T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không Phí Ngọc Hùng: Tác Giả và Tác Phẩm – Tô Thùy Yên (I)

Mục Lục

Vài hàng về tác giả –

Con đường bè bạn – Phan Lạc Phúc –

Thơ Tô Thùy Yên, quán trọ hồn đông-phương – Nguyễn Vy Khanh –

Tô Thùy Yên, thi sĩ lớn của Nhóm Sáng Tạo – Viên Linh –

Nói về thơ, người làm thơ và người đọc thơ – Tô Thuỳ Yên –

  Trường Sa hành của Tô Thùy Yên – Nguyễn Hưng Quốc –

Ngựa phi đường xa – Đặng Tiên –

      Tô Thùy Yên, thời gian, tồn tại, cô đơn và đá – Thụy Khuê –

   Thi sĩ, kẻ nhuốm bệnh thời khí trước tiên…- Phan Nhiên Hạo –

Tâm thức khuất dạng của Thơ – Đãng tử – Nguyễn Hưng Quốc –

Giấc mơ không dứt đó của thần linh – Nguyễn Tà Cúc –

Tô Thùy Yên – Thu Tứ –

Đọc Trường Sa Hành của Tô Thùy Yên – Nguyễn Thị Thảo An –

Vài hàng về tác giả

Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên sinh năm 1938 tại Gò Vấp, Gia Định,  học qua Petrus Ký và Đại Học Văn Khoa Sài Gòn cấp bậc Thiếu Tá trong quân đội Miền Nam trước 1975. Tô Thùy Yên lập gia đình với vợ chánh là bà Huỳnh Diệu Bích.

Còn có thời gian chung sống và có mấy con với nhà văn nữ Nguyễn Thị Thụy Vũ. Sau 1975 Tô Thùy Yên ở tù gần 13 năm. Cùng bà Hùynh Diệu Bích sang Mỹ theo diện cựu tù nhân chính trị. Mất tại Houston ngày 21-5-2019.

Tô Thùy Yên, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, cùng với các họa sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng, là những người nòng cốt của nhóm Sáng Tạo. Một nhóm sáng tác đã từng được biết đến với phong trào khai sinh “Thơ Tự Do”  trên văn đàn Miền Nam vào thập niên 1960.

Cả hai tập thơ Tuyển Tập Thơ Thùy Yên (1995) và Thắp Tạ (2004) đều được xuất bản ở Hoa Kỳ sau khi ông đi tỵ nạn chính trị tại quốc gia này vào năm 1993.

***

Con đường bè bạn

Phan Lạc Phúc

. . . .

Tô thùy Yên 7 tháng liền trong kiên giam tâm sự với đàn muỗi râm ran, con thằn lằn uể oải, lũ dán hôi tanh, con nhện vô tư và bức tường câm nín:

Ta khắc khoải chờ nghe

Những tiếng động của người

Tiếng động nào bất kể

Đột phá những trùng vây điếc đặc muỗi râm ran …

 

Ta nhìn theo

Mấy con thằn lằn uể oải

Lũ dán lào xào

Con nhện bỏ trống lưới giăng …

Ta nhìn lên những giòng chữ trên tường

Viết bằng gạch, bằng than và hình như bằng cả máu …

Các bạn tù Thanh Chương đọc thơ Tô Thùy Yên, Hà Thượng Nhân vanh vách. Như vậy là 7, 8 năm nay tôi chưa gặp lại các bạn mà chỉ gặp “tiếng nói” của các bạn. Tôi không có duyên gặp bạn trong tù. Có lúc năm 1979, 1980 ở trại Tân Lập (Vĩnh Phú) tôi ở K1, Thanh Tâm Tuyền ở K2, không gian chỉ cách nhau vài cây số mà không gặp được nhau bao giờ. Có lúc bà cụ thân sinh TTT từ trong Nam lặn lội ra thăm – bạn còn nhờ người đem sang cho tôi ít thuốc lào và một bài thơ tặng PLP. Nhà thơ Tự Do chủ lực của Sáng Tạo lại làm chyện lạ cho tôi một bài thất ngôn, bát cú. Tôi giữ bài thơ này như một kỷ niệm riêng. Bạn tôi lúc đó làm ở đội chăn nuôi, hằng ngày phải lên đồi gánh lá sắn về băm ra nuôi cá trắm. Đi làm qua khu ao cá xa xa, tôi có lúc nhớ bạn quá đã hú lên một tiếng để xem may ra có tiếng trả lời – Nhưng tiếng hú của tôi tan vào thinh không; cán bộ quản giáo nhìn tôi trừng mắt … Bạn tôi lúc đó chắc đang bận “bầm nát ân tình đều nhịp dao” (thơ Thanh Tâm Tuyền).

Nghe thơ các bạn, tôi vừa buồn vừa vui. Buồn là không có bạn tâm tình ở bên. Vui là chưa gặp nhưng thơ như thế chắc các bạn tôi còn khỏe ít ra về mặt tinh thần. Vui hơn nữa là nghiệp làm thơ của các bạn ở trong tình trạng “luyện ngục” như vậy mà thơ vẫn được tôn vinh. Thơ làm ra là để đọc, để cảm thong, để chuyển tải … Thơ không ai đọc, không ai nghe, không ai hiểu … thì chẳng bao lâu nó sẽ “chết trong long mộ tối”. Cho đến lúc ấy (1983) theo tôi hai bạn Tô Thùy Yên, Hà Thượng Nhân làm thơ bao nhiêu năm nay, thơ bao nhiêu người thuộc … mà các bạn chưa từng xuất bản một tập thơ nào. Như vậy là các bạn không in thơ lên giấy trắng, mực đen mà in vào tâm hồn mọi người. Không phải người làm thơ nào cũng được “tuyên dương” như thế. Hôm ấy có bài Mùa Hạn của Tô Thùy Yên rung động toàn thể an hem. Bài thơ như một bản “đại cáo” của lưu đày tù tội. Mùa hạn không riêng cho nông dân – mà mùa hạn của kiếp người.

Nơi đây khô hạn thực phẩm, khô hạn tình thương. “Lịch sử lên cơn dữ lạ thường” khiến cho “máu bung từ mỗi lỗ chân lông, cái chết tru rân giờ nguyệt tận”. Thiên nhiên cũng úa vàng khắc khổ – cây đa già râu tóc, trụi lá trơ cành cây cỏ lụi tàn, bậc hiền nhân quyên sinh ngoài động đá. Ngày tận thế đã điểm rồi chăng? Nhưng không – theo cái lẽ biến dịch thông thường – hay là theo cái vòng chu chuyển “nước đi ra biển lại mưa về nguồn” nên một ngày kia có cơn mưa tái tạo. Mưa rơi như một sự hồi sinh, mưa gột rửa đau thương, mưa làm mọc lên những nhành non lá mới, mưa là nguồn suối yêu thương chảy từ đầu non tới biển.

Mưa ôm choàng đất khóc thương mong

Mưa báo tin vui chạy khắp đồng

Mưa đuổi bắt gào reo hớn hở

Mưa mừng trẩy hội nước trăm sông …

Ông lão mù lòa ra trước hiên

Nghe mưa cũng ngước mắt nhìn lên

Má nhăn bỗng sáng hai hàng lệ

Ông hiểu ra rồi lẽ biến thiên

Người làm thơ lưu đày được lịch sử tha, một sớm trở về quê cũ. Đây là giấc mơ của người tù biệt xứ hay là câu chuyện sẽ phải xảy ra. Chưa biết được nhưng ít khi đọc xong một bài thơ mà tâm hồn con người được an ủi vỗ về như thế, được nhuần thấm một sự yêu thương đậm đà như thế:

Nhóm lên bếp lửa đêm trừ tịch

Hát với nhau vài điệu hát vui

Nâng chén uống mừng ta sống sót

Chợt nghe nồng lệ tự đâu rơi

 

Lòng ta nay vẫn lòng ta trước

Vẫn chảy về con nước thủa nào

Sợi tóc mai kia dù có rụng

Ba sinh còn để nhớ cho nhau

 

Đất trời không có chi còn mất

Ta bước ra thân đón tuổi già

Trước mắt ta còn trăm thứ việc

Sửa nhà, chăm sóc lại vườn hoa

 

Những ai hôm trước từng gây tội

Hãy lắng tâm tha lấy lỗi mình

Tự tại, thời gian chôn chính nó

Đời lên lại mãi tựa bình minh

 

Sẽ lo chẳng những cho người sống

Lo cả cho người khuất mặt kia

Quen lạ bạn thù chung giấc ngủ

Chung lời thương tiếc khóc trên bia …

Người tù trở về, sau khi đối mặt với sự khắc nghiệt của thiên nhiên, sự tàn bạo của con người đã nhận ra rằng, giòng chảy chính của cuộc đời, sự cứu rỗi của con người chính là sự yêu thương không phải là thù hận – Bình minh của cuộc sống là ở đó. Tìm ra được điều này, không phải nhờ vào tài năng của Tô Thùy Yên mà chính nhờ vào tâm hồn lớn lao (grandeur d’âme) của tác giả. Đây là bản hùng văn của một cuộc đổi đời.

Nhưng trong cuộc đọc thơ hôm ấy, nhiều người trong đó có tôi không được hoàn toàn thỏa mãn. Bài thơ quá dài, quá hay mà anh em Thanh Chương không ai thuộc được hết. Người nhớ đoạn này, người nhớ đoạn kia. Bài thơ đó đi theo tôi hoài như một tấu khúc còn dang dở (Symphonie inachevée).

Dạo đầu năm 85 được về, trên con đường bè bạn tôi có lúc đã định rẽ vô thăm nhà bạn Tô Thùy Yên. Từ Hóc Môn lên, qua chợ Gò Vấp tới một cái cầu có ống dẫn nước lớn đen to nằm dài trên đó giống như một con rồng đất rồi tới một ngã ba có những viên sỏi đỏ sậm của đá ong khô, đó là lối vào nhà Tô Thùy Yên. Từ thập niên 60 tôi đã nhiều lần đến đây bù khú với bạn. Nhưng bây giờ về, đến thăm cảnh cũ người xưa, thấy lạ. Những bụi cúc tần xanh tốt dẫn lối hai bên đường, đôi khi có những sợi tơ hồng vàng óng, vương vất bên trên … không còn nữa. Nhà cũ của Tô Thùy Yên có cây vú sữa lớn. Khu gia viên nằm trong vùng cây lá thâm u … bây giờ không thấy cây vú sữa đâu. Bất giác tôi nhớ Nguyễn Gia Thiều “Phong trần đến cả sơn khê, Tang thương đến cả hoa kia cỏ này”. Tôi ngần ngại trước sự đổi thay nên đã tới nhà mà không vào. Tôi biết bạn tôi chưa được về. Mình vô nhà hỏi thăm, có khi lại làm cho gia đình bạn thêm nghĩ ngợi lo lắng cho người vắng mặt.

Nhưng đến hồi cuối năm 85, người làm thơ biệt xứ Tô Thùy Yên được về – Lúc ấy trời đã sang thu thì phải. Bố con tôi đã phải mặc áo ấm trên con đường tỉnh lộ sào xạc heo may. Khi tôi đi cải tạo con gái út tôi mới có 5 tuổi. Khi tôi về nó đã 15 tuổi bắt đầu thiếu nữ. Các anh chị nó “vượt biên” hết cả chỉ còn nó ở lại với “mẹ cháu” đợi tôi. Khi tôi về, nó theo tôi đi chơi tha thẩn. Ở Hóc Môn nó không có bao nhiêu bạn. Nó theo tôi lên Sài Gòn chơi với Tr. T con gái Thanh Tâm Tuyền, hay “đi chợ” với chị Ch. Con gái bác Hà Thượng Nhân. Thôi thì bố chơi với bố, con chơi với con cũng là phải đạo. Chưa được gặp nhưng con tôi nó muốn gần chị G. con gái đầu của Tô Thùy Yên, học thật giỏi. Trong một xã hội xã hội chủ nghĩa (không có giai cấp) nhưng khi thi vào Đại Học có 15 thứ hạng. Ưu tiên hạng 1, 2, 3 thuộc gia đình cách mạng hay “chính sách” thì thi ba bài từ 7 điểm trở lên đã được “chiếu cố” vô Đại Học rồi. Con cái “ngụy quân” như con chúng tôi đứng hạng thứ 14 áp chót (hạng chót là gia đình phản động, phản cách mạng). Khi bố đi tù cải tạo về rồi thì lại lên được một hạng, hạng 13. Con cái ngụy quân muốn vô Đại Học phải đạt 21 điểm, gấp 3 số điểm gia đình chính sách thì mới vô Đại Học được. G. con gái đầu ông bà Tô Thùy Yên thừa điểm vào Y Khoa. MT con tôi, Tr.T con Thanh Tâm Tuyền và H. con trai Tô Thùy Yên chúng nó cùng học lớp 10. Mấy đứa nhỏ chắc đều suy nghĩ: Ở đây nếu muốn sống cho ra sống thì chỉ còn có cách làm như chị G.

Hơn 10 năm gặp lại bạn … thấy bạn già đi (tất nhiên rồi) mà chắc bạn thấy tôi cũng vậy. Hình như bạn có khuyết một vài cái răng thì phải, cái cười hơi trống vắng. Nhưng khóe mắt vẫn còn nồng ấm và bắt tay thật chặt. Tôi nói “đây là khách cũ … đến xem bạn làm được bao nhiêu việc rồi?” (Trước mắt ta còn trăm thứ việc, sửa nhà chăm sóc lại vườn hoa). Tô Thùy Yên cười cười mà nói “Hãy cứ từ từ nhưng mà bây giờ thì phải làm ngay việc này”. Anh chỉ tay vào một cuốn sách dày trước mặt. Tưởng bạn dịch sách (nhớ ngày xưa bạn có dịch thật kỹ cuốn Phận người (La condition humaine của André Malraux) nhưng khi tôi cầm sách lên xem thì đó lại là một cuốn sách Y khoa bằng tiếng Pháp. Anh nói mình về vừa đúng lúc. Phải giúp con nhỏ G … cho nó kịp học hỏi và nghiên cứu”.

Tôi có nói với bạn về bài thơ Mùa Hạn mà tôi không có đủ. Nhưng anh nói rằng bản thân anh cũng không nhớ hết. Con đồng đã thăng rồi đâu còn nhớ những gì mình đã nói ra. Nhưng bữa ấy Tô Thùy Yên đưa tôi đọc bài Ta về – bài thơ vừa mới làm xong khi thi sĩ lưu đày vừa trở về nguyên quán:

Ta về cúi mái đầu sương điểm

Nghe nặng từ tâm lượng đất trời

Cám ơn hoa đã vì ta nở

Thế giới vui từ mỗi lẻ loi

 

Ta về như lá rơi về cội

Bếp lửa nhân quần ấm tối nay

Chút rượu hồng đây xin rưới xuống

Giải oan cho cuộc biển dâu này …

Thật ra tôi đọc thơ Tô Thùy Yên đã lâu. Giữa thập niên 50 khi Sáng Tạo bộ cũ ra đời với những bài Cánh đồng, con ngựa chuyến tàu hay Thân Phận của Thi Sĩ. Lúc ấy ảnh hưởng của văn học Pháp đối với miền Nam còn nồng đậm. Đây là thời buổi của Buồn nôn (La nausée – J.P.Sartre) của Kẻ lạ (L’Etranger – A. Camus) hay Phận người (La condition humaine – André Malraux). Sự hiểu biết của tôi về văn học Pháp rất là hạn chế nhưng tôi có cảm tưởng rằng thời kỳ thập niên 50, 60 là thời kỳ xâm lăng của triết học vào văn học. Những đặc trưng thường thấy của thơ, của tiểu thuyết, của truyện ngắn đã bị xóa nhòa đi. Thay vào đó là những vấn nạn triết học hay những thắc mắc siêu hình. Để làm gì? đi đến đâu? tự do hay không tự do – phi lý hay hữu lý? Sống và nghĩ như thế nào cho phải? Người ta không đi tìm những nguyên nhân gần gũi mà đi tìm những căn do đầu tiên và cuối cùng của sự vật. Tô Thùy Yên là một người đọc sách chuyên cần. Cái ý thức trong sáng của tinh thần nhị nguyên đã phóng ra những cái nhìn chinh phục. Con ngựa (trong Cánh đồng, con ngựa, chuyến tàu) phải chăng là một cố gắng nhằm đo đạc ngoại giới.

Có đọc được thánh thư

Linh hồn tôi vẫn vậy

Tôi vẫn không thể lạy

Dù đứng trước hư vô

Đầu tôi cứng và trơn

Thượng Đế làm sao ngự

Tôi đành trốn chủ nợ

Định mệnh đòi linh hồn

Thượng Đế điềm nhiên lạ

Tôi đánh liều cười khan.

(Thân phận thi sĩ)

Bài thơ mang giọng thách thức của Nietzche – đăng quang cho một cái ta Kiêu hãnh. Đây là thời kỳ Tô Thùy yên muốn trở nên một thứ “Vương tôn miền trí tuệ”. Tôi đã cảm phục, đôi khi sợ hãi những bài thơ ấy – nhưng thành thật mà nói tôi không yêu chúng. Sự cảm nghiệm một bài thơ, theo tôi, nó tùy thuộc vào tâm cảnh của từng người. Tôi là một anh học trò nhà quê ra tỉnh, tâm hồn còn vương vấn với lũy tre xanh, đình chùa, miếu mạo, căn nhà tổ, họ hàng làng nước, bờ mương, ao cá. Dù đã cố gắng lắm tôi vẫn không làm sao hiểu được “Tha nhân là hỏa ngục” của J.P.Sartre. Tôi rất sợ mình là “khách lạ” – và điều tôi ao ước là được đến gần, được làm thân, chia sẻ với mọi người.

Cái “hội u minh” thời ấy là một phong trào. Hoàng tử bi thương hay nhà thơ bị trù ếm (poète maudit) Đinh Hùng muốn đi khỏi cuộc đời này về miền nguyên thủy: “Thèm ăn một chút hương man dại – và ngủ như loài muông thú kia”. Vũ Hoàng Chương, bậc thi bá của làng thơ tiền chiến cũng bỏ thơ Say, thơ Mây nêu lên một băn khoăn triết học:

Ta còn để lại gì không

Kìa non đá lở này sông cát bồi

Lang thang từ độ luân hồi

U minh nẻo trước xa xôi dặm về …

Tô Tùy Yên ngay từ thuở ban đầu đã nghiêng về những điều thầm lặng lớn, mưu đồ đo đạc cả vô biên “ta về tắm lại going sông cũ, truy tầm mê mỏi lý sơ nguyên – Tô Thùy Yên đã rất già khi còn trẻ. Già ở đây là già về tư tưởng, nên trong thơ của anh người ta thấy thiếu vắng sự lãng mạn, không có những nỉ non kể lể về một cuộc tình. Không có Kim Trọng, Thúy Kiều, cũng không có Paul và Virginie.

Vào khoảng giữa thập niên 60 có một việc, nhỏ thôi nhưng đã làm thay đổi Tô Thùy Yên. Anh bắt đầu đọc Đường Thi. Yên là một người ưa thích sự toàn hảo (gout du parfait). Anh không bằng lòng với những bản dịch. Yên muốn đọc thơ Đường bằng nguyên tác và Tô Thùy Yên học chữ Nho. “Học cho vui, chơi vậy mà”. Xuống Gò Vấp, thấy Tô Thùy Yên viết chữ Nho rất đẹp. Và đột nhiên tôi được đọc một số bài thơ mang phong cách nhất nguyên của Đông Phương. Đọc thơ trước đây của Yên người ta thấy phảng phất St J.Perse – hoặc Valery – bây giờ thấy Tô Thùy Yên “Quy khứ lai từ” như Đào Tiềm quay về nơi bản trạch. Bài thơ không còn vẻ kiêu hãnh của một ý thức chinh phục mà mang vẻ ngậm ngùi chấp nhận:

Tưởng tượng ta về nơi bản trạch

Bãi bùn trơ trẽn thủy triều lui

Con còng ẩn nhẫn bò quanh quẩn

Càng nhẹ tênh hênh cõi ngậm ngùi.

