu ấn với các nhạc phẩm trữ tình lãng mạn. Một số thuật ngữ được dùng để chỉ nền tân nhạc Việt Nam giai đoạn này, phổ biến nhất là “Nhạc Tiền Chiến”. Dòng “Nhạc Tiền Chiến” này còn kéo dài tới năm 1954 và cả sau 1954 ở miền Nam.

Nhạc Tiền Chiến (tiếng Anh: Vietnamese pre-war music) là dòng nhạc đầu tiên của Tân Nhạc Việt Nam mang âm hưởng trữ tình lãng mạn xuất hiện vào cuối thập niên 1930. Các ca khúc tiền chiến thường có giai điệu trữ tình và lời ca giàu chất văn học. Ban đầu khái niệm “Nhạc Tiền Chiến” (nhạc trước thời kỳ chiến tranh) dùng để chỉ dòng nhạc mới tiếng Việt theo âm luật Tây phương trước khi chiến tranh Việt – Pháp bùng nổ, sau này, vì lý do chính trị, khái niệm này mở rộng với phong cách trữ tình lãng mạn, như “Dư Âm” của Nguyễn Văn Tý, “Trăng Mờ Bên Suối” của Lê Mộng Nguyên… và cả sau 1954 đối với một số nhạc sĩ ở miền Nam như Phạm Đình Chương, Cung Tiến…

Những nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc tiền chiến:

NS Đặng Thế Phong.

NS Đặng Thế Phong: Ông thuộc nhóm Nam Định, nhưng ông sớm rời bỏ thành phố để lên Hà Nội. Đầu 1941 Đặng Thế Phong vào Sài Gòn rồi sang Campuchia. Cuối 1941 ông trở lại Hà Nội và mất vào năm 1942 bởi bệnh lao. NS Đặng Thế Phong chỉ để lại ba nhạc phẩm “Đêm Thu, “Con Thuyền Không Bến” và “Giọt Mưa Thu”. Các sáng tác của ông được xem là tiêu biểu cho dòng “Nhạc Tiền Chiến” và có ảnh hưởng đến những nhạc sĩ sau đó.

NS Văn Cao.

NS Văn Cao: Ông cũng ở Hải Phòng. Ban đầu ông thuộc nhóm Đồng Vọng của NS Hoàng Quý và có những sáng tác đầu tay như “Buồn Tàn Thu”, “Vui Lên Đường”. Năm 1941, NS Văn Cao lên Hà Nội, ông đã viết những nhạc phẩm giá trị vượt thời gian như “Trương Chi”, “Thiên Thai”, “Suối Mơ”, “Bến Xuân”…

NS Phạm Duy.

NS Phạm Duy: Ban đầu là ca sĩ của gánh hát Đức Huy, nên NS Phạm Duy còn được xem như một trong những người đầu tiên đem thể loại nhạc này đi phổ biến khắp mọi miền đất nước. NS Phạm Duy gia nhập làng nhạc sĩ năm 1942 với bài “Cô Hái Mơ”, phổ thơ Nguyễn Bính, tiếp đó là những bản nhạc lãng mạn như “Cây Đàn Bỏ Quên”, “Tình Kỹ Nữ”, “Tiếng Bước Trên Đường Khuya” hay đậm chất dân ca như “Em Bé Quê”, “Tình Ca”, “Bà Mẹ Quê”, “Gánh Lúa”… NS Phạm Duy và NS Văn Cao là hai người bạn thân nên thường giúp đỡ nhau trong nghề, hai ông từng sáng tác chung các ca khúc “Bến Xuân”, “Suối Mơ”.

NS Phạm Duy là người có công đầu trong việc đem chất dân ca vào tân nhạc, điều này khiến nhạc cải cách xích lại gần với tầng lớp nông dân, dân nghèo.

NS Lê Thương.

NS Lê Thương: Ông là một trong những nhạc sĩ tiêu biểu nhất cho thời kỳ tiền chiến của Tân Nhạc Việt Nam. Ông là tác giả của bộ ba ca khúc Hòn Vọng Phu bất hủ.