Tại sao lại có con còng ở đây? Con còng làm liên tưởng đến con dã tràng ngoài bờ biển. “Dã tràng xe cát biển Đông – nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì?” Phải chăng đã đến lúc Tô Thùy Yên nhận ra sự hạn chế của kiếp người, có những miền “bất khả tri” mà trí lự con người chưa với tới được. Về nơi bản trạch đối với Tô Thùy Yên có nhiều ý nghĩa. Cái nhà của Yên ở Gò Vấp là nhà từ đường bao nhiêu đời ở đấy? Cái nhà không đơn thuần là một “dụng cụ” để ở, mà nó là môt phần đời ta, là chính ta. “Cái nhà là nhà của ta – ông cố ông sơ làm ra” nên cái nhà cũng như cái vườn, cái ngõ đều là sự tích yêu thương, là những liên hệ mà ta không làm sao dứt bỏ được. Về nơi bản trạch về nơi quê nhà (phải chăng le Royaume trong l’Exil et le Royaume mà Camus mơ tưởng cũng nằm trong nghĩa đó) đã dạy ta một điều: cái mà ta tưởng nó là cái không ta (le non moi) lại chính là ta. “Mình với ta tuy hai mà một – Ta với mình tuy một mà hai”. Cái nhìn nhất nguyên nơi Tô Thùy yên đã làm cho thơ anh từ đó về sau yêu thương hơn, thấm đượm hơn nhiều.

Nhưng có lẽ những năm tù cải tạo đã giúp chúng ta nhìn rõ cuộc đời hơn. “Ví thử cuộc đời bằng phẳng cả” chúng ta chưa chắc nhận ra chuyện ấy. Những chuyện nhỏ nhặt nhưng có giá trị rất cao. Không đi tù, không thường xuyên đói khát chúng ta làm sao biết được hạt cơm nó quý như thế – không xa vắng cửa nhà, chúng ta làm sao hiểu được cái thắm thiết trong vòng tay vợ, cái âu yếm trong cái hôn con. Người tù lưu đày, ngày trở về cảm ơn trời đất, cảm ơn vợ con, cảm ơn hoa, cảm ơn lá cỏ.

Ta nhìn lá cỏ long mê mẩn

Nghĩ tới đời ràn rụa thâm ân …

Tôi đi về nhà có mang theo “Ta về”. Tôi đọc thơ bạn cho nhà tôi nghe:

Ta về như tiếng kêu đồng vọng

Rau mác lên bờ đá trổ bông

Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng

Chờ anh như biển vẫn chờ sông

 

Ta gợi thời gian sau cánh cửa

Nỗi mừng ràn rụa mắt ai sâu

Ta nghe như máu ân tình chảy

Từ kiếp nào xưa tưởng lạc nhau

 

Ta về dẫu phải đi chân đất

Khắp thế gian này để gặp em

Đau khổ riêng gì nơi gió cát

Hè nhà, bụi chuối thức thâu đêm

Đọc đến đoạn này, nhìn lên thấy nhà tôi đã nhạt nhòa nước mắt.

Cuối năm 1990, ngày thứ sáu 13 tháng 10. Ngày xấu “đi chơi cũng thiệt lọ là đi đâu”. Tôi quanh quẩn ở trong nhà. Chợt có tiếng xe Honda thắng xiết trước chiếc cầu nhỏ, bắc qua con lạch vào căn nhà Hóc Môn của tôi. Nhìn ra thấy H. con trai Tô Thùy Yên đang hấp tấp dắt xe vào. Tôi chạy ra, thấy vẻ hốt hoảng của H. nên vội hỏi “có chuyện gì vậy cháu? – “ Bố cháu vừa bị bắt rồi” – H. thảng thốt nói tiếp: “Trước khi lên xe công an, bố cháu nói nhỏ: đi báo các bác nên cháu vội chạy lên đây”. Nhà tôi bảo H. ở lại ăn cơm cái đã nhưng H. nhất định ra về “Để cháu phải đi ngay cho kịp vài nơi nữa …”

Như vậy là Mùa Hạn – Ta về thơ Tô Thùy Yên – Tâm sự với Bạch Cư Dị thơ Hà Thượng Nhân – Bài hát Tự Do – Trăng tù – thơ Thanh Tâm Tuyền, một bài từ của bạn già người viết sử Lam Giang cùng với một số bài viết của tôi đã được “phần thư” ngay chiều hôm đó. Lúc này Thanh Tâm Tuyền cũng như Hà Thượng Nhân đã HO đi Mỹ. Bạn bè thân thiết gần đây chỉ còn Tô Thùy Yên. Bây giờ bạn ta bị bắt rồi. Bao giờ bao giờ gặp bạn ta trở lại.

(Khởi Hành số 26 Tháng 12, 1998)

 

 Thơ Tô Thùy Yên, quán trọ hồn đông-phương

Nguyễn Vy Khanh

 

Quand les mythologies s’effrondent,

c’est dans la poésie que trouve refuge le divin;

peut-être même son relais

(Saint-John Perse)(1)

Từ những bài thơ đầu trên tạp chí Sáng-Tạo năm 1956-57, Tô Thùy Yên (sanh năm 1938) đã quan niệm nhà thơ là kẻ sĩ, là người chép sử, với một cái Tôi dấn thân và có trách nhiệm:

“Tôi là Tô Thùy Yên là thi sĩ là người chép sử tương lai

Vốn học hành dang dở nên đứng bờ cuộc đời ngó xuống hư vô…”. 

(Tôi, SángTạo, 11, 8-1957)

Nhà thơ tự nhận trách nhiệm, một cách nghiêm chỉnh, hết mình: “… Tôi giựt giành đổ máu với tôi / Từng chữ một /  Những tên cai ngục / Ngôn ngữ bất đồng / Với thứ linh hồn quốc cấm, / Tôi tù tội chung thân / … Bài thơ bỗng mất nửa linh hồn / Ngù ngờ ngôn ngữ ngổn ngang / (…) Để làm gì ý thức? / Tôi van nài tôi hãy xót thương tôi …”(Thi Sĩ, tr. 9, 11).

Vì sáng tạo, nhà thơ có lúc tỏ ra cương ngạnh: “… Có đọc thuộc thánh thư / Linh hồn tôi vẫn vậy / Tôi vẫn không thể lạy / Dù đứng trước hư vô… ” (Thân Phận Của Thi Sĩ). Tôi, Ta thay đổi hình như có ý nghĩa một khẳng định. Thời đầu trên Sáng-Tạo ông khẳng định Tôi, một cái Tôi hiện sinh, trí thức mới tìm thấy trên đường lần về thi ca tượng trưng. Ta đến sau đó, Ta của Chiều Trên Phá Tam Giang, của Mùa Hạn, Ta Về (Ta về như hạc vàng)! Sau 1971, thơ vương vấn những thắc mắc siêu hình: Trường Sa Hành, Bất Tận Nỗi Đời Hung Hãn Đó, Và Rồi Tất Cả Sẽ Nguôi Ngoai và các bài Quỉ Xướng Thi khác, thì cái Ta rõ nét hơn, trưỡng thành hơn trong hành trình tri thức vũ trụ và nhân sinh:

“Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn

Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ…” (tr. 85);

“Hoàng hôn xô bóng ta trên cát

Ta lớn lao và ta cô đơn …” (tr. 56).

Tôi đó du hành trong vũ trụ với một sứ mệnh nào đó: “… Câu hỏi vạn niên, lời đáp nhất thời, / Chữ nghĩa rối bời gai góc loạn / Con đường suy tưởng thật lang thang / Ngày một xa thêm Chân Lý lớn / (Như bào thai, Chân Lý lớn cư an…” (tr. 68). Nay và xưa, Tôi và Ta, thực ra trộn lẫn, hòa hợp, có khi hòa mà không đồng, như tâm hồn Việt trước phức tạp nhân thế và chiến tranh.

Thi tính ở Tô Thùy Yên biểu hiện qua những hình ảnh, những biểu tượng, ngụ ngôn, ở những tiết điệu bất ngờ độc đáo, và qua ngôn ngữ của nhà thơ. Ở ông, người đọc cảm nhận một hồn đông phương vừa làm nền vừa là điểm đến của thơ, qua những ngõ ngách thuần lý, những tư duy rất hiện đại mà cũng rất Việt Nam, một Việt Nam nhiều ngàn năm văn hóa! Thơ ông thể hiện tư duy và cảm nghiệm từ đời sống, là chính hành trình của tư duy. Thơ trở thành phương tiện để hít thở nơi bít bùng ngộp thở, ở một thời ngột ngạt bí hơi! Tư duy thơ, tư duy ngôn ngữ là tư duy giá trị, một khả năng tiếp tục trong hiện tại dù con đường lịch sử ra sao đi nữa! Nói như Aristote, thơ (poètikè) có thực hơn cả lịch sử (2). Ông tổ thi ca Hy-Lạp xác định thi ca liên hệ đến sự lên tiếng, trần thuật, hoặc nhà thơ nói, hoặc để nhân vật nói, một cách thực tế! Nhưng phải nói, như căn tính, như thực thể! Như Saint-John Perse, Friedrich Holderlin, v.v. đã làm!

Thơ Tô Thùy Yên như tâm sự ấp ủ đã lâu, tư duy đã chín, cái nhìn đã rõ, kinh kệ, triết lý và cả ca dao, tục ngữ đã mặc khải! Thành ngôn ngữ, hình ảnh, cung cách rất riêng của Tô Thùy Yên – “nên tôi làm thơ theo ý riêng tôi nghĩa là dịch thuật tâm hồn nghĩa là nói về con cháu chúng ta…” (Tôi). Khí thơ ngang tàng, tự tin nhưng thành khẩn, không tự cao. Thơ như sứ điệp, như lời tiên đoán hay nhắn nhủ của một người thấy mặt trời lặn phía trước nhưng bất lực.

Trước hết, vào thời tuổi trẻ hoạt động, Tô Thùy Yên đã đem vào thơ một số ý tưởng siêu hình về thân phận người, trước hết trong bài Cánh Đồng Con Ngựa Chuyến Tàu xuất hiện trên tạp chí Sáng-Tạosố 7, tháng 4-1956 mà bài Tôi đến sau như một hiệu đính:

“Trên cánh đồng hoang thuần một màu,

Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi

Tàu chạy mau mà qua rất lâu.

Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau.

Ngựa rượt tàu rượt tàu rượt tàu.

Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt.

Gò nổng cao rồi thung lũng sâu.

Ngựa thở hào hển, thở hào hển.

Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau.

Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn.

Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu

Cánh đồng, a!  cánh đồng sắp hết.

Tàu chạy mau càng mau càng mau.

Ngựa ngả lăn mình mướt như cỏ,

Như giữa nền nhung một vết nâu. “ (tr. 13).

Đó là trên bờ, dưới nước thì sông biển mênh mông, con người nhỏ bé, hữu hạn nhỏ nhoi. Con người nhiều cao vọng:”Chúng ta sẽ gia giáo hóa thiên nhiên / Chúng ta sẽ đồng loạt hóa Định Mệnh” (tr. 65), nhưng trước khi đến nhận thức đó, con người đi chinh phục như những nhân vật của A. Malraux trong Les conquérants mà Tô Thùy Yên đã dịch trước 1975. Người lính hải hành đến Trường Sa, mới nhận chân thực chất của mình là một đơn vị nhỏ bé trong vũ trụ to lớn và bao trùm:

“… Ta hỏi han hề Hiu Quạnh Lớn

Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ

Đảo hoang, vắng cả hồn ma quỉ.

Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên

Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh

Lên xác thân người mãi đứng yên

(…) Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế

Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?

(…) Mặt trời chiều rã rưng rưng biển

Vầng khói chim đen thảng thốt quần…”

(Trường Sa Hành, tr. 85-87)

(… Cửa thần phù dựng trường sơn sóng

Mỗi ngọn xô chìm một ước mơ…” (tr. 97)

Chiến tranh từ Trường Sơn đưa ra biển, sóng gió ngập tràn, mỗi ngọn sóng đưa con người xa dần những ước ao cuộc sống, những lý tưởng đời. Con chim lạc bạn nơi bãi Đông mù!

Nảy ra những băn khoăn siêu hình, con người là một yếu tố nhỏ nhoi của tam tài, ngũ hành, một tình cờ dịch hóa mà thành! Trong một lặng yên của vô, của phần số làm người, vô trước một tuần hoàn và vũ trụ quá đỗi lớn và bất ngờ. Có người thi sĩ lãng du về kể lại:

“Đầu tiên ta kể về im lặng

Dưới vòm trời, dưới mái tóc ta.

 (.. .) Thật ra ta có kể gì đâu.

Cuối cùng cũng vẫn là im lặng,

Im lặng trùm phô diễn mọi điều “

(Chim Bay Biển Bắc, tr. 68, 71).

Nhà thơ ý thức cái hữu hạn khi đứng trước cái vô hạn hay không thể hiểu. Nơi một không gian mênh mông và buồn u uất chạm đến hư vô, như không gian của Huy Cận trong bài Tràng Giang (và cả tậpLửa Thiêng). Người thơ như tơ, dễ vỡ dễ tan quá, mà lại mang cả cái sầu vũ trụ. Cùng thời Tô Thùy Yên có Phổ Đức và Hoài Khanh cũng có khuynh hướng đem vũ trụ vào thơ, nhưng hai người sau chưa chạm đến bề sâu tri thức!

 “… Thi sĩ, ôi, hoàng tử bị thương,

Hãy thốt giùm chúng ta lời nói chót

Như bài thai đố giữa hư không.” (tr. 33).

Thảm kịch xảy ra cho con người khi bị thai đố đặt trước nó. Tức là khi thai đố được đặt ra, khi vấn nạn trở nên to lớn, tức có sự lung lay, gãy đổ hoặc đang đứng trước vực thẳm. Hỏi tức đã có lựa chọn, sở thích hoặc phủ nhận, một cử chỉ hư vô hóa. Nói khác đi, đặt vấn nạn tức khêu gợi, lôi cuốn, kêu mời một cái gì chưa có, cả không thể có. Tô Thùy Yên đã dừng lại ở bờ vực hư vô! Mời gọi khởi hành, bước đi! Đến một tương quan với tuyệt đối!

 “.. . Đời đồng thuộc mỗi câu tra vấn.

Gió thổi chai người đứng lặng thinh.

Biển Bắc tuyệt mù con nhạn lạc

Thời gian mất trí trắng vô âm … “ (tr. 36).

Thật ra, những vấn nạn lớn nhỏ mà Tô Thùy Yên đưa ra trong thơ ông cần sự câm nín, lặng yên. Tô Thùy Yên đã nói, đã lên vần, lên nhạc điệu, đã ngoại xuất tâm hồn, đi ra, đi tới tha nhân, cả với hậu sinh, đã là một nỗ lực vô hiệu hóa cái âu lo vì thai đố cần phải có trả lời! Nhưng câu trả lời sẵn đã không thể có, và thai đố vẫn hoàn bí ẩn. Như thiên nhiên đáng được cảm ơn:

“Ta nhìn ngọn cỏ lòng mê mẩn

Nghĩ tới đời ràn rụa thâm ân”.

Chiến tranh là một thai đố lớn, làm người lính, tham dự cuộc chiến tranh khi không có lựa chọn, định mệnh của một thế hệ. Con đường đi nhận nhiệm sở thân cò, cảnh hoàng hôn mờ ảo và như đã báo hiệu sẽ dài lâu:

“Con đường đáo nhậm, xa như nhớ

Chiều mập mờ xiêu lạc dáng cò…”

Cảnh chiến trận cũng là thảm kịch nhân sinh:

“…Tiếp tế khó — đôi lần phải lục

Trên người bạn gục đạn mươi viên

Di tản khó — sâu dòi lúc nhúc

Trong vết thương người bạn nín rên

Người chết mấy ngày chưa lấy xác,

Thây sình, mặt nát, lạch mương tanh …

Sông cái nước men bờ sóng sánh.

Cồn xa cây vướng sáng mơ màng.

Áo quan phong quốc kỳ anh liệt

Niềm thiên thu đầm cỗ xe tang …”

(Qua Sông, tr. 25, 26)

Bùi Giáng bối rối ở những ngã ba tư tưởng, còn Tô Thùy Yên khi đến ngã ba đã thủ phận đi theo một lối đường hình như  không lựa chọn. Làm con ngựa phi đường xa hay thân con dế giang hồ và con chim lạc bạn đều là thái độ thủ phận không thể tránh trong những nghịch cảnh: “Tôi òa khóc khi mây chiều xuống thấp / Treo khí giới trên cành tìm hiểu những ngôi sao…”. Đành “Ta về tắm lại dòng sông cũ / Luống những bình yên kiếp dã tràng “(tr. 37).

Nhận chân bất lực, trong một hoàn cảnh lịch sử bất ổn, tự thấy bất lực không làm tròn được bổn phận tự khoác cho ở những ngày tuổi trẻ:

” … Ta gắng về sâu lòng quá vãng

Truy tầm mê mỏi lý sơ nguyên ” (tr. 38)

 “… Ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới,

Quật ngã những bức tượng, xô xập những đền đài.

Tiếng hú chạy dài suốt lịch sử

(…) Ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới,

Dựng dậy những hồn ma, dập vùi những kẻ sống.

Chúng ta hiểu rằng mọi sự bắt đầu…” (tr . 31).

Quỷ vương làm trời thời chiến tranh nhân danh, động não:

 “… Bảo xác chết làm phân bón hòa bình

Chúng nó giết người trong nhà ngoài ngõ

Chúng nó giết người như dọn rừng hoang

Một tiếng thôi tư bản hay vô sản

Không ai đứng ngoài cuộc báo thù này

Nát than tôi đường mã tấu hai phe

Tôi ngã quỵ đôi bàn tay sạch sẽ…”

(Ngoại Cuộc).

Nhìn ra nét người khốn thân nơi thù địch:

“… Vì sao ngươi tới đây?

Hỡi gã cộng quân sốt rét, đói,

Xích lời nguyền sinh Bắc, tử Nam”

Vì khi nghĩ lại thân phận mình:

“Vì sao ta tới đây?

Lòng xót xa, thân xác mỏi mòn,

Dưới mắt ngươi ta làm tên lính ngụy

(…) Ta thương ta yếu hèn.

Ta thương người khờ khạo.

Nên cả hai cùng cam phận quay cuồng,

Nên cả hai cùng mắc đường Lịch Sử,

Cùng mê sa một con đĩ thập thành”

(Chiều Trên Phá Tam Giang, tr. 75, 78).

Trong hoàn cảnh đó, thảo lư của người xưa biến thành gian nhà cỏ, trở thành một chốn về, một trạm nghĩ chân:

“Hề, ta trở lại gian nhà cỏ

Giữa cánh đồng không, bên kia sông

Trống trãi hồn ta cơn gió rã

Tiếng tàn tàn rụng suốt mênh mông

(…) Hề, ta trở lại gian nhà cỏ

Tử tội mừng ơn lịch sử tha

Ba vách, ngọn đèn xanh, bóng lẻ

Ngày qua ngày, cho hết đời ta” (tr. 39, 46)

Thời bó thân khởi đầu khi quỷ vương thắng thế cờ gian. Như kẻ chết đuối trong một trò chơi trên cạn, nhà thơ phải vào bên trong những hàng rào kẽm gai nép thân mất tất cả tự do, nhân phẩm thêm một lần, vì bên ngoài cũng không khá hơn, cũng là một nhà tù – khổ lớn hơn. Khi con người tự mạo nhận chủ nhân con người khác, những kẻ “thua trận”. Những bài Mùa Hạn, Tàu đêm, Thức Giấc Trong Biệt Giam,… “phong phú hóa” kinh nghiệm này. Nhà tù chôn cuộc đời, thân thế, màu tang tóc âm cảnh phủ trùm, vẫn ngoi lên hy vọng trở về … dương thế!

“… Ta nhặt từng trang sách rách toang

đùa ngu đã xé vứt ra đường.

Ta gom từng hạt cây luân lạc,

Mong mỏi gầy lên một địa đàng.

(…) Bao giờ ta trở về dương thế,

Sống đáng vinh danh lại kiếp người…”

(Mùa Hạn, tr. 111)

Khi di chuyển bằng tàu lửa về đêm, kinh hoàng nhận ra “Ta trở thành than, thành súc vật. / Tiếng người e cũng đã quên ngang (…). Lịch sử dường như rất vội vã / Tàu không đỗ lại các ga qua…”(Tàu đêm, tr. 119. 122). Kinh nghiệm cá nhân ở đây là những chia xẻ, có giá trị chứng tá chống khuôn mặt thú, chống tha nhân là tù ngục của nhau, chống u tối, tàn bạo,… mà lại già mồm nhân danh giải phóng, cách mạng! Bởi thế cái buồn của Tô Thùy Yên thời này không phải buồn tình, buồn cá nhân, lẻ tẻ, mà là cái buồn vô hạn, cái buồn khôn tả của không được hiểu hay kém diễn tả trước cái bí nhiệm vô cùng của bánh xe lịch sử, nhân quả. Cái buồn nương theo lịch sử, định mệnh. Nhưng sứ mệnh làm người há dễ gì quên:

” Chiều ra đồng hái rau hoang,

Nghe sầu theo gió thổi tràn mặt ta.

Ơn trời, ơn đất bao la,

Hái đi, này những xót xa kiếp người.

Cổ kim chung một mái trời,

Kinh Thi cũng có bóng người hái rau.

Lâu rồi, nhật nguyệt tiêu hao, ..

Thất phu cũng biết thẹn mình,

Góc sân, trơ mắt đứng nhìn được a?

Thất tung từ nhắm mắt ra,

Chim kêu, vượn hú, biết nhà ta đâu? …”

(Hái Rau)

Và cũng có lúc Ta Về  dù trong tan hoang, tối tăm, về “ngôi nhà hương hỏa”, bên những người thân, những cảnh tượng quen thuộc:

“… Ta về như đứa con phung phá

Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu

Mười năm, con đã già như vậy

Huống mẹ cha, đèn sắp cạn dầu

Con gẫm lại đời con thất bát,

Hứa trăm điều, một chẳng làm nên.

Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn.

Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên.

(…) Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động

 Mười năm, cổ lục đã ai ghi?

Ta về cúi mái đầu sương điểm,

Nghe nặng từ tâm lượng đất trời …” (tr. 132, 127, 128).

Nhưng không tự hào cá nhân, cái vinh ngẩng đầu cũng như cái đau là cái chung. Mười năm trầm luân trở về như từ xa xăm: “… Mười năm chớp bể mưa nguồn đó / Người thức mong buồn tận cõi xa …”. Mười năm “chết dấp”, như đã “hóa thân thành vượn cổ sơ”, “Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay”,”Mười năm, ta vẫn cứ là ta”, “con dế vẫn là con dế ấy / Hát rong bờ cỏ, giọng thân quen” (tr. 126-136)!

Nơi “thiên hạ cùng xanh mặt, trắng mắt / Nhớn nhác dòm quanh, lén cả than… ” thì làm sao chứa chấp được con người trán đã nhăn mà phẩn nộ còn chất chất? Người thì bỏ đi ra biển đẻ “xác lên bãi / Nằm dài dài như lúc chiến tranh” (tr. 163). Trở về địa ngục lớn đó may mà có lúc ra đi ngẩng mặt. Bỏ lại hết, còn chăng những nhắn nhủ thiết tha:

“Anh lên đường, cúi mặt lên đường

Giả tảng không nhìn nỗi sỉ nhục

(…) Hứa đi em,

Nghe im lặng mà sống,

Nhìn trời đất mà vui.

Hãy như người từng trải mỏi mê về

Lúc tàn khuya,

Nhà hương hỏa tối mốc.

Còn ai không, có gọi chỉ them buồn.

Thôi, chẳng tiếc túi vàng đã phung phá

Mà mừng mẩu nến chợt tìm ra…”

Anh phải đi thôi, vì “Chỗ tối tăm nằm ở phía dưới chân đèn,

Nỗi ngu muội nằm ngay trong ý thức.

Anh nhìn quanh kinh ngạc lạnh hồn:

Mọi người vẫn sống được.

Đáng tội cho anh có một cái đầu thong thống bốn bề….”

(Giã Biệt, tr. 193, 201, 208)

Từ thập niên 1970, Tô Thùy Yên vô khuôn 4 câu, 7 chữ nhưng không phải thất ngôn luật vì tự do bằng trắc và không cần đối, và ông cũng làm nhiều bài theo thể Trường ca, như để dễ suy nghĩ và dễ truyền đạt tư duy hơn thể tự do. Tư tưởng tự diệt dù ảnh hưởng Phật hay triết lý hiện sinh, cũng đã chớm mầm! Bắt đầu với tiềm thức từ bỏ phận người đến với quỷ. Quỉ Xướng Thi là chùm thơ gồm năm bài (Tưởng tượng ta về nơi bản trạch, Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai, Ba trăm năm Lịch sử làm thinh, và Bài ca lý của người cuồng sĩ và Cánh Đồng Con Ngựa Chuyến Tàu). Nhan đề Quỷ Xướng Thi được lấy từ bài thơ của Vương Ngư Dương đề trên tranh Bồ Tùng Linh (tác giả của Liêu Trai Chí Dị). Tác giả phải chăng muốn mượn tâm sự của Bồ Tùng Linh để gửi gấm tâm sự của chính mình – một tâm sự rối bời và u uất của những gã trí thức bất lực trong một xã hội đầy chiến tranh và thù hận giữa người với người. Những lúc giữa trời biển với ánh sáng ngày vẫn bị ám ảnh quỷ ma, như khi thấy những đảo Trường Sa:

“… Đảo hoang, vắng cả hồn ma quỉ

Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên

Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh

Lên xác thân người mãi đứng yên…” (tr. 85)

Chỉ mới là những tiên đoán, nghi ngại sẽ xảy ra. Nhưng khi bị cưỡng bách ra Bắc chịu “cải tạo”, nhà thơ đã thật sự gặp ma quỷ trong cái xác còm cõi của những kẻ phổ dương lý thuyết phản bội con người:

“Ở đây, địa ngục chín tầng sâu,

Cả giống nòi câm lặng gục đầu,

Cắn chết hàm răng, ứa máu mắt,

Chung xiềng nhưng chẳng dám nhìn nhau

(…) Như tên phù thủy già điên loạn,

Lỵch sử lên cơn dữ bất thường,

Treo ngược con đen trên lửa đỏ,

Quật mồ thánh đế phi tang xương…” (tr. 101, 103).

Hiền nhân cũng phải quyên sinh “từ đó hạc bay không”.

*

Những hình ảnh, biểu tượng và ngụ ngôn, nói ít để nói nhiều, nói nhiều trong hạn chế, và tinh tế cái phải nói. Tô Thùy Yên dùng thể nói quá, nói để phiền lòng người khác:

“.. Tôi thổ huyết cuồng mê như núi lửa

Thiêu hủy hình hài ăm ắp chất cô đơn

Ròi trời đất hừng đông như trứng vỡ

Tôi đã đầu thai thức dậy đỏ sơ sinh”

(Kiếp Khác).

Người đọc nghĩ đến thời tạo thiên lập địa, nghĩ đến bà Nữ Oa đội đá vá trời. Cuộc tang thương nương dâu thành biển, không gian có đổi thay nhưng hương thời gian hãy còn đó, nơi Vườn Hạ “Thời gian đứt quãng dài vô định / Như sợi dây diều băng mất tăm…” (tr. 91).

Thơ Tô Thùy Yên là thơ của một kẻ ở đời này, đời phong ba tàn tạ, sống trong một thời gian nhưng muốn vĩnh cữu với những vật và biểu tượng của ảo ảnh. Thời gian ở đây mang u hoài ngày tháng, nặng trĩu gia tài, nặng những không gian sự vật đã mất, đã tàn phai; nói đến thời gian là để cho hoài niệm sinh động lên. Thơ Tô Thùy Yên ấp ủ một hồn thơ đông-phương, thấm sâu vô não trạng, bay bổng lên khỏi đời thường (sống ở Sài-Gòn, đi hành quân, ở tiền tuyến versus hậu phương của ngườiyêu, chiến dịch, đi tù, sống phận bị bủa vây trong nhà tù lớn hay sống đời lưu vong, hội nhập,…).

Hình ảnh trăng dịu dàng bị biển đưa sóng, dù nhẹ, đưa vào bãi, trong khi người chinh phu phải lên đường:

 “Bầy ngựa chứng hàng thùy dương vó bão

Biển đưa trăng lăn vào đá tiếng ru ..”.

Trăng như một hiện diện vĩnh hằng không chạm được:

“Biết đâu chẳng có một con người

Mà ta yêu suốt đời ta thắm thiết mãi

Như một vầng trăng rời rợi cổ thi

Nhìn năm không xế lặn…” (tr. 154)

Nước lớn, tràng giang, biển ngập tràn, biển đêm, sông lớn, mưa, mưa thành mùa,… nhiều lần trở lại trong thơ Tô Thùy Yên: “Giặc đánh lớn – mùa mưa đã tới, / Mùa mưa như một trận mưa liền. / Châu thổ mang mang trời nước sát, / Hồn chừng hiu hắt nỗi không tên…” (Qua Sông, tr. 25). Hiu hắt hồn buồn một nỗi không tên, không thể rõ rệt nên không nhãn hiệu!Những hình ảnh vĩ đại ở khía cạnh sâu thẳm, lâu dài, tâm linh. Và từ biểu tượng đi đến tiên tri, Tô Thùy Yên có những cái nhìn như thấy hậu lai, trong một số hoàn cảnh, dự đoán những tai ương khổ hạnh sắp ập tới:

“… Một ngày, ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới

Ngoài biển khơi, trên lục địa,..

Sò hến, côn trùng cũng chẳng yên thân

…  Ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới,

Quật ngã những bức tượng, xô xập những đền đài

Tiếng hú chạy dài suối lịch sử

Ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới

Xé rách một kỷ nguyên, phân tán các dân tộc

để mọi người câm lặng ăn năn..”

(Ngọn Gió Lạ Thường Sẽ Thổi Tới, 31-32)

*

Thi tính ở Tô Thùy Yên biểu hiện qua hình ảnh đã nói ở phần trên, và qua ngôn ngữ riêng của nhà thơ: “Ngày lòa dậy” (tr. 211), “Khiến cả lòng ta cũng rách tưa ” (TSH), “Tưởng tượng ta về nơi bản trạch” (tr. 47), “vẫn thứ mực thông dụng / không phải cường toan” (tr. 9), “hiên ga nhỏ giọt cường toan” (Trời Mưa Đêm Xa Nhà),… Những chữ của văn hóa lục tỉnh, nhưng kỹ xảo, trang trọng: “địa ngục chín từng (“ở đây địa ngục chín từng sâu”, tr. 101). Vật và chữ dùng trong Nam: làm miết miết” (tr. 45), “con còng ẩn nhẩn bò quanh quẩn (tr 50)”,“lục bình, mây mỏi chuyến lang thang (tr. 28)”. “… lược sử ta trong bí lục nào” (tr. 24). Bài Vườn Hạ âm hưởng lục tỉnh đến thế thì thôi, cứ như hơi thơ Bình Nguyên Lộc: “… Thấp thoáng ánh đèn rây lưới lá / Đàn ai lên cổ khúc hoài lang? ” (tr. 94).

Ngôn ngữ Tô Thùy Yên là thứ ở sách người xưa, ngôn ngữ sách vở, lời lẽ người xưa, người có đọc sách thánh hiền, có học, đó không hẳn là ngôn ngữ thông thái, điêu luyện của người Bắc như nhiều người đề cập đến khi nói về ngôn ngữ thơ Tô Thùy Yên. Thành ra riêng mà cũng của chung, những chiến tranh, lý tưởng, hy vọng, v.v. Tô Thùy Yên sáng tạo thi tính, nhạc điệu,… từ vật liệu cổ có sẵn mà không cũ, như ngôn ngữ, như ý văn gia bảo chung! Cả những chỗ phát tiết của thơ, qua âm điệu, cách nhấn mạnh. Nếu so với Thanh Tâm Tuyền, ngôn ngữ Tô Thùy Yên đi vào tâm thức, ấp ủ, đa nghĩa, bắt phải trả lời, trong khi ngôn ngữ Thanh Tâm Tuyền như phán ra, như đã nói xong, nói toạc ra hết; một bên hồn đông phương, quỷ ám, ma trơi, người đẹp trong tranh, một bên lồ lộ mà gai góc,…!

Làm mới những sáo mòn, cổ điển đã quen trong những phạm trù, mạch thi ca mới. Cảnh nào dễ mà khó tả hơn cảnh đất nước khi hết … chiến tranh tháng tư 1975 với những kẻ lãnh đạo toàn trị bằng sắt máu, thế mà với ngọn thơ Tô Thùy Yên, những cảnh đọa đày trần gian chiến loạn bên Tàu thời Đỗ Phủ – qua các kiệt tác “tam lại”, “tam biệt” như Thạch Hào Lại, Vô Gia Biệt, như trở lại; trở lại một cách dồn dập, trở lại, biến một nơi đang thịnh trị tương đối trước đó thành địa ngục a tỳ:

“… Xứ khổ, thêm chi mùa thảm khốc

Than ôi! Trời đã bỏ rơi dân!

Nắng kim khí chảy, đá ran nứt,

Gió táp, rừng khô rụm, cát tràn

Sông hồ nẻ đáy, giếng vô vọng

Muông thú điên lầm lũi bỏ đàn

Dân làng lũ lượt kéo lên rú

Lùng sục đào khoai củ đã khan.

Côn trùng kiệt sức lìa hang ổ

Lên chết thiêu trên mặt đất hừng,

ác điểu ngày đêm gào xáo xác

Cơ hồ cả thế giới lâm chung…”

(Mùa Hạn, tr. 101, 102)

Những bất hạnh triền miên, không ngừng. Hết sóng gió đến bão táp mà trời thì mãi ủ mây đen! Một thời hồng hoang với tâm địa thú dữ của con người ý thức hệ đã đánh mất tư cách làm người! Cứ như Lam Sơn Thực Lục, Bình Ngô Đại Cáo! Một lối kể lể, tuần tự, liên luỹ!

Bài Đãng Tử là một bài thơ đặc biệt khác mang tính kể lể đồng thời nhắn nhủ, lo âu:

“… Bạn có nghe, này bạn có nghe

Vũ trụ miên man chuyển động đều.

Chim đã bay quanh từ vạn cổ,

Gió thật xưa, mây thật già nua.

Nên với một đời, bao biến đổi

Mà trong vô hạn có chi đâu.

(…) Bìm bịp chiều chiều kêu nước lớn.

Đi, đi đâu, chèo chống mỏi mê?

Đến ngã ba, đành theo một lối,

Tiếc ngẩn không cùng theo lối kia…” (tr. 23-24).

Tứ và ý thơ làm sống dậy con chữ: “Thức dậy đi vào gỗ đá ơi!”. Rồi những tiết điệu bất ngờ độc đáo, thí dụ những tiết điệu của nghi vấn, của những câu hỏi lớn: “Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế / Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?”(tr. 86); “Còn ở đâu làn nước giếng khơi” (tr. 106); “ở đâu còn cụm mây hư ảo” (tr. 107) Ố nghi vấn cả khi không cần nêu câu hỏi!

*

Nếu Thanh Tâm Tuyền hiện đại với âm hưởng Tây phương thì Tô Thùy Yên là dấu vết khảo cổ, nhân chủng học cho một phương đông huyền diệu, thần bí. Không khí cổ thời, ý và nhân sinh quan có vẻ của người xưa, không gian và cảm giác xưa. Sống ở thế kỷ XX, ông chụp ảnh nghệ thuật, dùng máy hiện đại hôm nay để nắm bắt những nét đẹp đông-phương vương vất đâu đó trong vũ trụ, nhất là những nét đan thanh của tâm hồn! Cái đẹp ở đây là cái đẹp của những huyễn mộng hoang đường, của một thế giới ẩn chìm trong thời gian, là mỹ cảm của tâm hồn nhà thơ đứng trước thiên nhiên, trước đời văn minh mà như hoang sơ. Cái đẹp ở trong nỗi buồn thế kỷ, ngôn ngữ thăng hoa thành mộng mị cổ thời. Cái Tôi sung mãn truyền thừa văn hóa, hãnh tiến trong hoang vu cũng như trong bức rối của thời đại.

Kẻ hậu sinh sau này muốn tìm hiểu con người và cảnh tượng đời sống Việt nửa sau thế kỷ XX không thể không mở tìm lại những trang thơ Tô Thùy Yên, như thơ Đổ Phủ khi muốn mường tượng lại cõi nhân sinh thời An-Lộc Sơn! Thơ Tô Thùy Yên gắn liền với đời sống, đặt vấn đề cho lương tâm nhân loại, cho đồng loại, và không chỉ ở một thời. Ở Tô Thùy Yên, có thể nói đến thi ca như một kinh nghiệm vừa tư duy vừa tâm linh mà cũng là một kinh nghiệm nhân sinh. Thơ ông là một khẳng định lớn của con người! Có lần ông đã nhận định rằng “thế kỷ mà chúng ta đang sống đây càng lúc càng hiển lộ một hiện tượng tách biệt trầm trọng lạ lùng giữa thơ và đời sống. Tách biệt đến mức tưởng chừng bây giờ thơ đã trở thành một công việc riêng tư hết sức chuyên môn như trong một hội kín giữa các người làm thơ với nhau thôi (…) Nếu lịch sử là nỗ lực mô tả những diễn biến cụ thể của thời gian thì thơ, một cách khái quát, là lịch sử trừu tượng của thời gian, là phần hồn thiêng của lịch sử ” (3)./.

Chú-thích:

  1. “Khi mọi thần thoại gãy đổ, chính trong thi ca là nơi thần linh trú ngụ, như một trạm nghĩ “. Qua sáng tạo, nhà thơ trở thành trung gian với thần linh – ý thứ ba của Saint John Perse trong bài diễn văn nhận giải Nobel văn chương ngày 10-12-1960.
  2. “La poésie est plus vraie que l’histoire” (La Poétique).
  3. “Bài nói chuyện của Tô Thùy Yên trong buổi ra mắt Thơ Tuyển tại Houston TX  ngày 9-3-1996”. Ngày Nay TX, 340, 1-4-1996, tr. B3.
  4. Thơ trích dẫn đánh số trang từ tập Thơ Tuyển của Tô Thùy Yên (St. Paul, MI: Tác giả xuất bản, 1995. 220 tr.). Những bài khác trích từ tạp chí Sáng-Tạo hoặc các hợp tuyển đã xuất bản. Riêng chùm thơ Quỷ Xướng Thi chỉ có ba trong năm bài được in lại trong Thơ Tuyển.