NS Lê Thương tên thật là Ngô Đình Hộ, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1914, tại phố Hàm Long, Hà Nội, trong một gia đình bố mẹ là những nghệ sĩ cổ nhạc. Một bài viết khác cho rằng Lê Thương sinh tại Nam Định. Chi tiết về cuộc đời ông rất ít được nhắc tới. Theo hồi ký của NS Phạm Duy, NS Lê Thương sinh năm 1913 và là một thầy tu hoàn tục.

NS Dương Thiệu Tước.

NS Dương Thiệu Tước: Ông là một nhạc sĩ tiền chiến nổi tiếng và được coi là một trong những nhạc sĩ tiền phong của Tân Nhạc Việt Nam với các bài nổi tiếng.

NS Dương Thiệu Tước sinh ngày 15 tháng 5 năm 1915, quê ở làng Vân Đình, huyện Sơn Lãng, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Xuất thân trong gia đình Nho học truyền thống, ông là cháu nội cụ nghè Vân Đình Dương Khuê, nguyên Đốc học Nam Định. Ông vào miền Nam sinh sống từ năm 1954. Tại Sài Gòn ông làm chủ sự phòng văn nghệ tại Đài Phát Thanh Sài Gòn đồng thời được mời làm giáo sư dạy Lục Huyền Cầm/Tây Ban Cầm tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn.

NS Hoàng Quý.

NS Hoàng Quý: Ông cũng là một nhạc sĩ tiền chiến nổi tiếng, và là một trong những gương mặt tiên phong của Tân Nhạc Việt Nam. Ông là tác giả của nhạc phẩm Cô Láng Giềng bất hủ.

NS Hoàng Quý sinh năm 1920 tại Hải Phòng, ông là anh trai của ông Hoàng Phú, tức nhạc sĩ Tô Vũ. Theo NS Phạm Duy, NS Hoàng Quý từng là học trò của NS Lê Thương tại trường Trung học Lê Lợi ở Hải Phòng vào cuối thập niên 1930. NS Hoàng Quý theo học nữ giáo sư âm nhạc Leperète dạy nhạc ở các trường trung học ở Hải Phòng. Nhờ có năng khiếu và ham học, NS Hoàng Quý tiếp thu âm nhạc khá tốt, chỉ một thời gian sau trở thành giáo viên dạy nhạc của trường Bonnal.

NS Hoàng Giác.

NS Hoàng Giác: Ông sinh năm 1924. Quê gốc của ông ở làng Chèm, nay thuộc xã Thụy Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Ông là một nhạc sĩ và ca sĩ nhạc tiền chiến nổi tiếng khác của nền Tân Nhạc Việt Nam. Ông sáng tác không nhiều, chỉ khoảng 20 ca khúc. Trong số đó, có những bài hát nổi tiếng và vượt thời gian như “Mơ Hoa”, “Ngày Về”, “Lỡ Cung Đàn”,…

Từ khi còn là học sinh, ông đã tìm tòi học hỏi nhạc theo các tài liệu sáng tác cũng như hòa thanh của Pháp. Năm 1945 ông viết ca khúc đầu tay “Mơ Hoa”. Ông khiêm tốn: “Tôi sáng tác không nhiều và so với các nhạc sĩ cùng thời thì đóng góp của tôi cho nền âm nhạc nước nhà không được bao nhiêu.”

Dưới đây mình có trích đoạn bài “Lịch Sử Tân Nhạc Việt Nam – Phần I”, cùng với 22 clips các bản nhạc tiền chiến tiêu biểu để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.

Mời các bạn,

Túy Phượng

(Theo Wikipedia)

Lịch sử tân nhạc Việt Nam – Phần 1 (trích đoạn)

(NS Trần Quang Hải – Paris, Pháp)

Nhạc Mới hay là Tân Nhạc hay là Nhạc Cải Cách là một loại nhạc xuất hiện vào khoảng năm 1928. Ðó là một thể nhạc lấy nhạc ngữ Tây phương làm nền tảng (thang âm thất cung do-ré-mi-fa-sol-la-si-do, hòa âm phối khí, nhạc khí Tây phương vv…).