12-2001

 

Tô Thùy Yên, thi sĩ lớn của Nhóm Sáng Tạo

Viên Linh

Trong câu chuyện, tác giả Mặt Trận ở Sài Gòn và Vòng Ðai Xanh, giải Văn Chương Toàn Quốc VNCH, 1971, tin rằng Nhóm Sáng Tạo còn nhiều người vẫn đang hoạt động, chứ không phải chỉ có “ba người còn sót lại” như một tờ báo vừa mới loan tin sai. Tôi lưu ý anh rằng lớp viết báo, làm báo hiện nay còn trẻ, không có bao người đọc văn chương Việt thời trước 75, còn những người trong văn giới thời đó nay đã nhiều tuổi, trí nhớ đã ngắn đi, nếu họ có đọc Sáng Tạo, bên cạnh nhiều người mặc dù xuất hiện từ trước 75, nhưng chưa bao giờ viết Sáng Tạo, vì khi họ đặt được bước chân đầu tiên lên bến văn chương, thì con tầu Sáng Tạo đã rời ga từ năm bảy năm trước. Nhân thể, tôi cho người bạn biết: số chót của Sáng Tạo ra vào năm 1961, và Tô Thùy Yên có mặt ngay trên Sáng Tạo vào cuối năm 1956, và đăng thơ liên tục trên tờ tạp chí văn học đó. Trong tòa soạn của chúng tôi có khoảng 10 số Sáng Tạo, số nào cũng có thơ Tô Thùy Yên. Tô Thùy Yên là thi sĩ nòng cốt của Phong trào Thơ Tự Do của miền Nam, và là thi sĩ lớn của Nhóm Sáng Tạo. Tôi chỉ có khoảng 15 bài thơ đăng trên Sáng Tạo, song Tô Thùy Yên có nhiều gấp đôi. Hai bài thơ có tính tuyên ngôn của anh là bài Tôi Lên Tiếng (số 8) và bài Tôi (số 11).

Tôi Lên Tiếng

Tôi gật đầu trước mặt ái tình

Như một loài cỏ ngoan vâng lời gió dạy

Kìa máu chảy ngoài đường*

Kìa máu chảy

Tôi ra giữa công trường cất tiếng kêu oan

Nhân loại ngây thơ đời đời chịu tội

Sắt đỏ cày nhăn trán mịn màng

Lúa đầy đồng người thiếu gạo ăn

 

Chúng nó đòi thủ tiêu thi sĩ

Tôi là thi sĩ tôi yêu

Chúng ta góp tay đẩy đời đi tròn

Hỡi những người chỉ dám khóc trong giấc mơ

Tôi đáp lời bình minh tuổi trẻ

Ðược nhìn mặt trời sung sướng thay…

(Tô Thùy Yên, Sáng Tạo số 8, 5.1957 *Thi sĩ có ghi chú một câu thơ

của Pablo Neruda nhân nhắc đến “máu chảy ngoài đường.”)

 

Tôi

Tôi là Tô Thùy Yên là thi sĩ

là người chép sử tương lai

Vốn học hành dang dở nên ra đứng bờ cuộc đời

ngó xuống hư vô …

Có sống ngoài chiến khu nên rồi bỏ Việt Minh

Ðến ngợi ca cuộc đời xứ sở anh em ái tình thịnh trị

Và chỉ cất lời ngợi ca cho kẻ sành điệu muốn nghe.

(TTY, Sáng Tạo số 11 – tháng 8, 1957)

Bộ Biên Tập Sáng Tạo có ghi tên Tô Thùy Yên, bên cạnh bảy người khác, theo thứ tự abc: Doãn Quốc Sỹ, Duy Thanh, Mai Thảo, Nguyễn Sỹ Tế, Thái Tuấn, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Trần Thanh Hiệp. Anh có mặt trong các cuộc Thảo Luận Bàn Tròn quan trọng của Nhóm: Thảo luận về “Nhân vật trong tiểu thuyết,” tháng 7, 1960; “Nói chuyện về Thơ Bây Giờ,” tháng 8, 1960; “Ngôn ngữ mới trong hội họa,” và sau cùng: “Nhìn lại văn nghệ tiền chiến ở Việt Nam.” Trong cuộc thảo luận về Thơ, Tô Thùy Yên xác định: “Thơ biến cái thật thành không thật… Bất cứ nhà thơ nào cũng sử dụng và đồng thời chối nhận ngôn ngữ. Sự mới mẻ độc đáo trong thơ trái với các bộ môn khác trong văn chương là không nằm trong đề tài (đề tài trong thơ thường khi rất thông thường và được coi như hằng cửu).”

Tô Thùy Yên còn là một trường hợp đặc biệt trong Văn học Miền Nam: mặc dù có thơ đăng báo trước tuổi hai mươi nhưng anh chưa có thi phẩm, hay bất cứ một cuốn sách nào, được xuất bản trước 1975, tuy vậy, anh được coi là một tác giả, một nhà thơ quan trọng của Văn chương Miền Nam. (Anh là người Nam duy nhất trong Nhóm Sáng Tạo.) Thi phẩm đầu tay của anh được in ở hải ngoại, và do nhà xuất bản “edition lmn” (không viết hoa – là chữ đầu của ba người họ Lê, họ Mai và họ Nguyễn) in ở Ðức năm 1994. Lmn đặt trụ sở ở Bonn, vì người chủ chốt là anh Mai Vi Phúc, thuộc Nhà Việt Nam ở Frankfurt. Năm đó nhân dịp Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại mang một phái đoàn tới 9 người đi dự Ðại Hội Văn Bút Quốc Tế ở Prague, Tiếp Khắc, tôi đề nghị với Nhà Việt Nam, và được anh em đồng ý, là in 5 thi phẩm mỗi cuốn khoảng 150 trang, cho 5 thành viên chính trong đoàn, để cùng ra mắt ở Bonn, ở Frankfurt, ở Ðông Berlin và nói chuyện Thơ Miền Nam với người Việt ở Ðông Âu. Không những họ trả cho các thi sĩ bản quyền tập thơ, mỗi người còn được một vé máy bay khứ hồi Hoa Kỳ-Prague sau đó qua Ðức, Pháp, khoảng tháng 11 năm đó. Ðó là Nguyễn Sỹ Tế với Tiếng Hát Gia Trung, Cung Trầm Tưởng với Lời Viết Hai Tay, Viên Linh với Hóa Thân, Mai Vi Phúc với Viết Từ Phương Ðông và Tô Thùy Yên với Tuyển Tập Thơ. Nhưng giờ chót, Tô Thùy Yên đã không có mặt trong phái đoàn, tuy rằng tập thơ của anh vẫn được phát hành ở Ðức. Lúc ấy anh mới rời Sài Gòn sau nhiều năm bị cộng sản cầm tù trong các trại tập trung, chưa kịp có thẻ xanh, hoặc mới có thẻ xanh song không thể đi phó hội quốc tế trong tình trạng còn nhiều khó khăn. Cả các anh Nguyễn Sỹ Tế, Cung Trầm Tưởng cũng chỉ mới có thẻ xanh.

Anh Tế còn ở tù lâu nhất, khoảng 13 năm, dù chỉ là một nhà giáo, không từng phục vụ trong quân đội như hai anh Tưởng và Yên. Chúng tôi đã phải nhờ văn phòng Dân Biểu Dornan (Cộng Hòa, Calif.) can thiệp với Sở Di Trú bằng điện thoại, nên hai anh xuất ngoại được, riêng anh Yên trục trặc, mặc dù anh cũng ở Minnesota như anh Tưởng. Tập thơ của anh được anh in ở Hoa Kỳ sau đó có nhan đề hơi khác là Thơ Tuyển, dày tới 224 trang. Trong tập này có những bài tuyệt tác: Chiều Trên Phá Tam Giang, Ta Về, Trường Sa Hành. Trước khi mang cấp bậc thiếu tá ở Sài gòn, Yên đã đóng quân ở đó:

Trường Sa! Trường Sa! Ðảo chuếnh choáng!

Thăm thẳm sầu vây trăng bốn bề.

Lính thú mươi người lạ sóng nước,

Ðêm nằm còn tưởng đảo trôi đi.

 

Mùa Ðông Bắc, gió miên man thổi

Khiến cả lòng ta cũng rách tưa.

Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn

Mà Hiu Quạnh lớn cũng làm ngơ…

 

Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế.

Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?

Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ

Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời.

Tô Thùy Yên sẽ còn sót lại, có thể là sót lại tới giây phút cuối cùng của Nhóm Sáng Tạo. Thơ anh trổi bật, lóng lánh kim cương, sắc cạnh va chạm, chữ nghĩa như lân tinh nhấp nháy trong đêm giông bão khiến thế giới bên kia có thể tưởng là tín hiệu từ trần thế, hay phía sau cả trần thế, gửi cho họ. Có lẽ họ nghĩ đúng, Tô Thùy Yên thi sĩ đã gửi những tín hiệu ấy từ hơn nửa thế kỷ rồi, và rất nhiều người ở hải ngoại không nhận được. Người trần gian có thể ở xa trái đất hơn là những kẻ ở hành tinh khác.

(VL-1.2013)

 

Nói về thơ, người làm thơ và người đọc thơ

Tô Thuỳ Yên

Phải, từ bao giờ, cổ lẽ từ lúc hồn thơ bắt đầu phát sinh trong tâm thức con người, cùng với sự sáng tạo thần kỳ của tiếng nói, dường như thơ luôn luôn bị người đời trong một định kiến hết sức oan uổng cho thơ, hoặc ruồng rẫy rẻ rúng nó đến độ tưởng như nó không hề hiện hữu, hoặc lưu đầy quản thúc nó vào một cõi vô thức, hão huyền dành riêng cho một số ít tâm hồn bị nguyền rủa nào đó lui tới.

Thơ như một đứa con chẳng trông nhờ gì được của người cha mù lòa quờ quạng là đời sống không ngừng hoài vọng tìm gặp cho được một lần những giải đáp soi sáng niềm bí ẩn lớn lao đời đời bao quanh nó, ở trong nó.

Giữa đời sống và thơ, từ bao giờ dường như đã có một khoảng cách xa vời chẳng thể thu ngắn, người đọc đến với cõi thơ luôn luôn có cảm tưởng mơ hồ đã phải tạm thời tách lìa thế giới thực tại vây bủa, thơ mặc nhiên bị coi như ngày nghỉ xả hơi nào đó của trí não tù hãm, u trệ, như một khác thường đôi lúc xẩy ra của đời sống, và ý niệm như vậy về thơ tưởng cũng như là làm một điều ân sủng tử tế lắm lắm cho thơ. Nói cách khác, đời sống trong vận động miên man sinh tồn và phát triển của nó, giữa những chập chùng ngặt nghèo hỗn độn của bao nhiêu là sự kiện thực tế hiển hiện lúc nào cũng chực gây thương tổn và hủy hoại phẩm cách của con người, vâng, đời sống, trong những điều cực kỳ bi đát như vậy, dường như thường xuyên có phản ứng gần như bản năng chối nhận thơ như một đeo đẳng trì kéo phiền toái có nguy cơ phá hoại trầm trọng chính sự vận động sinh tử đó của đời sống. Nhưng chính cái phản ứng gần như bản năng chối nhận thơ đó phần nào cũng xác nhận rằng thơ luôn luôn có mặt một cách cơ hữu mật thiết ở trong đời sống, cùng với đời sống.

Tất nhiên, khoảng cách có tính tưởng chừng đó giữa đời sống và thơ chẳng phải do chính người làm thơ cố tình tạo ra như thông thường hắn vẫn bị chê trách nặng nề như đó chính là lỗi của hắn vậy. Và khoảng cách đó, cuối cung rồi cũng phải được người làm thơ, để làm tốt công việc của mình là chụp bắt hồn thơ trong cái hình trạng hoàn toàn trung thực vốn biến ảo khôn lường của nó, bất đắc dĩ chấp nhận như là điều kiện mặc nhiên của thơ.

Thơ như một điều gì đó mập mờ, hư giả, thậm chí lắm lúc còn tối tăm, bí hiểm, và do đó, không những đã vô ích mà còn bị tình nghi có hại là đằng khác. Nhưng dù thế nào đi nữa, thơ, như vừa nói qua, vẫn đời đời ở lại với loài người như một tình nhân định mệnh thắt buộc, không muốn cũng không được. Và cũng vì tính chất thoạt trông có vẻ phù phiếm vô bổ đó của thơ nhiều lúc có thể tạo thành dễ dàng một mặc cảm nặng nề nơi người làm thơ nên một số không ít những người làm thơ đã muốn dĩ thi tải đạo, làm những bài thơ giáo huấn tuyên truyền luận giải thuyết phục, để thấy mình cũng như thơ có được một mục đích lợi ích xã hội thiết thực.

“Khi người làm thơ sử dụng thơ như một công cụ cho chế độ chính trị thì đã tự mình chối bỏ danh xưng thi sĩ…

Khi làm bài thơ, phần người làm thơ tận lực cố gắng đã đành, mà cả người đọc, khi đọc bài thơ đó, cũng phải tận lực cố gắng phần mình nữa trong việc thể hiện được trọn vẹn cái hồn thơ chung chạ của cả đôi bên.”

Tất nhiên không hiếm những chế độ chính trị đã tận lực góp thêm phần tạo thành dầy đặc cái mặc cảm vô dụng đó nơi người làm thơ để dễ dàng sử dụng hắn như một công cụ cũng khá cần thiết cho chúng, và khi đã ưng chịu như vậy thì người làm thơ một cách mặc nhiên đã làm một công việc hoàn toàn khác biệt với công việc làm thơ, đã tự mình chối bỏ danh xưng thi sĩ.

Một chế độ chính trị bao giờ cũng bắt buộc phải chứng minh bằng cách này hoặc bằng cách khác. Còn thơ tự bản thân nó chẳng nhằm chứng minh bất kỳ điều gì, ngoại trừ chỉ chứng minh nó là thơ, thế thôi. Sự thiết thân gắn bó của thơ đối với con người, cái lý do tồn tại chính đáng cao cả đó của thơ sẽ phải chỉ được tìm thấy ở một nơi chốn nào khác, và nơi chốn đó là hồn thơ của chính người đọc. Điều ngộ nhận thông thường của người đời là mặc nhiên coi hồn thơ như cái phần sở đắc trời đất đã ưu ái – hay độc địa? – dành cho người làm thơ mà thôi, và hắn phải cam chịu mịt mùng cô độc vô vọng vì cái phần sở đắc ngặt nghèo riêng tư đó.

Sự thật không phải như vậy, hồn thơ luôn luôn là sở hữu chung đều của mọi con người, cả người làm thơ lẫn người đọc thơ, không phân biệt ai ai. Tất nhiên, qua thời gian chung đụng với đời sống, mỗi cá nhân hoặc giả đã đầu tư phát triển ít hay nhiều theo một cách thức nào đặc biệt của mình cái vốn liếng sẵn sàng đó, hoặc giả đã không muốn đá động sử dụng gì đến nó cả.

Nói cách khác, hồn thơ ở mỗi cá nhân lâu ngày chầy tháng khuôn thành theo hình dạng tâm tính đặc thù của cá nhân đó. Nhưng cho dù hồn thơ ở một cá nhân nào có tuyệt đối bị bỏ quên trùm lấp chăng nữa, ở cá nhân đó, hồn thơ cũng chẳng hoàn toàn tàn rụi mất biến được.

Bởi lẽ hồn thơ vĩnh viễn tàng ẩn bàng bạc trong tận cùng sâu thẳm của tâm thức con người giăng mắc mạng lưới phức tạp những xúc cảm tư duy cực kỳ tinh vi trong tương phùng chuyển hóa sinh động miên man của ngôn ngữ hàm xúc trùng trùng những huyền nhiệm bất khả tư nghị, nó trường kỳ nghi phục bất động đâu đó, để rồi trong những thoáng cơ duyên nào bất chợt nhất, nó lại xuất đầu lộ diện ngự trị, điều động con người theo những luật tắc riêng biệt vừa rộng rãi mà cũng vừa nghiêm ngặt của nó. Và kinh qua những lần chứng nghiệm thơ như vậy, con người bỗng nhận thức được như một đốn ngộ về một nghịch lý: thơ, với tất cả những gì mà người đời cho là những khuyết phế vốn dĩ của thơ, lại cũng là một phương thức nhận thức đặc biệt cùng với những phương thức nhận thức khác của con người triền miên theo đuổi công cuộc tìm kiếm những sự thật lẩn khuất chung quanh mình, ở trong mình.

Và thơ, tội nghiệp thay, cũng là đứa con nhờ vả được đã dẫn dắt người cha mù lòa đi sâu vào những cõi u ẩn huyền nhiệm tuyệt vời mà chính những đứa con sáng sủa hằng được trọng vọng khác của trí tuệ con người chẳng tài nào tiếp cận. Phải, ở những lằn ranh cuối cùng mà tôn giáo, triết học, khoa học đã phải đứng lại, thơ, vâng, chỉ có thơ, vẫn nhẹ nhàng tiến bước, xông pha, bay lượn, vùng vẫy.

Lúc đó, những lúc đó, con người chợt cảm nhận rằng mình phơi phới nhẹ nhàng như đã được giải phóng khỏi những nặng nề đè áp thường nhật, rằng mình đã thật sự sở hữu được chính mình nhiều hơn nữa, đã thật sự hòa nhập vào một đời sống có khi còn chính đáng hơn cả cái đời sống mà mình vẫn thường lầm tưởng là duy nhất chính đáng, một đời sống khác nữa không hẳn là không xác thực, một đời sống khác nữa ở ngay trong cõi sâu cùng thăm thẳm nhất của chính đời sống. Những lúc đó, con người nương thả theo thơ, sống trọn vẹn là con người với đầy đủ các tính cách kỳ diệu lạ lùng mà bình thường chưa từng nghe thấy có, tưởng chừng chẳng thể có. Bởi lẽ hồn thơ chính là cái phần u uẩn lẩn khuất mênh mông tuyệt đối của hồn người, nó chính thị là hồn người trong ý thức sau cùng hết của hồn người.

Người đọc thơ, những lúc đó, mặc nhiên trở thành thi sĩ theo định nghĩa cao cấp nhất của danh xưng: kẻ tạo dựng một thị cảm, một cách thức nhìn thấy độc đáo và cái thế giới vừa ngoại quan và cũng vừa nội quan mà chính mình đang sống. Thơ chính là một thị cảm dù được thể hiện theo kỷ luật riêng biệt của bất kỳ trường phái hay khuynh hướng thi ca nào, và nếu như bài thơ nào không truyền đạt được những khêu gợi phải có nhằm đánh thức thôi thúc được một cách mãnh liệt cái hồn thơ ẩn náu bất động nơi người đọc để hình thành một thị cảm nào đó, chắc chắn bài thơ đó là một thất bại, bài thơ đó đương nhiên không phải là thơ.

Tất nhiên, khi làm bài thơ, phần người làm thơ tận lực cố gắng đã đành, mà cả người đọc, khi đọc bài thơ đó, cũng phải tận lực cố gắng phần mình nữa trong việc thể hiện được trọn vẹn cái hồn thơ chung chạ của cả đôi bên. Một cách thông thường, con người ù lì bất động trước những quen thuộc nhàm chán nhưng lại sẵn sàng có phản ứng tức thì xô chối phủi xua những điều đầu tiên còn xa lạ ngỡ ngàng.

Người làm thơ thành công dường như bao giờ cũng phải là người vừa có vẻ là cố tri, lại vừa thật sự là sơ ngộ đối với người đọc. Đó cũng là yếu tính chung cua mọi nỗ lực sáng tạo, phải trông thấy quen quen để được đón nhận, rồi sau đó mới có thể trưng bày được những khác biệt phải có.

Trong nghệ thuật, không hề có niềm tự hào vô lối về một sự làm mới tuyệt đối. Có thể quả quyết rằng mọi sáng tạo đều phải phát xuất từ một gia sản có tính truyền thống nào đó. Mọi sáng tạo, trong giai đoạn đầu tiên ngắn ngủi thôi, là một mô phỏng, một lặp lại. Kể cả những người khai phá làm mới táo bạo nhất trong nghệ thuật cũng ít nhiều để lộ ở nơi họ những vết tích nào đó của một quá khứ xa xôi. Không có một thứ gì không có cội nguồn. Cái quá khứ xa xôi tồn đong đó chính là cốt tủy khuất ẩn của hồn người. Thơ không ở ngoài lề luật chung đó, bao giờ nó cũng khởi đi từ lớp lớp quá khứ truyền thống của ngôn ngữ.