I. Giai đoạn tượng hình (1928-1937)

Nói cho đúng thì sự phát xuất đầu tiên của âm nhạc cải cách khởi xướng từ loại nhạc đàn tài tử trong Nam với những nhạc phẩm mới của thầy ký Trần Quang Quờn khoảng trước thế chiến thứ nhứt (1914-1918)

Nghệ sĩ cải lương tiền phong Tư Chơi (tên thật là Huỳnh Thủ Trung) đã sáng tác một số bài hát ta theo điệu tây như “Tiếng nhạn trong sương”, “Hòa duyên”, đồng thời viết bài Việt cho một số bài Tây thịnh hành thời đó như “Marinella” (trong vở tuồng Phũ Phàng). Một số bản nhạc Pháp được dịch ra lời Việt như “Pouet Pouet ” (trong tuồng Tiếng Nói Trái Tim), “Tango mystérieux ” (trong tuồng Ðóa Hoa Rừng), “La Madelon ” (trong tuồng Giọt Lệ Chung Tình), vv..

Nghệ sĩ Bảy Nhiêu có sáng tác bài “Hoài Tình” trở thành một bản rất được ưa chuộng . Năm 1930, đảng cộng sản Ðông Dương được thành lập và bài ca của Ðình Như “Cùng Nhau Ði Hồng Binh” được sáng tác trong tù và đi liền với phong trào kháng Pháp.

Có một số bản nhạc được viết ra trước thế chiến thứ hai như “Bẽ Bàng” (1935), “Nghệ Sĩ Hành Khúc” (1936) của Lê Yên, “Bóng Ai Qua Thềm” (1937) của Văn Chung, “Xuân Năm Xưa” (1936) của Lê Thương , “Biệt Ly” (1939) của Doãn Mẫn, vv…

Vào khoảng năm 1937, phong trào “ái Tino” lên rất cao tại Việt Nam. Trên làn sóng điện, trong rạp hát, tại các vũ trường, nơi tư nhân đâu đâu cũng nghe những âm điệu du dương của nhạc sĩ Vincent Scotto qua giọng hát êm ả của Tino Rossi.

II. Giai đoạn thành lập (1938-1945)

Phong trào chuyển theo hướng làm thay đổi sở thích của giới trẻ. Trước mối nguy vọng Pháp và trong tinh thần bảo vệ nghệ thuật của dân tộc, một số nhạc sĩ Việt Nam ra tay sáng tác những bản tân nhạc đầu tiên. Ðó là vào năm 1938. Ở miền Bắc lúc ấy có Thẩm Oánh (định cư tại Hoa kỳ và từ trần năm 1996) , Dương Thiệu Tước (từ trần năm 1998 tại Việt Nam), Trần Quang Ngọc, Lê Thương (từ trần năm 1996 tại Việt Nam). Trong Nam thì có Nguyễn Văn Tuyên, Nguyễn Xuân Khoát, Phạm Ðăng Hinh. Tháng 3, 1938, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên được chánh phủ bảo hộ Pháp gởi ra Hà Nội để thuyết trình về âm nhạc cải cách hầu tạo một phong trào mới.

Vào tháng 9, 1938, báo Ngày Nay đã góp công vào phong trào phổ biến nhạc mới bằng cách đăng những bài tân nhạc đầu tiên. Từ năm 1938 tới 1942 báo Ngày Nay đã đăng “Bông Cúc Vàng”, “Kiếp Hoa” của Nguyễn Văn Tuyên, “Bình Minh”, “Ðàn Xuân”của Nguyễn Xuân Khoát, “Khúc Yêu Ðương” của Thẩm Oánh, “Bản Ðàn Xuân” của Lê Thương, “Ðám Mây Rừng” của Phạm Ðăng Hinh, “Ðường Trường” của Trần Quang Ngọc. Báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy có đăng bản “Con Thuyền Không Bến ” của Ðặng Thế Phong.

Các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Trần Dư, Vũ Khánh, Phạm Văn Nhượng cùng nhau thành lập nhóm MYOSOTIS. Trong nhóm này có hai xu hướng:

1. Sáng tác nhạc mới nhưng có âm hưởng nhạc dân tộc do Thẩm Oánh chủ trương.

2. Sáng tác hoàn toàn theo nhạc ngữ Tây phương do Dương Thiệu Tước cầm đầu.

Ít lâu sau, một nhóm khác gồm vài nhạc sĩ trẻ đầy nhiệt quyết thành lập nhóm TRICEA gồm Văn Chung, Lê Yên, Dzoãn Mẫn. Nhóm này chịu ảnh hưởng nhạc Trung Quốc lúc đầu, về sau phảng phất âm hưởng Âu châu và phải rả sớm. Nhóm Ðồng Vọng ở Hải Phòng có các nhạc sĩ Hoàng Quý, Văn Cao, Canh Thân. Nhóm Ðồng Vọng do Hoàng Quý điều khiển ra đời chuyên về nhạc hướng đạo lúc đầu và sau đó tích cực đóng góp trong việc phổ biến nhạc mới.

Lê Thương lúc đó giảng dạy tại trường trung học Lê Lợi. Một số tráng sinh hướng đạo có những tên đi vào lịch sử âm nhạc Việt Nam như Canh Thân, Phạm Ngữ, Hoàng Quý đã sáng tác những bài nhạc đáng kể như “Nhớ Quê Hương” (Phạm Ngữ), và “Chùa Hương” (Hoàng Quý).

Tỉnh Nam Ðịnh chứng kiến sự chào đờì của hai bài “Ðêm Thu” và “Con Thuyền Không Bến” của nhạc sĩ đoản mệnh Ðặng Thế Phong.

Hai bài nhạc Nhựt “Hà Nhựt Quân Tái Lai” (Bao giờ anh trở lại) và “Shina No Yoru” (Ðêm Trung Hoa) trích trong phim “Ðêm Trung Hoa” (Nuit de Chine) đã gợi hứng cho nhạc sĩ Việt Nam thời bấy giờ sáng tác nhạc Việt, tạo thành phong trào “Người Việt hát nhạc Việt”.

1939: thế chiến thứ hai bùng nổ tại Âu Châu. Những bài “Việt Nam Bất Diệt” của Hoàng Gia Linh, “Trên Sông Bạch Ðằng” của Hoàng Quý, “Tiếng Gọi Sinh Viên” của Lưu Hữu Phước đã làm sống dậy tinh thần yêu nước của tuổi trẻ.

Tân nhạc trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ đã đóng một vai trò đáng kể và từ đó phát triển rất mạnh. Phong trào tân nhạc đã được đưa lên cao tột đỉnh với Tổng Hội Sinh Viên trong giai đoạn lịch sử 1943-1945. Nhạc sĩ đi liền với Tổng Hội Sinh Viên không ai khác hơn là Lưu Hữu Phước. Những bài hát làm ra đúng thời, đúng lúc và vẫn còn sống mãi trong tim đa số người Việt ngày hôm nay (nhứt là những người vào tuổi ngũ tuần trở đi).

Những ai đã sống trong thời kháng chiến chống Pháp vẫn còn nhớ những bài gợi lên những giai đoạn lịch sử Việt Nam như “Ải Chi Lăng”, “Bạch Ðằng Giang”, “Hội Nghị Diên Hồng”, hay những bài khích động thanh niên như “Tiếng Gọi Sinh Viên” (đổi thành Tiếng Gọi Thanh Niên, và cũng là bài quốc ca của thời Ngô Ðình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu). “Lên Ðàng” hay với thiếu nữ như “Thiếu Nữ Việt Nam”, hay những bài gắn liền với lịch sử như “Kinh Cầu Nguyện”, “Hồn Tử Sĩ” (bài mà trong bất cứ chương trình đấu tranh của người Việt di tản vẫn còn dùng để tưởng nhớ các chiến sĩ tử trận). Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước là người đầu tiên sáng tác nhạc ca kịch trong kịch thơ “Tục Lụy” của Khái Hưng và Thế Lữ và tiểu ca kịch “Con Thỏ Ngọc”. Nguyễn Ðình Thi sáng tác bài “Diệt Phát Xít” thúc đẩy dân chúng nổi lên chống Nhựt Bổn.