Cũng như mọi sáng tạo khởi đầu vốn là công việc của một người đơn độc để rồi sau đó, chỉ có thể hoàn thành trọn vẹn với sự hợp tác gia công của một người khác nữa, người thưởng ngoạn. Lẽ đơn giản rõ ràng là nghệ thuật bao giờ cũng mang nặng trong bản chất của nó niềm mong mỏi chia xẻ. Cả lúc khởi đầu cũng đã là sự chia xẻ ngay trong tự thân, với chính mình, của người làm nghệ thuật.

Thế giới mà chúng ta đang sống đây càng lúc càng hiển lộ một hiện tượng tách biệt trầm trọng lạ lùng giữa thơ và đời sống. Tách biệt đến mức tưởng chừng bây giờ thơ đã trở thành một công việc riêng tư hết sức chuyên môn như trong một hội kín giữa các người làm thơ với nhau thôi. Tách biệt đến mức tưởng chừng bây giờ hồn thơ của loài người đang hồi cạn kiệt rồi vậy, nòi giống của những người làm thơ và những người đọc thơ đang lâm vào nguy cơ tuyệt diệt rồi vậy.

Trước đây trong lịch sử, cũng đã có những thời đại suy thoái cùng khốn vất vưởng của thơ, nhưng dường như chưa từng có một thời đại nào mà thơ đã bị dồn đẩy thảm thương tuyệt lộ vào một xó góc tù túng bí thở tăm tối lãng quên như trong thời đại của chúng ta. Ngày nay, số người thật sự đọc thơ càng lúc càng hiếm hơi, và người làm thơ càng lúc càng bị quy kết một cách nghiệt ngã, hoặc oan hoặc ưng, đã chẳng có đủ tài năng và cả thiện chí thực hiện mỹ mãn công việc của mình. Lý do viện dẫn thông thường làm sao thơ bây giờ khó khăn bí hiểm quá, sỗ sàng thô trọc quá, xa lạ kỳ cục quá, nó thế nào ấy, nó không còn giống như thơ nữa.

Từ những nguyên nhân nào và phần lỗi thuộc về ai, ở đây chúng ta không đề cập rốt ráo một phân tích chi li và rốt ráo. Ở đây chỉ ghi nhận là hiện có một chênh lệch rất đỗi lớn lao tưởng chừng khó thể trùng nhập được nữa giữa hai màng lưới xúc cảm tư duy đã bắt đầu khác biệt về khuôn khổ cũng như về cấu trúc của người làm thơ và người đọc thơ. Một chênh lệch như vậy đôi khi cũng được bắt gặp trong giai đoạn khởi đầu của những thời kỳ văn học nghệ thuật được canh tân nhưng nó không đến mức trầm trọng vô phương điều chỉnh như là sau đó không lâu, may mắn thay, đã điều chỉnh được, thông thường từ phía quần chúng đã có đủ thời gian kết thân thích nghi.

Khác hẳn với sự chênh lệch có tính chia lìa chẳng thể còn quay về, được ghi nhận hôm nay và được nhìn thấy như một hậu quả đương nhiên của tính gia tốc khốc liệt của lịch sử đã làm nẩy sinh tính tức thời vụn nát và tính thực tiễn đáp ứng tối thiết yếu của đời sống. Được nhìn thấy như mối đe dọa bị hủy hoại càng lúc càng trầm trọng bức bách con người. Ngôn ngữ, công cụ tư duy duy nhất của con người, thành tựu cao cả tuyệt vời của con người càng lúc càng giảm nhẹ uy thế lâu đời của nó trong đời sống, lần lượt bắt buộc phải nhường chỗ cho một ngôn ngữ khác cụ thể hơn, gọn gàng hơn, dễ nhận hơn, nhanh chóng hơn, ngôn ngữ của những dãy dãy tiếp chuyển hình ảnh tới tấp chồng chất.

Thơ bây giờ sẽ phải như thế nào đây? Có lẽ không một người làm thơ nào không trăn trở vì câu hỏi đó. Ngôn ngữ đích thực đã bị sàng sẩy giản lược vào mỗi chức năng đầu tiên thô sơ là trao đổi giao thiệp xã hội thuần túy. Phần huyền nhiệm sâu thẳm vốn ôm ấp ẩn chứa bao nhiêu là tình tự tích lũy nghìn đời của ngôn ngữ đã bị chính đời sống xã hội một cách không thương tiếc, tước bỏ, lãng quên không cần dùng tới nữa.

Nhiều thể loại văn học cáo chung. Sách vở bị truất phế. Thư viện có nguy cơ trở thành hầm mộ của những xương cốt cổ thời. Và rồi theo cái đà đó, điều gì sẽ xẩy đến với con người? Hẳn cũng chẳng khó khăn gì mà chẳng tiên cảm được điều này: đó sẽ là thời kỳ khô hạn, héo rụi khác thường của con người cằn cỗi, rã rời, thời kỳ đáng sợ nhất trong suốt dòng lịch sử nhân loại. Có lẽ vậy. Việc đánh mất cái phần trừu tượng của con người hiển nhiên sẽ dẫn đưa đến việc đánh mất toàn thể con người. Sự tắt lụi của ngôn ngữ đích thực cũng đồng nghĩa với sự tắt lụi của chất lửa tồn trữ trong phiến đá sống là con người.

Và rồi sau đó nữa thì sao? Mong mỏi thay cho con người sẽ vì niềm luyến nhớ ám ảnh day dứt khôn nguôi về chính hồn mình từ lâu lạc loài thất tán, lại phải đem thân dầu dãi vào một cuộc phiêu lưu khác nữa, một cuộc phiêu lưu chắc chắn cực kỳ gian truân để tìm gặp cho bằng được chính hồn mình giữa cảnh giới bao la trù mật thanh sắc của ngôn ngữ đích thực mà ở đó, bao giờ thơ cũng là hình dáng biểu hiện cao diệu nhất. Và như vậy, cho dù ở vào tình huống nào đi nữa, càng thách đố càng phải nỗ lực, chúng ta đã chẳng muốn để mất đi lòng tự hào được làm người, chúng ta sẽ còn tiếp tục vun dưỡng cái thần siêu đẳng của ngôn ngữ, còn tiếp tục đọc thơ, làm thơ, nếu như chúng ta còn có một phẩm giá nào đó cần phải bảo trọng. Bởi lẽ thơ chính là phần sinh lực dự trữ tối hậu mãnh liệt nhất của con người không bao giờ khứng chịu bị hủy hoại vong thân. Đó là lý do tồn tại chính đáng cao cả của thơ để cho con người cùng tồn tại với. Khoảng cách cho là có giữa đời sống và thơ sẽ chẳng còn là khoảng cách nữa nếu như hồn thơ trong con người đã thức dậy, đã hiển minh.

Thơ là con đường trải dài của thời gian, nối liền quá khứ với hiện tại nhằm hướng đến tương lai, không gián đoạn, trong nỗ lực xác nhận sự đồng nhất của hồn người toàn vẹn. Nếu lịch sử là nỗ lực mô tả những diễn biến cụ thể của thời gian thì thơ, một cách khái quát, là lịch sử trừu tượng của thời gian, là phần hồn thiêng của lịch sử. Nhìn thấy thơ như vậy mới thật sự nhìn thấy đầy đủ thơ.

(Ngày Nay Minnesota số 164, 31-3-1996)

 

Trường Sa hành của Tô Thùy Yên

Nguyễn Hưng Quốc

Trong bài “Biển Đông: Quyền lợi quốc gia và tinh thần dân tộc”, tôi có in lại trong phần chú thích, bài thơ“Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn” của Trần Đăng Khoa. Bài thơ ấy được nhắc nhở nhiều và thường xuất hiện trong các tuyển tập thơ ở Việt Nam. Nhưng thành thực mà nói, nó không hay, hoặc nếu hay, chỉ hay ở mức vừa phải. Không có gì đặc sắc. Thơ viết về biển đảo của Việt Nam, cho đến nay, hay nhất có lẽ là bài “Trường Sa Hành” của Tô Thùy Yên. Nhân lúc mọi ánh mắt đều hướng về Biển Đông, đặc biệt Hoàng Sa và Trường Sa, chúng ta cũng nên đọc lại bài thơ này.

Bài thơ có ý nghĩa lịch sử: được sáng tác vào tháng 3 năm 1974, hai tháng sau ngày Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa lúc ấy thuộc Việt Nam Cộng Hòa – là một dấu mốc đáng nhớ. Nó lại có ý nghĩa chính trị: nối liền quá khứ với hiện tại, miền Nam lúc trước và cả nước sau này, vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, những người lính ngày xưa và những người còn tha thiết đối với vận mệnh của đất nước bây giờ. Đặc biệt, nó có giá trị thẩm mỹ: ngay cả khi gạt bỏ hết hai ý nghĩa trên, “Trường Sa Hành”, tự nó, là một bài thơ hay. Đủ hay để thách thức không những thời gian mà còn cả những âm mưu vùi dập tàn bạo của nhà cầm quyền Việt Nam kể từ năm 1975 đến nay.

Xin nói một chút về Tô Thùy Yên: Theo tôi, ông là một trong những nhà thơ lớn nhất của miền Nam trong giai đoạn 1954-75, hơn nữa, cũng là một trong những nhà thơ lớn nhất của Việt Nam nói chung trong cả nửa sau thế kỷ 20.

Thơ ông có một số đặc điểm đáng chú ý.

Một, Tô Thùy Yên viết ít và xuất bản rất muộn: Tập thơ đầu tay của ông, Thơ tuyển, gồm 37 bài, được xuất bản lần đầu năm 1995 (1), tức khoảng 40 năm sau khi ông có thơ đăng báo, tính trung bình mỗi năm ông làm chưa tới một bài. Vậy mà, ngay từ trước 1975, ông đã nổi tiếng và được nhiều người đánh giá rất cao.

Hai, nét nổi bật nhất trong phong cách thơ Tô Thùy Yên là sự giao thoa: thứ nhất, giao thoa giữa cái cũ và cái mới, giữa truyền thống và cách tân. Đó hẳn là một sự kết hợp rất nhiều người mong muốn. Nhưng không phải ai cũng làm được. Ngay cả Thanh Tâm Tuyền dù từng tuyên bố, trong bài “Một bài thơ”: “không đa đa siêu thực / thẳng thắn / khởi từ ca dao sang tự do”nhưng thơ ông vẫn nghiêng hẳn về phía hiện đại hơn truyền thống. Ở nhiều người khác cũng thế: hoặc nghiêng bên này hoặc lệch về phía bên kia.

Chỉ ở Tô Thùy Yên, người ta mới thấy được sự cân bằng. Cũng xin nói thêm: Ở đây, tôi chỉ ghi nhận một đặc điểm chứ không phải đánh giá. Thứ hai, sự giao thoa giữa cảm xúc và tư tưởng: từ cảm xúc đến hình tượng trong thơ ông đều thấp thoáng chút màu sắc siêu hình với những nghĩ ngợi về cuộc sống và về con người; nói chuyện với ai và về cái gì, với ông, dường như cũng là một cuộc trò chuyện với hư không, với cái mênh mông của trời đất và với cái vô tận của thời gian. Có lúc ông như một Trần Tử Ngang lạc loài ở thời hiện đại. Hai sự giao thoa ấy làm cho thơ Tô Thùy Yên vừa quen vừa lạ, vừa bình dị vừa sâu sắc, vừa rất dễ đọc vừa thấp thoáng rất nhiều bí ẩn, vừa sáng sủa vừa thăm thẳm đến không cùng.

Bài “Trường Sa hành” dưới đây có thể được xem như một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Tô Thùy Yên. Tiêu biểu về thể thơ: Mặc dù Tô Thùy Yên thử nghiệm khá nhiều hình thức, từ lục bát đến tự do, nhưng thể thơ tạo nên phong cách đặc thù và thể hiện cái tài hoa cao ngất của ông, theo tôi, là thể bảy chữ: sau năm 1954, không có nhà thơ Việt Nam nào có nhiều bài thơ bảy chữ hay bằng ông.

Tiêu biểu về tư tưởng: vẫn là một cái “hữu hạn” khao khát hỏi han “Hiu Quạnh Lớn”. Tiêu biểu về nghệ thuật xây dựng hình tượng: Vẫn là những vật bình thường, nhưng dưới ngòi bút của ông, bao giờ cũng có vẻ gì như khốc liệt, từ “sóng thiên cổ khóc” đến “biển tang chế”, từ“đám cây bật gốc chờ tan xác” đến cảnh “trùng dương khóc trắng trời”, từ “mặt trời chiều rã rưng rưng biển” đến “vầng khói chim đen thảng thốt quần”.

Tiêu biểu trong cách liên tưởng: Dùng tâm lý để đo lường khoảng cách không gian (“Bốn trăm hải lý nhớ không tới”), dùng cảnh vật trong không gian để nghĩ đến thời gian (“Thời gian kết đá mốc u tịch”), và dùng thời gian để nói đến những sự “nhỏ nhoi” và những “nỗi tả tơi”.

Tiêu biểu trong ngôn ngữ: Lúc nào cũng thật nhiều hình dung từ và hình dung từ nào cũng mạnh và cũng gắt. Đảo thì “chếch choáng”, gió thì hoặc “miên man thổi” hoặc “thổi trùng điệp”, lòng thì “rách tưa”, khóc cười thì “như tự bạo hành”, mây đỏ thì đỏ đến “thảm thê”; nắng thì “chói chang như giũa”, còn ánh sáng thì “vang lừng điệu múa điên”.

Tất cả đều mang dấu ấn của Tô Thùy Yên. Không lẫn với ai khác.

 

*

TRƯỜNG SA HÀNH

Toujours il y eut cette clameur,

Toujours il y eut cette fureur…

Saint John Perse

(Exil)

 

Trường Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh choáng!

Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề

Lính thú mươi người lạ sóng nước

Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi

 

Mùa Đông Bắc, gió miên man thổi

Khiến cả lòng ta cũng rách tưa

Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh Lớn

Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ

 

Đảo hoang, vắng cả hồn ma quỉ

Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên

Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh

Lên xác thân người mãi đứng yên

 

Bốn trăm hải lý nhớ không tới

Ta khóc cười như tự bạo hành

Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục

Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh

 

Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế

Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?

Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ

Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời

 

Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt

Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi

Đám cây bật gốc chờ tan xác

Có hối ra đời chẳng chọn nơi?

 

Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng

Những cụm rong óng ả bập bềnh

Như những tầng buồn lay động mãi

Dưới hồn ta tịch mịch long lanh

 

Mặt trời chiều rã rưng rưng biển

Vầng khói chim đen thảng thốt quần

Kinh động đất trời như cháy đảo

Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân

 

Ta ngồi bên đống lửa man rợ

Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi

Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp

Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi

 

Chú em hãy hát, hát thật lớn

Những điệu vui, bất kể điệu nào

Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ

Cho mái đầu ta chớ cúi sâu

 

Ai hét trong lòng ta mỗi lúc

Như người bị bức tử canh khuya

Xé toang từng mảnh đời tê điếng

Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê

 

Ta nói với từng tinh tú một

Hằng đêm, tất cả chuyện trong lòng

Bãi lân tinh thức, âm u sáng

Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng

 

Đất liền, ta gọi, nghe ta không?

Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng

Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc

Con chim động giấc gào cô đơn

 

Ngày. Ngày trắng chói chang như giũa

Ánh sáng vang lừng điệu múa điên

Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ

Kêu dòn như tiếng nứt hoa niên

 

Ôi! lũ cây gầy ven bãi sụp

Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh

Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã

Hay đến ngày bờ tái tạo xanh

 

San hô mọc tủa thêm cành nhánh

Những nỗi niềm kia cũng mãn khai

Thời gian kết đá mốc u tịch

Ta lấy làm bia tưởng niệm Người

3-1974

 

Chú thích:

 

(1) Tập thơ này, sau đó, đã được phổ biến

dưới ấn bản điện tử trên Talawas

 

 

Ngựa phi đường xa

Đặng Tiến

Năm 1992 qua Ba Lê, tôi đã gặp lại Đặng Tiến, một bạn văn từ năm 1960, khi anh

viết phê bình sách cho tờ Tin Sách, và tôi làm Thư ký Tòa soạn tờ Điện Ảnh, cả

hai tờ cùng của một chủ nhiệm Nguyễn Ngọc Linh, tòa soạn đặt ở khu chợ Cầu

Ông Lãnh, Sài gòn. Lúc sau chúng tôi cùng viết cho Bách Khoa của anh Lê Ngộ

Châu, Văn của anh Trần Phong Giao, cho đến khi Đặng Tiến đi Pháp, vào năm

1966. Từ đó thế giới của chúng tôi chia cách bằng một con sông Thương. Đặng

Tiến hiện dạy Pháp văn trong một trường Trung học Pháp ở Orleans, nơi tôi đã

ghé thăm, và dạy Văn chương Việt Nam cho Đại học Paris 7. Gần đây, anh phụ

trách chương trình Văn học Nghệ thuật Việt Nam cho đài BBC, phát thanh mỗi

tuần một lần. Anh là nhà văn hiện viết cho các báo ở hai bên lục địa, cả trong và

ngoài nước. Bài về nhà thơ Tô Thùy Yện dưới đây, là một trong những bài điển

hình về lối viết sâu sắc của Đặng Tiến, mặc dù anh nói bài viết chưa hoàn tất thì

bị phân tâm vì cái tang Bùi Giáng. Anh gửi bài này cho Khởi Hành từ Orleans,

sửa thêm khi đang ở Bỉ. V.L.

 

***

Tô Thùy Yên đến với văn học trên “Cánh đồng Con ngựa Chuyến tàu”, bài thơ làm năm 1956, đăng trên báo Sáng Tạo thời đó và được độc giả hoan nghênh ngay, nhất là trong giới thanh niên, học sinh. Thời ấy sinh viên chưa nhiều, quần chúng văn chương còn thưa thớt, một thế hệ độc giả mới đang chớm thành hình. Với thời gian nhìn lại, bài thơ có thể xem là một sự kiện văn học vì lời thơ tân kỳ, ý thơ mới lạ, không giống một bài thơ nào khác trước kia mà đã được người đọc không chuyên môn văn học yêu thích ngay. Chuyện hiếm, vì công chúng Việt Nam nói chung là thủ cựu.

Chuyện đẹp, vì bài thơ của tác giả 18 tuổi đi thẳng đến độc giả 18 tuổi.

Ngày nay Tô Thùy Yên là tác giả danh tiếng. Bài thơ thanh xuân được những lớp phù sa bồi thêm nhiều ý nghĩa mới.

Trên cánh đồng hoang thuần một màu,

Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi

Tàu chạy mau mà qua rất lâu.

Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau.

Ngựa rượt tàu rượt tàu rượt tàu.

(…) Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn.

Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu.

(…) Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ,

Chấm giữa nền nhung một vết nâu.

(Tô Thùy Yên, Thơ Tuyển, tr 13)

Cánh đồng, con ngựa ở đây khác với những hình ảnh trong thơ cổ, tranh Đường, tranh Tống, ngược lại phần nào đó, gợi lên nền “văn hóa đồng hoang” của Nga La Tư thời cổ đại. Chuyến tàu – nôm na là xe lửa – là biểu tượng văn minh cơ khí và hiện đại. Cuộc va chạm lớn lao giữa hai nền văn minh đông phương thảo mộc và tây phương cơ giới đã được nhà văn Phạm Văn Ký, 1910- 1992, vẽ lại trong tiểu thuyếtMất nơi trú ẩn (Perdre la Demeure, Gallimard, 1961, giải thuởng Hàn Lâm Viện Pháp), mô tả cảnh xây dựng con đường sắt tại Nhật Bản vào thế kỷ XIX. Ngày nay, với  tậpTHƠ TUYỂN (1) ghi tắt TT, của Tô Thùy Yên, con tàu còn mang nhiều ý nghĩa khác, như hình ảnh của lịch sử, dân tộc và loài người, tàn khốc và vô tâm:

Tàu đi, khoan xoáy sâu đêm thép,

Tiếng nghiến ghê người, thác lửa sa.