Lúc bấy giờ ở tại Sài Gòn, chỉ lẻ tẻ vài hội hoạt động về nhạc cải cách. Hội Nam Kỳ Ðức Trí Thể Dục mời bà nhạc sĩ dương cầm Louise Nguyễn Văn Tỵ (tên thật là Thái Thị Lang) trình diễn piano với những bài do bà sáng tác. Nhạc sĩ quá cố Võ Ðức Thu trình bày nhạc phẩm “Việt Nam Tân Ðiệu”. Từ Bắc tới Nam, nhạc sĩ tân nhạc bắt đầu mọc lên như nấm.

Trong giai đoạn 1944-1945, nhiều bài bạn tôn giáo như “A Di Ðà Phật” của Thẩm Oánh được hát nhân ngày khánh thành trùng tu chùa quan sứ Hà Nội vào cuối năm 1942 hay bài “Sám Hối” và nhiều ca khúc khác của Nguyễn Hữu Ba và Văn Giảng sáng tác tại Huế. Nhạc đoàn Lê Bão Tịnh gồm các nhạc sĩ Hùng Lân, Hải Linh, Tâm Bảo, Thiên Phụng đã sáng tác tập Cung Thánh gồm hàng trăm bài Thánh ca Thiên chúa giáo (1944-1945).

Giai đoạn 1945-1946 đánh dấu cuộc chiến tranh bùng nổ tại Việt Nam vừa sau trận thế chiến thứ hai. Các nhạc sĩ lo sáng tác nhạc chiến đấu như Văn Cao với “Tiến Quân Ca” (trở thành Quốc Ca của chế độ cộng sản miền Bắc từ năm 1945, và được dùng làm Quốc Ca của Việt Nam Xã hội chủ nghĩa từ năm 1976), “Chiến Sĩ Việt Nam “, như Ðỗ Nhuận với “Nhớ Chiến Khu “, như Phạm Duy với “Chiến Sĩ Vô Danh “, “Xuất Quân “, như Lưu Hữu Phước với “Ðoàn Quân Ma “, như Phan Huỳnh Ðiểu với “Giải Phóng Quân “, như Thẩm Oánh với “Việt Nam Phục Quốc “. Song song vơí những sáng tác chiến đấu, tình cảm vẫn còn rung động trong nguồn hứng qua các bài “Thiên Thai ” (Văn Cao), “Ðêm Ðông ” (Nguyễn Văn Thương), “Xuân và Tuổi Trẻ ” (La Hối), “Mùa Ðông Binh Sĩ ” (Phan Huỳnh Ðiểu), “Dạ Khúc ” (Nguyễn Mỹ Ca), “Ðêm Tàn Bến Ngự ” (Dương Thiệu Tước), ” Cây Ðàn Bỏ Quên ” (Phạm Duy), “Mơ Hoa ” (Hoàng Giác), “Cô Lái Ðò” (Thẩm Oánh), “Suối Mơ ” (Văn Cao), “Hẹn Một Ngày Về ” (Lê Hữu Mục), “Ði Chơi Chùa Hương ” (Trần Văn Khê/Nguyễn Nhược Pháp).

Các nhạc sĩ đã dùng nhạc để diễn tả những bài thơ lãng mạn của Đoàn Phú Tứ (“Màu Thời Gian” nhạc Nguyễn Xuân Khoát), của Lưu Trọng Lư (“Tiếng Thu ” nhạc Phạm Duy), của Nguyễn Bính (“Cô Lái Đò” nhạc Nguyễn Đình Phúc) . Các đề tài lãng mạn của Tự Lực Văn Đoàn tạo nguồn hứng cho một vài nhạc phẩm như “Bướm Hoa” của Nguyễn Văn Thương , hay “Cô Hái Hoa” của Hoàng Giác.

Bài Mới Nhất
Search