Lịch sử dường như rất vội vã,

Tàu không đỗ lại các ga qua.

(Tàu Đêm, 1980 , TT, tr 122)

Bài thơ làm trong thời gian học tập cải tạo miệt Nghệ Tĩnh; con tàu chở những người tù lưu xứ (tr 121), từ một  sự vật cụ thể, mang thêm nội hàm tượng trưng rộng lớn trong thế giới Tô Thùy Yên:

Thời đại đang đi từng mảng lớn

Rào rào những cụm khói miên man

( TT, tr 125)

Trên đường lịch sử sắt tuôn mau” (tr 120) con tàu đối lập với ngựa; ngựa là hình ảnh loài người trong thân phận cá nhân, trong một thế hệ, một dân tộc hay thời đại trước tiến hóa. Sức người có hạn rượt theo bánh xe lịch sử, vô hạn và vô định,  vì lý tưởng chính đáng, vì những say mê cuồng nhiệt và mù quáng, vì “duy ý chí”, vì hoang tưởng hay chỉ là nạn nhân trong một hoàn cảnh. Cho đến khi “ gục đầu, gục đầu’

Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ,

Chấm giữa nền nhung một vết nâu.

Ngựa nâu là màu ngựa thường, có khi là ngựa thồ, không phải là bạch câu, ô truy hay xích thố. Ngựa của Kim Trọng trắng tựa “tuyết in”, chấm trên nền cỏ thanh minh như một đóa hoa lê; ngựa của chinh phu cũng”tuyết in” nổi bật dưới chiến bào “đỏ tựa ráng pha”. Ngựa của Vân Tiên đen tuyền, lấp lánh dưới kim khôi và siêu bạc rạng ngời giữa trận tiền. Ngựa của Tô Lang chỉ có “lớp áo” nâu sòng, màu của số phận dân quê, nói được là màu “dân tộc” cày sâu cuốc bẫm, hay cửa chùa vắng lặng. Khi thua cuộc, con ngựa -con người- chỉ để lại một “vết nâu”.

Nâu như một giọt máu khô.

Thơ, và nghệ thuật nói rộng ra, là những giọt máu đang khô, hay đã khô, trên nền mãi mãi non xanh của ngôn ngữ loài người.

Cuộc đời như thế đấy.

THƠ TUYỂN của Tô Thùy Yên bắt đầu bằng một câu trần trụi, trong bài nhan đề Thi Sĩ làm năm 1960, có thể xem như là tuyên ngôn. Thơ, thơ ai cũng vậy, bao giờ cũng vậy, là Lời, lẫn với Đời. Khác nhau ở tỷ lệ: đời ít lời nhiều, hay ngược lại. Ở Tô Thùy Yên đời và lời cân phân.

Câu thơ dù bay bổng, nợ đời, tình đời vẫn nặng chĩu.

Thơ nhẹ cánh, mà đời nặng gánh. Nói “đời” là mơ hồ, thậm chí hàm hồ. Đời nào, đời ai, đời những ai? Đời tênh hênh thì thơ cũng tô hô. Ngày xưa Xuân Diệu tự xem như con chim “ngứa cổ hát chơi”, lại thêm “hát vô ích thế mà chim vỡ cổ”. Tô Thùy Yên không làm thơ để mà chơi.

Tôi giành giựt đổ máu với tôi

Từng chữ một

(Thi sĩ, TT, tr 9)

Người xưa kể lại giai thoại “thôi xao”, nhẹ nhàng như việc “đẩy cửa dưới trăng, tăng xao nguyệt hạ môn”, ( chuyện nhà thơ Giả Đảo đời Đường ) không “đổ máu” như Tô Thùy Yên. Lê Đạt nói về nỗi vất vả trong lao động chữ nghĩa có dùng hình ảnh “phu chữ”; Tô Hoài, trong bài viết đùa thân mật, diễn nôm là “cu ly chữ”.  Tôi có dịp hỏi ý kiến Lê Đạt, anh trả lời: hiểu như thế không sai, nhưng cục bộ, “phu” còn có nghĩa là “đại phu”, hay “đại trượng phu” theo Mạnh Tử. Đây là lời nói riêng, không phải là ý kiến.

Tô Lang không chơi chữ nước đôi kiểu ấy: “đổ máu” là đổ máu, chỉ có một nghĩa, dĩ nhiên là nghĩa bóng. Đọc thơ Tô Thùy Yên, cũng không nên đọc để mà chơi. Tác giả kén chọn người đọc và cách đọc, có lẽ vì thế mà 40 năm sau khi có thơ thường xuyên đăng báo, anh mới cho xuất bản một tập THƠ TUYỂN. Viết về anh có phần khó; không phải ở khâu bình giải khen chê, mà ở mức độ đồng cảm. Tôi viết bài này là do yêu cầu của độc giả, chủ yếu vì lí do tâm cảm và đồng cảm, xem từng chữ của Tô Thùy Yên như những giọt máu. Ví dụ con ngựa nâu là giọt máu mới đông. Cũng trong bài tuyên ngôn Thi sĩ:

Bài thơ lọt vào người như kẻ trộm

Âm thầm

Vơ vét sạch vô tư

( TT, tr 10)

Như vậy đơn vị thơ Tô Thùy Yên không phải ở câu thơ, như thường lệ, mà là bài thơ có khi khá dài, thường trên một trăm câu, và từng bài thơ một, phải đặt lại vào toàn thể tập thơ mới đúng vị trí và ý nghĩa của nó. Trích dẫn từng câu, từng đoạn, dù tiêu biểu, là việc cực chẳng đã. Đọc toàn tập, chúng ta nhận thấy thơ của Tô Thùy Yên không có tuổi, cho dù mang nhiều âm vang của lịch sử, trong một giai đoạn chiến tranh, đổi đời và tù đày khốc liệt.

Bây giờ ta đã già như tuyết

Già vô âm vọng

Già thâm u

Bây giờ ta trẻ như hừng đông

Trẻ như tiếng reo

Trẻ bất tử.

Ta ca ngợi những điều vô ích nhất,

Như tình yêu, cuộc đời, sợi tóc cỏ.

(Chim Bay Biển Bắc, 1972,  TT, tr 69)

Chàng thanh niên 18 tuổi, khi kể chuyện Con ngựa Chuyến tàu đã là một tâm hồn già; con người ngũ tuần vừa ra khỏi trại cải tạo sau nhiều năm lưu xứ với “mái đầu sương điểm”.

Ta về một bóng trên đường lớn,

Thơ chẳng ai đề vạt áo phai

(Câu  mở đầu bài Ta về, 1985, TT,  tr 126)

Bài tuyên ngôn “Thi sĩ” làm 1960 đã có những câu:

Những tên cai ngục

Ngôn ngữ bất đồng.

Với thứ linh hồn quốc cấm,

Tôi tù tội chung thân

( TT, tr 9)

Trong một bài thơ  đề tặng Thụy Vũ, ghi 7-1972 đăng báo Văn (Sài Gòn) số 208 ngày 15-8-1972:

Ôi những rặng cao su thẳng lối ngay hàng

Ôi những rặng cây mang án tử hình treo

(Bất tận nỗi đời hung hãn đó, tr 58)

Lại còn bài này nữa cùng thời 1972:

Sống trên đời chuyện ghê gớm quá,

Vậy mà ta sống, có kỳ không ?

Nước mắt ta tuôn khi nghĩ tới

Những người đã chết, chết như rơm..

Hề, ta trở  lại gian nhà cỏ

Sống tàn đời kẻ sĩ tàn mùa

Trên dốc thời gian hòn đá tuột

Lăn dài kinh động cả hư vô

Hề, ta trở lại gian nhà cỏ

Tử tội mừng ơn lịch sử tha

Ba vách, ngọn đèn xanh, bóng lẻ

Ngày qua ngày, cho hết đời ta …

(  Bài: Hề, ta trở lại gian nhà cỏ, TT,  tr 43- 45-46)

Tử tội mừng ơn lịch sử tha“! Bài thơ ghi thời điểm sáng tác: tháng 7-1972. Tôi ngờ ngợ tác giả nhớ nhầm, thơ in nhầm ngày tháng chăng? Tôi (vớ vẩn) đi kiểm soát lại thì thấy đúng, bài thơ đăng trên báo Văn, Sài Gòn số 208 đã dẫn, thời đó,  có ghi rõ: làm ngày 11-7-1972.

Cùng với bài Tưởng tượng ta về nơi bản trạch,  lời thơ bi tráng tuyệt diễm:

Ta bằng lòng phận que diêm tắt,

Chỉ giận sao mồi lửa cháy suông.

Thôi nói, bởi còn chi để nói,

Núi xa, chim giục giã hoàng hôn.

 

Tưởng tượng ta về nơi bản trạch,

Áo phơi xanh phới nhánh đào hồng.

Mùa xuân bay múa trên trời biếc,

Ta búng văng tàn thuốc xuống sông

(Báo Văn, tr 61, Thơ Tuyển tr 51)

Que diêm tắt mà vẫn phơi phới đào hồng, trên cõi đời này, chỉ có Tô Thùy Yên! Niềm hạo nhiên đó, Tô Quân còn gọi là: “cái có nơi ta” trong bài Chim Bay Biển Bắc đã dẫn, làm  ngày 4.8.1972.

Đừng loạn tâm, đừng loạn tâm

Cuối chặng hành trình quay đảo nhất

Cả thảy sẽ an nhiên

Trong trật tự hằng hằng của vũ trụ

A! Loài người thăng tiến được bao xa?

Trời đất phồng lên cơn giận dữ

Thổi trận mưa rơm, Cõi Tạm mù

(Văn số 208, tr 91,  Thơ Tuyển  tr 70)

Trước đó, bài Đãng Tử,1971 có ghi tiền đề: (epigraphe)

Ngày kia trở lại Ngôi Nhà Lớn

Lòng những bằng lòng một kiếp chơi.

( Báo Văn, số 190, TT, tr 23)

Mười năm lưu đày, thêm những lần bị bắt đi bắt lại, âu cũng chỉ là một kiếp chơi! Nắm bắt được điều đó, mới hiểu thấu bài Ta về (1985) nổi tiếng về sau, được nhiều người trích dẫn, không phải lúc nào cũng  với hảo ý văn nghệ.

Gần đây và hiện nay, về mặt văn hóa, trong nước đang thảo luận dài dòng về đề tài: truyền thống và hiện đại; dân tộc và thế giới; cái riêng trong cõi chung… Ý hướng tốt: muốn liên minh cái nọ với cái kia, điều hòa cuộc sống dân tộc trong một thế giới đang bước đi những bước khổng lồ.

Thực tế văn hóa, nghệ thuật không rắc rối như vậy. Người nghệ sĩ làm thơ, vẽ tranh một cách hồn nhiên muốn sao làm vậy, rồi tác phẩm của họ nó ra sao còn tùy; dân tộc hay hiện đại là do người xem người đọc. Nếu rung cảm chân thành và sâu sắc thì phải mang đủ hai yếu tố, với phần liều lượng khác nhau.

Nói rằng điều hòa truyền thống với hịện đại, ngày nay trở thành một khẩu hiệu, một cách chào hàng trong thị trường văn hóa. Trong thâm tâm người sản xuất đã có hậu ý đối lập: làm sao cho có bản sắc dân tộc mà vẫn hiện đại; làm sao theo kịp các trào lưu của thế giới mà vẫn giữ truyền thống. Hai chữ “mà vẫn” có tính cách lãnh đạo và tham lam. Mà lãnh đạo và tham lam là phi văn hóa. Người nghệ sĩ chân chính,  dù cho bề ngoài phải chịu  ức thúc, nhưng trong đáy tâm hồn, trong cõi thâm sâu của sáng tạo, họ là những cá nhân tự do sống và sáng tác với “cái có trong ta” như chữ nghĩa Tô Thùy Yên.

Con người nô lệ, vụ lợi và xu thời, giỏi lắm là nghệ nhân hay văn công. Trong thực tế sáng tạo, dân tộc và hiện đại là một đơn vị bất khả phân. Nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân, trong một tác phẩm mới in, đã nói chí lí và dũng cảm: “cái khẩu hiệu Dân tộc Hiện đại của văn nghệ chúng ta trong nhiều năm nay là một mệnh đề thiếu chính xác và hoàn chỉnh ngay ở mặt tu từ (…) khẩu hiệu này thiếu cái hàm ý nhân loại trong truyền thống” (tr 58). Trong một bài khác, anh nói thêm “ Cũng vậy đối với nghệ thuật bản sắc dân tộc và tính toàn cầu phải được hiểu là một”.(tr 73).

Cần nêu lên tiền đề này trước khi đề cập đến đề tài cục bộ: Tô Thùy Yên, dân tộc và hiện đại, đặt một trường hợp riêng lẻ trong cuộc thảo luận chung của đất nước – dù rằng cuộc thảo luận khập khiểng. Nói khác đi, vấn đề không đặt ra với tôi; với tôi chỉ có thân xác những bài thơ ngoài thời gian và vô quốc tịch; nó là thơ Tô Thùy Yên thế thôi, không dân tộc hiện đại gì ráo. Nhưng với người đọc – người đọc báo chẳng hạn, người viết có nhiệm vụ (và hạnh phúc) phải cập nhật hóa bài viết, trong bối cảnh lý luận rộng lớn hơn, hiện hành trên đất nước.

Tô Thùy Yên đến với văn học Việt Nam ở một giai đọan mới, mở ra tại miền Nam khoảng 1955-1956. Anh là thanh niên trí thức, đọc nhiều sách báo nước ngoài, trên một mảnh đất mở vào “Thế giới tự do” thì dĩ nhiên tâm hồn và trước tác cũng phải hiện đại: câu thơ, nhịp thơ, hình ảnh, ý tứ trong thơ Tô Thùy Yên minh chứng điều đó, chúng ta không cần đồ họa lôi thôi. Cái chính là làm nổi bật tính dân tộc trong thơ Tô Thùy Yên, đã đưa thơ anh đến với một nhân loại muôn đời,vượt qua hàng rào “hiện đại”.

Trong số những nhà thơ đương thời, có lẽ Tô Thùy Yên là người sử dụng nhiều ca dao nhất. Lưu Trọng Lư, một trong những người phát động thơ mới, thuộc nhiều ca dao, hay nhắc đến những màu sắc dân tộc, nhưng ít khi đưa ca dao vào thơ. Thanh Thâm Tuyền  sành ca dao, nhưng không sử dụng, thậm chí có thể nói thơ Thanh Thâm Tuyền là một thi loại phản-ca-dao. Tô Thùy Yên, ngược lại ưa dùng lời ăn tiếng nói dân gian; nếu không thuộc tục ngữ, ca dao, người đọc có khi không hiểu anh nói gì. Ví dụ bài thơ mới làm cuối 1993, để Giã Biệt, “từ bỏ căn nhà, từ bỏ quê hương” lên phi cơ biệt xứ:

Anh ra đi

Bứt ruột mà đi (a)

Như đã một lần cũng bứt ruột

Đi những mười năm tưởng chẳng còn về

Máu chảy không cầm như nước theo sông

Thành phố của anh

Nhục nhằn duyên cưỡng ép (b)

Cay đắng phận rau răm (c)

Tim lay lắt chập chờn nỗi đợi

Mòn mỏi nén nhang khuya (d)

Buổi trở lại, trèo lên cây bưởi cũ (e)

Trông thấy nhau, thương chỉ để mà thương (f)

Đôi bông đó thôi thì em hãy giữ (g)

Tưởng tình xưa

Xin bỏ lỗi cho anh

Anh ra đi

Một lần nữa ra đi

Một lần nữa bứt ruột

Thương người ở lại

Thương như mưa (h)

( TT, tr 203)

………………………..

  1. Đưa tay mà bứt ngọn ngò

Thương em đứt ruột, giả đò ngó lơ

  1. Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên
  2. Cay đắng phận nghèo (mùi đời)

(thành ngữ).

Gió đưa cây cải về trời

Rau răm ở lại chịu lời đắng cay.

  1. Anh buồn còn chỗ thở than

Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya

  1. Trèo lên cây bưởi hái hoa
  2. Cây cao bóng ngã qua rào

Trông cho thấy mặt không chào cũng thương.

  1. Một mai thiếp có xa chàng

Đôi bông thiếp trả, đôi vàng thiếp xin.

  1. Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.

Dĩ nhiên là còn nhiều câu khác mà tôi không biết, như “máu chảy không cầm” tôi nhớ mang máng đâu đó, không tường tận. Muốn tìm ra nhiều điển cố dân gian trong một bài thơ như vậy, phải lần  lên đến  Quốc âm Thi Tập của Nguyễn Trãi, thế kỷ thứ XV.

Có những giao hưởng tài hoa và thi vị, trong lời hẹn một ngày về Vườn hạ

Ăn trái chín cây mùa hạ trước

Thấy nhành ớt động bóng chim quen

( TT , tr 91)

Muốn đi vào tâm tư tác giả, ta cần biết:

– Chim chuyền bụi ớt líu lo

Tình thương quân tử ốm o gầy mòn

– Chim quyên ăn trái nhãn lồng

Thia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi

Trong bài Ta về , 1985:

Đêm buồn, ai nữa đứng bờ ao

Khóc người, ta khóc ta rơi rụng

( TT, tr 135)

Câu trên gợi lên cảnh “ đêm khuya ra đứng bờ ao” mà ai cũng nhận ra, nhưng không gian bờ ao kết hợp với “rụng” nhắc lại một câu ca dao khác và gợi ra tâm trạng hờn tủi của người về

Thiếu chi cam rim hường rim  anh không chuộng

Anh đi tìm trái khế rụng bờ ao.

Một bài khác còn nhắc tới cây khế dung dị nhưng tuyệt đẹp:

Ta nhớ lắm

Khu vườn xưa, cây khế tím mùa hoa

Có khi Tô Thùy Yên sử dụng nguyên si một câu ca dao:

Thôi, em tiếc thêm chi cái sợi dây dài

Để đến nỗi ngồi hoài bên giếng cạn ?

( TT, tr 150)

Nguyên câu văn ca dao, hóm mà sâu :

Tưởng giếng sâu em(anh) nối sợi dây dài,

Ai ngờ giếng cạn em(anh) tiếc hoài sợi dây.

Bài Mùa Hạ làm trong trại học tập Nghệ Tĩnh, trực tiếp nhắc nhở nội dung dân gian của một hình ảnh.

Ngày nghỉ về vườn thăm họ ngoại

Lòng như con sáo trong ca dao

( TT, tr 108)

Con sáo là hình tượng tự do: “con sáo sổ lồng sáo bay”. Vương vấn đâu đó ít nhiều cay đắng, khi nhớ đến câu trước: “Ai đem con sáo sang sông,” so với tình huống của người dân miền Nam đi học tập cải tạo “ bên kia sông”. Cùng trong trang đó:

Em mặc bà ba ra bến nước,

Đưa tay khỏa nhẹ nhớ thương nào,

Đến nay lòng ấy còn xao gợn…

Mùa trái cây nào hái tặng nhau .

(TT, tr 108)

Ngoài “mùa trái cây” gợi nhớ đời sống Miệt Vườn, chữ “bà ba” là đặc tính của  Nam Bộ , nhưng không xuất hiện nhiều trong thơ. Thường thường ta chỉ thấy “áo lụa Hà Đông” hay là:

Yêu nhau gói trọn hồn trong áo

Nhớ nhau từ trong tà lụa bay

Đinh Hùng

Võ Phiến thời đó (1972) đã nhiều lần luận về cái áo dài tha thướt; sau này, ra nước ngoài, anh mới nhớ đến cái áo bà ba. Tô Thùy Yên trong những câu thơ uyên bác, không ngại dùng những từ dân dã, Nam Bộ như cười bung (tr 59), lá bung phơi (tr 111), bung nở (tr 212), tiếng hò mời dzô dzô (tr 47), quên ngang (tr 119). Những lời lẻ dân gian được sử dụng uyên bác:

Tôi gầy yên lặng với âm thanh (TT, tr 10)

Ngọn cây, ô, đã giát hoàng hôn ( TT,tr 43)

Ngoài ra còn có một số hình ảnh lấy từ ở đời sống hàng ngày, ở tuổi thơ nông thôn, từ tàu chuối lưa thưa đến hoa khế tím, con còng, con dế, đến chim bói cá, cá thia lia, những trò chơi trẻ con như cút bắt, “xu thảy hết… đồng cái thua buồn cũng liệng sông” (tr 95) ; với những kỷ niệm sắc bén:

Ai ngắt dùm anh cây cỏ sướt

Làm đôi gà đá, đá ăn cười

(TT, tr 92)

Gà đá, ở đây là những chùm cỏ cú, làm trò chơi của trẻ nghèo ở nông thôn.

Kỷ niệm thơ ngây, lần xen vào những câu thơ hào hoa

Con chim lạc bạn kêu trời rộng,

Hồn chết trôi miền dạ lý hương.

(TT, tr 94)

Trong từ vựng, đặc sắc trong ngôn ngữ thơ Việt là giá trị những hư từ, như liên từ, giới từ, những công cụ cú pháp không có nội dung riêng, trái với thơ chữ Hán nặng về thực tế và né tránh hư từ. Thơ Tô Thùy Yên cô đúc và có phong thái cổ thi nên cũng ưu đãi thực từ, nhưng hư từ trong thơ anh lại rất đắc vị:

Ta về cúi mái đầu sương điểm

Nghe nặng từ tâm lượng đất trời

Cảm ơn hoa đã vì ta nở

Thế giới vui từ mỗi lẻ loi

(Ta Về,  TT, tr128)

Đọan thơ này thường được trích dẫn vì nội dung lịch sử và nhân đạo, triết học.  “Hoa đã vì ta nở” nhắc đến câu thơ vua Trần Thánh Tông,1240-1290, trong bài Vườn xuân nhớ người cũ:

Vạn tử thiên hồng không lạn mạn,

Xuân hoa như hứa, vị thùy khai ?.

ĐT tạm dịch :

Muôn hồng ngàn tía suông đua sắc,

Hoa nở, vì ai  vẫn  nở nhiều ?

Nhưng đừng quên giá trị của nó về mặt thi pháp, cách sử dụng các hư từ “vì”, “từ”, và cách ngắt nhịp huê dạng “ từ mỗi”  trong câu thơ.

Nói chuyện thơ, chúng tôi nghĩ nên ưu tiên cho các vấn đề về thi pháp, từ pháp, âm pháp, nói chung là ngôn ngữ. Dĩ nhiên nội dung của tác phẩm là quan trọng. Trong thời Tô Thùy Yên, lịch sử dân tộc để lại nhiều hình ảnh sâu đậm, quá khuôn khổ của một bài báo.

Vậy xin khất độc giả đến một dịp khác.

Paris, 22.10.1998. Điều chỉnh, 6-12-2009.

(1)   Tô Thùy Yên, THƠ TUYỂN. Tác giả xuất bản, Minnesota, Hoa Kỳ 1995. Thơ trích từ đấy.

(2)   Thái Bá Vân, TIẾP XÚC VỚI HỘI HỌA, nxb VIỆN MỸ THUẬT, Hà nội, 1998, chỉ in 400 cuốn, ai đọc ai không? Đến hôm nay, 2009, chưa thấy tái bản.

 

Tô Thùy Yên, thời gian, tồn tại, cô đơn và đá

Thụy Khuê

Hành giả của cô đơn, Tô Thùy Yên đáp chuyến tốc hành “cánh đồng con ngựa chuyến tàu”, năm 56, vào vòng khác biệt của thời gian, nghiền nát hình hài, đập tan bão tố, giã vụn tâm tư, biến tất cả thành hư vô, trừ đá: Đá ở lại. Đá ở lại, trong ánh tàn dư, khiến cho thời gian, đá và con người trở thành tương quan tồn tại.

Trên cánh đồng hoang thuần một mầu

Trên cánh đồng hoang dài đến nỗi

Tàu chạy mau mà qua rất lâu

Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau

Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu.

Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt

Gò nổng cao rồi thung lũng sâu.

Ngựa thở hào hển, tở hào hển.

Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau.

Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn.

Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu.

Cánh đồng, a! Cánh đồng sắp hết.

Tàu chạy mau, càng mau, càng mau.

Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ,

Chấm giữa nền nhung một vết nâu.

(Cánh Đồng Con Ngựa Chuyến Tàu, tháng 4-1956)

Ý niệm “chạy đua” lạ lắm. Mà đây không phải là cuộc chạy đua tầm thường giữa phường tục tử. Đây là cuộc chạy đua giữa ba “kẻ” không phải người, không cùng “giống”: Cánh đồng (đất và cỏ) vừa là một tĩnh thể bất biến (đất), vừa là một sinh thể lụi tàn (cỏ). Ngựa thuộc loài tử kiếp (mortel), cố rượt theo con tàu, guồng máy vô tri, vô kiếp. Tô Thùy Yên đã đoạn tuyệt với quá khứ thơ tiền chiến bằng cuộc đua này, một cuộc đua rất cô hồn, siêu thực và có thật. “Chúng” chạy đi đâu? Chạy vào không gian và thời gian, mịt mùng vô tận. Ngựa chạy mau, tàu càng mau hơn. Vân tốc (thời gian) càng gia tăng, cánh đồng (không gian) càng “dãn” ra như thể hai cái biển gian ấy cùng nhập bọn một lúc, điều mà Phạm Duy rất ngại: đừng cho không gian đụng thời gian (Thương tình ca).

Như thế, ý thức thời gian gia nhập lãnh phận Tô Thùy Yên ngay từ đầu, “thời gian” vào thơ như một nhận thức về sự tồn tại xuyên qua thời gian.

Ở ông, thời gian phát động những câu thơ rất sâu và rất mạnh:

“Thời gian” rũ trắng xương làm nhớ . . . .

“Thời gian” gia tốc thảm thê thay . . . .

“Thời gian” đứt quãng dài vô định . . . .

“Thời gian” mất trí trắng vô âm . . . .

Lục lại “thời gian” kiếm chính mình . . . .

Thăm thẳm trưa “thời gian” chết xanh . . . .

Hồn “thời gian” phất phơ lưới nhện

Thời gian đứt quãng là một nhận thức cô cùng sâu, dẫn đến những đớn đau khác: thời gian rũ trắng xương làm nhớ, thời gian mất trí, thời gian gia tốc, thời gian chết xanh, hồn thời gian phất phơ lưới nhện … và trong cái biển thời gian dữ dằn, tàn khốc ấy, có kẻ đi lục lại thời gian kiếm chính mình, thì quả là cao đạo.

*

Cùng với Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên đem ý thức về bản ngã, về nỗi hoang tưởng của con người vào thi ca những năm 60, với một phong cách khác.

Ở Thanh Tâm Tuyền, con đường ý thức được vẽ trên cấu trúc gián đoạn, tượng trưng mạch đứt của thời gian.

Đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi

Em bé quàng khăn đỏ ơi

Này một con chó sói

(Tôi Không Còn Cô Độc)

Ở mỗi tích tắc, Thanh Tâm Tuyền chụp một bức ảnh và dàn trải chúng bên nhau.

Ba hình ảnh “đêm ngã xuống”“em bé quàng khăn đỏ” và “con chó sói” rời rạc, không có gì liên lạc với nhau, cả ba xuất hiện cùng một lúc thành một bức tranh “siêu thực lập thể”.

Ở Tô Thùy Yên, ý thức hoang tưởng xuất hiện dưới dạng cổ điển và liên tục. Tô Thùy Yên không phá cách trong hình thức mà phá cách trong tư tưởng:

Thời gian đứt quãng dài vô định

Như sợi dây diều băng mất tăm.

Lòng anh thảng thốt, sông chao song

Kỷ niệm buông tay, rú ngất chìm.

(Vườn Hạ)

Cách tạo hình siêu thực gắn với ý thức về bản ngã, về sự đứt quãng của thời gian, được Tô Thùy Yên nhào nặn nhuần nhuyễn trong một cấu trúc liên tục: Thời gian đứt quãng dài vô định như sợi dây diều băng mất tăm, lòng anh thảng thốt, sông chao sóng đến đây vẫn là một “chuỗi thơ” hiền lành theo lối cũ, bỗng “kỷ niệm buông tay, rú ngất chìm”, từ đâu rớt xuống khiến người đọc thảng thốt, giật mình kịp thấy nỗi hoang mang, hoang tưởng. Trễ rồi. Hắn đã nhập cuộc. Vào cõi thơ Tô Thùy Yên, vào cõi hoang tưởng của chính mình, với những hình ảnh cực kỳ phức loạn: “nằm nghe tóc rụng”, “chiều hôm nhìn lửa nhớ tiền thân”, “con rạch đen nồng như máu chết”, “mắt người sâu vời vợi ẩm hơi chiều”, “đất bạc màu đi, đất bạc màu”.

Đi từ những nghiệm sinh về sự tồn tại và thời gian, rất Heidegger ấy, thơ Tô Thùy Yên đớn đau và sâu sắc, ông tạo ra một mẫu cô đơn hành giả, có khả năng đi ngược thời gian, suốt đời tìm lại chính mình, đằng vân trong một vũ trụ đau thương, ô nhiễm những lừa lọc, tội tù và chết chóc:

Nao nao mường tượng bóng mình

Mịt mùng cõi tới, u minh tiếng rền

Xuống đò, đời đã bỏ quên

Xuống sông nước lớn trào lên mắt ngời.

(Qua Sông)

Những chyến đi tuyệt vọng chỉ kéo dài thêm, lâu thêm, nỗi khắc khoải của cô đơn:

Năm tháng nhúng hoàng hôn

Đến rã rời thể xác

Tôi đã thấy mất mát

Tất cả trừ cô đơn.

 

Cuộc sống nhiễm lầm than

Nằm liệt trên buồn bã

Thượng đế điềm nhiên lạ

Tôi đánh liều cười khan

(Thân Phận Của Thi Sĩ)

Nhưng nói gì, làm gì rồi cũng thế thôi, cũng thừa thôi. Bởi từ lâu, người đãng tử ấy đã biết rằng:

Chim đã bay quanh từ vạn cổ

Gió thật xưa, mây thật già nua.

(Đãng Tử)

*

Với đá, Ngô Thừa Ân bắt đầu Tây Du Ký, Tôn Ngộ Không là con khỉ đá. Tào Tuyết Cần mở Hồng Lâu Mộng bằng đá, Giả Bảo Ngọc là hậu thân của hòn đá dưới núi Thanh Ngạnh. Luận Ngữ, Tam Tự Kinh … trong Văn Miếu tại Trường An cũng khắc trên bia đá. Rút cục chỉ có đá còn lại. Đá ở lại. Đá ở lại sau khi tất cả những ánh tàn dư khác đều đã trôi đi, biến đi:

Trên dốc thời gian, hòn đá tuột

Lăn dài khinh động cả hư vô

(Hề, Ta Trở Lại Gian Nhà Cỏ)

Tiếng kêu đá lở long thiên cổ

Cát loạn muôn trùng xóa dấu chôn

(Góa Phụ)

Đá là thể xác của vĩnh cửu. Nhưng đá cũng lại muôn kiếp cô đơn. Đá không có bạn. Đá không nói. Không có thông ngôn. Đá đợi ngàn năm. Đá là nỗi đợi vô tận.

Nữ Oa góp nhặt những hòn đá lớn, ngoan cường nhất để vá lại bầu trời thương khuyết, nứt nẻ, tật nguyền. Với sự tính toán tỉ mỉ, Nữ Oa cho rằng: Phải cần đến hàng vạn năm mới kiếm được 36.500 hòn đá lớn để lấp kín vết thương của bầu trời. Bà chuẩn bị được 36.501 hòn đá, nhưng lại chỉ cần có 36.500. Hòn đá duy nhất, bé nhất còn sót lại bị bà bỏ quên trên núi Thanh Ngạnh.

Về tâm sự đứa con út của Nữ Oa, Tào Tuyết Cần viết: “Đá khát vọng lên trời, nhưng bầu trời bao la rộng lớn lại vứt bỏ nó. Đá muốn xuống với đất nhưng năm tháng dằng dặc qua đi, mòn mỏi đợi chờ vẫn không có cơ may để nó được đặt chân lên bàn cờ huyền bí trên mặt đất.”Nhà văn muốn giải thích cái nhân duyên của đá. Không được lên trời, không chôn xuống đất. Đá hóa thân thành: Giả Bảo Ngọc. Đứa con út của Nữ Oa, chẳng qua là con người bị kết án chung thân di chuyển, lủng lẳng giữa thời gian và không gian một chiều đi duy nhất: Tiến về cõi Không. Dẫm lên lầm than, tang tóc, cô đơn, phi lý, nguyền rủa, căm thù, lắng nghe những chuyện trần thế thất thiệt. Thân phận đợi chờ, di biến, trơ đá ấy, Tô Thùy Yên đã viết được, như một định mệnh, một vinh dự lầm than của kiếp người, như một định nghĩa của cô đơn, của con người, lửng lơ trong cõi vô chung, vô thủy:

Con chim bói cá trong tàn tối

Soi vĩnh hằng xanh rợn mặt hồ

Hư ảnh lờn rờn tụ tán tụ

Hoài công không định nổi chân như

 

Trái đất thì buồn như xác rỗng

Ta thì như gió, tuyệt bơ vơ,

Trăm năm, cửa khép hờ mưa nắng …

Mãi chẳng ai về qua gọi cho.

 

Ta đợi nghe chừng thiên cổ mỏi

Hàng hàng thân trụ đứng hư hao

Hoàng hôn, thần thánh bưng mặt khóc

Ta chẳng buồn thăm hỏi tại sao

 

Ôi đá địa đầu vần vụ mộng

Ai xưa qua yểm lại tình sầu

Thời gian rủ trắng xương làm nhớ

Gió cát không nguôi khóc dãi dầu.

(Nỗi Đợi)

 

Ý thức về đá làm lạnh thơ, giá băng những câu thơ tha thiết nhất:

Từng chút vỗ về, từng chút một

Em tạt vào anh rồi rút đi …

Thương tích chẳng lành chan muối xót

Bào sâu thân đá, nước tay ghì

(Hải Phận)

Và với lạnh băng ấy, nhà thơ đi vào hành trình ý thức, tìm lại chính mình:

Một sáng ta về qua bãi sụp

Thấy tàn tro váng biết là ta.

(Nỗi Đợi)

*

Ở Tô Thùy Yên, còn một con người nữa trong đó chất hành giả, ý niệm quân tử và hào hung nhào nặn thành một tâm hồn “tráng sĩ” hiện đại. Hình ảnh này rất được quần chúng (di tản) ngưỡng mộ. Giọng thơ quan hoài, biên tái, mang hào khí của người (anh hùng) bại trận, bất khuất. Coi nhẹ tù đày. Xem thường gian khổ. Kể chuyện mười năm lao cải nhẹ như lông.

Bài Ta Về được phổ biến ngay khi Tô Thùy Yên còn ở trong nước như một bài ca ngất ngưởng của người tù cải tạo, cao ngạo trở về, với cái ta khinh mạn và ngạo nghễ:

Ta về một bóng trên đường lớn

Thơ chẳng ai đề vạt áo phai …

Sao vẫn nghe đau mềm phế phủ?

Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay.

 

Vĩnh biệt ta – mười năm chết dấp

Chốn rừng thiêng ỉm tiếng nghìn thu

Mười năm, mặt xạm soi khe nước

Ta hóa thân thành vượn cổ sơ.

 

Ta về qua những truông cùng phá

Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may

Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ,

Nghe tàn cát bụi tháng năm bay

. . . .

(Ta Về)

Nhiều người cho Ta Về, Chiều Trên Phá Tam Giang, Trường Sa Hành … là những bài thơ tiêu biểu Tô Thùy Yên, có lẽ tiêu biểu thơ chính khí, chính luận thì đúng hơn. Bài Ta về, như có ý tái tạo một chính nghĩa, môt chí khí cho người bại trận, xướng lên cái căn cước của miền Nam, tấm lòng “rộng lượng” của người tù lao cải, sẵn sàng tha thứ cho những kẻ đã hành hạ, đày đọa mình.

Nhưng dường như thơ hay không cần chính nghĩa, không cần bày tỏ. Lão Tử có nói đến tính “vô ích” của các sự xướng danh. Vô danh mới là Đạo. Đạo thường ẩn. Đạo vốn mộc mạc, không có tên. Không có tên nên mới có khả năng biến hóa. Thơ hay không lộ. Mà lại ngại những hình ảnh cliché, sáo mòn như thơ đề vạt áo, niềm đau phế phủ, chốn rừng thiêng, tiếng nghìn thu, truông cùng phá, hóa thân thành vượn … Những nỗi đau thật không hợp với tạng chữ lấp lánh láng diện, như thể đám tang không mặc áo màu.

Cho nên những câu thơ như:

Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn

Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ.

trong Trường Sa Hành, dù được ca tụng, e rằng chúng cũng rất xa với nỗi quạnh hiu dù rất lớn của nhà thơ và của con người.

*

Ở Tô Thùy Yên, cô đơn, hiu quạnh và thất phận âm ỷ dưới những câu thơ khác không viết hoa, khiêm tốn hơn, tinh tế hơn và ít được chú ý hơn.

Dường như nỗi đau đã đến với Tô Thùy Yên từ rất sớm, từ những ngày đầu chiến tranh, nỗi đau đời, bắt gặp một đêm qua bắc Vàm Cống:

Đêm qua bắc Vàm Cống,

Mối sầu như nước sông,

Chảy hoài mà chẳng cạn,

Cuốn phăng kiếp bềnh bồng.

. . . .

Tôi châm điếu thuốc nữa

Đốt tàn thêm tháng năm

Chiếc bắc xa dần bến

Đời xa dần tuổi xanh

 

Nước tách nguồn về biển

Sầu lại chảy về hồn

Khi tôi vuốt lấy mặt

Nghe bàn tay trống trơn

 

Đây là một trong những bài thơ lọt vào người như kẻ trộm như lời Tô Thùy Yên. Chính cái khẽ khàng, cái nhỏ nhẹ ấy mới thấm và đau, nó là những sợi thần kinh của cảm giác. Không hề có những chữ “lớn” mà mối sầu vẫn lớn. Một thời gian gian dối: Đốt tàm thêm tháng năm. Một trống vắng âm thầm xâm lấn, cô đơn nạo sát hồn người: Khi tôi vuốt lấy mặt, nghe bàn tay trống trơn. Thơ đã tìm được tần sóng của những ngõ vắng, những lối lạc của tâm hồn; thơ mở những cửa kín, phát lộ những nỗi đau dấu sâu trong tim người.

Bài Vườn Hạ, lạnh lung chăng lên phận số con người, những kiếp mỏng manh như những sợi diều, bị bắt làm con tin cho một mẹ mìn thời gian luôn luôn bất trắc phản bội chỉ chờ dịp là quất ngựa truy phong:

Thời gian đứt quãng dài vô định

Như sợi dây diều băng mất tăm

Lòng anh thảng thốt, sông chao song

Kỷ niệm buông tay rú ngất chìm.

 

Ai ngắt dùm anh cây cỏ sướt

Làm đôi gà đá, đá ăn cười

Mùa hè đi khuất kêu không lại

Bãi mía điêu tàn gốc cháy thui.

 

Trời cao mỏi mắt, chòm mây bạc

Thăm thẳm trưa, thời gian chết xanh.

Ngoài cõi chói chang hư áo múa

Dường như ai gọi ấu danh anh.

 

Hàng cây đứng bóng ôm tròn gốc

Đất ẩm vương hương, cỏ trở màu

Ai cúi soi mương rong khỏa mặt

Thấy hồn mùa cũ đọng xanh xao.

(Vườn Hạ)

Một mối ‘sầu” mới dấy lên, không phải sầu tiền chiến, sầu lãng mạn Lưu Trọng Lư, Huy Cận. Sầu Tô Thùy Yên mang tính chất nội tại, sầu hiện sinh, sầu sống, sầu hôm nay, sầu tự bản thân lan ra vũ trụ “lòng anh thảng thốt sông chao sóng” khác với sầu hôm qua, “sóng cuộn tràng giang buồn điệp điệp” (Huy Cận). Sầu mới xuất phát từ người, làm chao đảo thiên nhiên, khác với sầu cũ: thiên nhiên gây thương cảm trong lòng người.

Ở cõi sầu mới, con người làm chủ tình cảm và tình thế, vũ trũ bị nhân hóa (việc nhân hóa này rất khác với nhân cách hóa trong thơ lãng mạn: phất phơ hồn của bông hường, Xuân Diệu) như: Trời cao mỏi mắt chòm mây bạc: trời, mây ở đây là người, chứ không bị ví là người như bong hường của Xuân Diệu.

Thăm thẳm trưa thời gian chết xanh, ngoài cõi chói chang hư ảo múa, hàng cây đứng bóng ôm tròn gốc, đất ẩm vương hương cỏ trổ màu …: thời gian, hư ảo, hàng cây, đất, cỏ … đều là người, và người lại biến thành vật ảo, thành bóng ma của chính mình:

Ai cúi soi mương rong khỏa mặt

Thấy hồn mùa cũ đọng xanh xao.

Những rung động mới này xuất phát từ những nghiệm sinh về tồn tại và thời gian, hợp với cách tạo hình siêu thực, tạo thành ”nỗi đau hôm nay”, một nỗi đau xâm thẳng vào bản thể, dày vò tâm thức, cực kỳ nhức nhối (khác hẳn với nỗi đau lãng mạn êm dịu thời tiền chiến), tạo nên những hình ảnh thầm lặng mà vô cùng chua xót như mùa hè đi khuất kêu không lại, thăm thẳm trưa thời gian chết xanh, thấy hồn mùa cũ đọng xanh xao … Nơi Tô Thùy Yên, có tồn tại nào qua mắt được thời gian? Tồn tại và thời gian ẩn kiếp trong nhau: Không biết ai phụ ai? Ai lấn át ai? Ai chết trước ai?

Hải Phận, một bài thơ nhỏ với mối sầu lớn. Tô Thùy Yên dựng hải phận tình yêu trong hải phận người. Vừa chia cắt, vừa gần gụi như biển và cát, như nước và đá. Ảo tưởng gần xa, hợp tan, sáng tối, tuy một mà hai, giao nhau tạo nên một mối sầu non trẻ luôn luôn bắt đầu, luôn luôn trở lại:

Như một con sò giữa chiếc vỏ

Chúng ta cuộn trốn trong tình yêu

Như đôi dã tràng không biết mỏi

Chúng ta khởi sự lại mối sầu

 

Từng chút vỗ về từng chút một

Em tạt vào anh rồi rút đi

Thương tích chẳng lành chan muối xót

Bào sâu thân đá, nước tay ghì.

Người lính trong hải phận cũng nhập nhằng, khiêm tốn. Ở đây không có khí hạo nhiên, không có lời hào sảng mà chỉ là những tích tụ đau thương, nhục cảm, tìm đến đối tượng yêu đương như một cõi sống, cõi về, cõi hải đăng sáng diệu:

Anh sống làm quen cùng cái chết

Liếm lấy mặn mà trên đau thương

Chìm mãi xuống em và mất tích

Như mặt trời rã trong nước loang.

 

Vị thần mun hải đăng trơ trọi

Trừng mỏi con mắt ngó không gian

Em trở về em chờ biến đổi

Trở về em như kim chỉ nam.

(Hải Phận)

Sau này, nếu tất cả nhân gian đã bị thời gian cuốn đi, ý thức cô đơn nơi Tô Thùy Yên sẽ còn dội lại như một âm thừa tưởng lạc đến muôn sau. Và những gia tốc vận hành của nhà thơ, ngược thời gian, tìm về tiền thân, rồi cũng sẽ được lưu lại như một thử nghiệm tư tưởng.

May ra, trong một mùa hạn nào đó, Tô Thùy Yên sẽ tìm thấy:

Ở đâu còn cụm mây hư ảo

Bay tự ngàn năm trắng cổ thi

Tưởng tượng ta gom vào hiện kiếp

Trọn luân hồi ấy, một lần đi.

Paris tháng 10/1998
(Trích Sóng Từ Trường II, Thụy Khuê, nxb Văn Nghệ, 1998)

 

Thi sĩ, kẻ nhuốm bệnh thời khí trước tiên và khỏi bệnh sau cùng

Phan Nhiên Hạo thực hiện

Phan Nhiên Hạo (PNH): Trước 1975, anh là nhà thơ nổi tiếng, sống giữa lòng sinh hoạt văn chương miền Nam. Theo anh, những đặc điểm nổi bật của thơ miền Nam trước 1975 là gì? 
Tô Thùy Yên (TTY): Thú thật, tôi đã phải ngần ngừ trước câu hỏi này. Trình bày những đặc điểm dù là những đặc điểm nổi bật của thơ trong cả một thời kỳ quả là việc làm không quen của một người không phải là một nhà chuyên môn nghiên cứu văn học với đầy đủ tài liệu, thống kê. Bởi miền Nam trước 1975 có nhiều bài thơ đặc sắc, nhiều thi sĩ có tài, mỗi bài thơ, một không khí, mỗi thi sĩ, một phong cách. Nên trình bày tóm lược như vậy, do chủ quan và qua hồi tưởng, chắc sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót có thể là trầm trọng. Nhưng đã được hỏi đến, thôi thì thấy sao, nhớ gì, nói nấy vậy.

Theo tôi, thơ miền Nam trước 1975, so với thơ của những thời kỳ trước đó, nhìn chung, đã đi sát hơn với thời đại mà nó phát sinh, đã biểu hiện đầy đủ hơn, trung tín hơn thực tế của thời đại đó. Ở đây, để tránh mọi hiểu lầm, tôi xin nói ra bên lề một chút về ý niệm thực tế trong thơ. Thực tế biểu hiện trong thơ, theo chỗ hiểu của tôi, không nhất thiết phải là một thực tế biểu hiện theo lề lối của chủ nghĩa tả chân xã hội mà là một thực tế gần như không cụ thể hẳn, một thực tế thường nặng phần tinh thần hơn mà tôi mạo muội gọi là thực tế tinh ròng, một thực tế không bắt buộc phải pha tạp bận bịu với những chi tiết râu ria của đời thường. Một bài thơ có tính thời đại nhiều khi đã chẳng hề nói đến những gì đang xảy ra trước ngõ nhà thi sĩ, mà lại nói về những chuyện tận đâu đâu. Tính thời đại của một bài thơ quan yếu ở tình ý, thần hồn của bài thơ đó.

Nói như vậy cũng hàm ý rằng văn chương, đặc biệt là thơ của một thời đại chính là cái hình tướng sẽ còn lại của thời đại đó. Lịch sử là lăng tẩm của thời gian. Thi ca là một phần hồn thiêng của lăng tẩm đó. Trong thơ miền Nam vào thời kỳ sau 1954 đã xuất hiện một nhân tố hoàn toàn mới, nhân tố đó là lịch sử. Nhân tố đó tuy đã bắt đầu có ló dạng trong thơ thời kháng chiến chống Pháp nhưng sự ló dạng đó dù sao cũng chỉ thập thò, loáng thoáng, bóng dáng lịch sử trong thơ thời kháng chiến vẫn có vẻ gì đó phiến diện, cùng lắm chỉ là những biểu hiện hoàn toàn có tính tả chân đơn điệu mà thôi. Trong khi lịch sử hiện diện trong thơ miền Nam thời chia cắt đất nước rõ nét hơn, trung thực hơn, và cũng đa dạng hơn. Nó đã lộ hiện tùy ở mỗi bài thơ, ở mỗi thi sĩ, với nhiều vẻ mặt sống động khác nhau, hăm hở có, hy vọng có, dò hỏi có, nghi hoặc có, nhưng nhan nhản vẫn là những vẻ mặt thảm thiết, thất thần, ê chề và tuyệt vọng. Dù phơi bày hay dù che khuất, lịch sử vẫn là cái phông nền ám ảnh bất biến của hầu hết những bài thơ miền Nam trong thời kỳ đó.

PNH: Ngoài đặc điểm “đi sát thời đại”, thơ miền Nam trước 1975 hình như cũng đã phần nào trở nên “lý trí” hơn thơ tiền chiến? 
TTY: Một đặc điểm nổi bật nữa của thơ miền Nam trước 1975 là sự ngồi xê qua của cảm xúc để nhường bớt chỗ cho tư duy cùng ngồi. Nhìn chung, thơ Việt trước 1954, đặc biệt là thơ tiền chiến, chủ yếu thành hình trên cảm xúc thuần túy. Một nhận thức gần như một định nghĩa rất đỗi sai lạc về thơ thường được nhắc đi nhắc lại như một khuôn vàng thước ngọc là thơ chỉ cần cảm, không cần hiểu. Chính cái nhận thức cực kỳ tai hại này đã giam hãm thơ Việt, đã làm cho thơ Việt bị phế bỏ đi oan uổng một khả năng nữa đáng lý phải có đầy đủ của thơ là biểu hiện tư duy. Ðến độ người ta đã dễ dàng ngộ nhận là thơ như không hề thuộc về trí tuệ con người. Nên vô hình trung, thơ Việt cùng với thơ Trung Quốc, đã không thoát ra khỏi cái vỏ tù túng, bí hơi ngàn đời của nó. Sau đời Ðường, thơ đời Tống cũng chẳng đi xa hơn là mấy. Nó vẫn lẩn quẩn giữa những tình tự chủ yếu từng được biểu lộ loáng thoáng đâu đó thôi. Người đọc gần như không tìm thấy những sáng tạo mới khác, những rung động mới khác trong thơ nữa. Thơ miền Nam sau 1954 là bước đầu tiên và cũng là một bước quả quyết mở rộng bờ cõi sinh tồn cho thơ. Ở đây, có lẽ cũng nên nói thêm một chút về tính chất tư duy trong thơ để tránh những hiểu lầm nào đó cũng không kém phần nguy hại cho thơ. Gần đây, thỉnh thoảng người ta muốn phân loại thơ, chắc là cho dễ nói, nên đưa ra những danh loại cho thơ như là thơ chính luận, thơ siêu hình, thơ triết lý, thơ vân vân. Cách thức phân loại căn cứ thuần túy vào nội dung của bài thơ này vô tình đã coi nhẹ, nếu không nói là lược bỏ cái chính yếu của bài thơ, là cái phương cách cấu trúc thơ của bài thơ. Ðiều sơ đẳng là thơ có riêng những khả năng cùng những phương cách cấu trúc biểu hiện hoàn toàn đặc biệt của thơ. Hẳn nhiên, một bài thơ không phải, không thể, và nhất là cũng không nên là một bài luận thuyết chắc nịch quy củ về một chủ đề nào đó. Một bài thơ chỉ là một cố gắng hầu như tuyệt vọng làm lộ hiện một thi ảnh mờ ảo biểu tả một chấn động xúc cảm tư duy nào đó bằng một ngôn ngữ đã thoát vượt ra ngoài biên hạn thông phàm của chính ngôn ngữ, trên một phương cách cấu trúc hoàn toàn độc đáo của bài thơ. Sự không minh bạch của thơ chính là sinh mạng của thơ. Chỗ sáng trơ bao giờ cũng là tử địa của thơ. Nói như vậy không có nghĩa là thơ phải bí hiểm mờ mịt mới là thơ. Người nào cố tình nghĩ sai, người đó có tội. Nhìn xa hơn, thơ với những khiếm khuyết mơ hồ khả nghi thuộc về bản thể của nó, lại cũng là một phương thức thật sự tuyệt vời trong công cuộc thăm dò đời sống của trí tuệ nhân loại phiêu lưu. Chỗ cùng đường của luận lý, của khoa học, kể cả của tôn giáo nữa, chính là điểm khởi hành lang bạt của thơ không bao giờ khứng chịu ngừng nghỉ. Thơ miền Nam trước 1975 đã có công lớn mang về đầy đủ cho thơ Việt cái khả năng biểu hiện tư duy phải có nhưng đã bị phế bỏ lâu đời mà không biết của thơ.

PNH: Có thời, cùng với Thanh Tâm Tuyền, anh là nhà thơ trụ cột của tờ Sáng Tạo. Tờ này tuy tồn tại chỉ vài năm, nhưng đã để lại dấu ấn quan trọng trong tiến trình phát triển văn chương, nhất là thơ ca, miền Nam. Theo anh, vì sao nhóm Sáng Tạo thành công như vậy vào lúc đó?
TTY: Dù muốn dù không, con người vẫn là sản phẩm của lịch sử. Trong một bài tựa, sử gia Pháp thế kỷ 19 Michelet đã cho lưu hành từ gia tốc như là một đặc tính của lịch sử. Nhưng ông mới chỉ phát hiện đặc tính gia tốc của lịch sử trong phạm vi thời gian với những biến cố càng lúc càng dồn dập của lịch sử, chớ chưa nêu lên đặc tính gia tốc của lịch sử trong phạm vi nhân bản, tức sự bành trướng khắp cùng của lịch sử càng lúc càng bao trùm khống chế nặng nề lên từng định mệnh cá nhân. Trong lịch sử, càng ngày con người càng bị quy định khắc nghiệt hơn bởi cái sử tịch chẳng thể từ bỏ được của mình. Và hẳn nhiên, người ta chẳng thể nào làm văn chương nghệ thuật bên ngoài lịch sử được. Sự xuất hiện cũng như sự thành công nếu có của tạp chí Sáng Tạo vào cuối thập niên 1950 cũng nằm trong tiến trình đương nhiên của lịch sử ở thời điểm đó. Năm 1954, chiến tranh với danh xưng chiến tranh Việt Pháp kết thúc, chiến tranh với một danh xưng khác còn đang mai phục chưa lộ diện, miền Nam trong một thời đoạn ân hạn ngắn ngủi, mặc nhiên trở thành vùng đất trống của hy vọng và lo âu. Chủ nghĩa thực dân và kẻ a tòng bất đắc dĩ của nó là chủ nghĩa phong kiến đã bị thanh toán. Miền Nam từ trong hang cùng ngõ cụt của xã hội, cần những thay đổi khẩn cấp, những triển khai vượt bực để sinh tồn trong một cơn bão lửa khủng khiếp đã bắt đầu cho thấy lờn rờn những điềm báo bất thường. Thành thử, miền Nam cùng với sự tượng hình của ý niệm tự do dân chủ, trong một thời gian nhanh chóng, đã đón nhận ồ ạt bất kể mọi trào lưu tư tưởng hiện hành của thế giới, nhờ đó, nhận thức của thành phần tiên tiến trong quần chúng văn chương nghệ thuật một sớm một chiều cũng được nâng cao lên ngang tầm với nhận thức đương thời của quần chúng văn chương nghệ thuật thế giới. Tất nhiên, lớp quần chúng tiến bộ khởi đầu của một trào lưu canh tân văn chương nghệ thuật bao giờ cũng ít ỏi. Tạp chí Sáng Tạo lúc khởi đầu cũng không ra ngoài thông lệ đó. Tuy nhiên chỉ sau một thời gian ngắn, rất ngắn chừng vài ba năm thôi, cùng với những chuyển biến liên tục cấp kỳ của xã hội miền Nam, lớp quần chúng khởi đầu thưa thớt đó đã phát triển thật ngoạn mục và mặc nhiên chiếm lĩnh vai trò ngự trị trong sinh hoạt văn chương nghệ thuật. Trong ký ức của những độc giả thuộc thế hệ 1954 vẫn còn tồn đọng lâu dài những kỷ niệm tình đầu văn chương nào đó với tạp chí Sáng Tạo. Thế hệ 1954 đó là một thế hệ đặc biệt, sáng rực bao nhiêu là tài năng, xum xuê bao nhiêu là hứa hẹn, người viết trẻ viết cho những người đọc trẻ. Nhưng thương thay, đó lại là một thế hệ yểu mệnh, một thế hệ không có được nhiều thời gian, y như số phận chung của cả dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử, một dân tộc bất hạnh ít khi được rảnh rang thư thả, nên thế hệ đó đã chẳng thực hiện được những công trình quan trọng, quy mô mà lẽ ra thế hệ đó có cơ may làm được. Chiến tranh gia tăng cường độ, nới rộng địa bàn, thế hệ tội nghiệp đó một sớm một chiều đã bị cướp đoạt thì giờ và tâm trí, bị thí bỏ. Trong khung cảnh đó, tạp chí Sáng Tạo hiện diện chỉ được vài năm thôi, đã đình chỉ nhưng dù vậy, ảnh hưởng của nó trong quần chúng văn chương nghệ thuật Việt Nam quả đã chẳng đình chỉ. Trong lãnh vực tư tưởng, không riêng gì tại Việt Nam, mà hình như ở bất cứ nước nào, kể cả những nước sinh động nhất, bao giờ bức tường bảo thủ cũng cực kỳ kiên cố. Tạp chí Sáng Tạo ở thời điểm của nó, đã góp phần quan trọng trong việc xuyên thủng, phá sập được bức tường thâm niên đó, giải thoát quần chúng từ bao lâu bị kềm hãm bưng bít ra với thế kỷ, ra với thế giới.

PNH: Cho đến tận hôm nay, vài nhóm văn chương cũng có tham vọng tạo được ảnh hưởng như Sáng Tạo xưa kia, nhưng xem ra “mộng vẫn không thành”. Anh giải thích sao về điều này? 
TTY: Lý do đơn giản là vì những nhóm đó không gặp được điều kiện thuận lợi phải có từ một lớp quần chúng khởi đầu hăm hở sôi động với những nhu cầu cực kỳ bức thiết. Người ta chẳng thể nào làm cách mạng trong một xã hội lắng đọng, quần chúng không có ý chí đổi thay. Nhìn ở một góc độ khác nào đó, chính những cách tân lẻ tẻ, một cách khá là nghịch lý, lại chỉ củng cố thêm cho bức tường bảo thủ. Ðiều này, những tên cai trị độc tài biết rõ hơn ai hết.

Trở lại chuyện văn chương. Trong lãnh vực này, khác với sự lầm tưởng của đa số người đời, việc xuyên thủng, phá sập bức tường bảo thủ thật ra không hề do một chủ trương canh tân văn chương hô hào, mà lại do chính những tác phẩm có tính canh tân gợi ý. Ðể mở đường văn chương nghệ thuật, bao giờ lý thuyết gia cũng đi sau người sáng tạo ít nhất là một bước. Chỉ độc lý thuyết canh tân thôi mà không có một đội ngũ những tài năng sáng tác canh tân tiên phong, lý thuyết đó cuối cùng chẳng hấp dẫn thuyết phục được ai mà chỉ trơ là một ngông cuồng lố bịch.

PNH: Thời đó, nhóm Sáng Tạo đại diện cho cái mới. Nhưng ngay cả khi cùng ý hướng cách tân, anh và Thanh Tâm Tuyền vẫn là hai phong cách thơ rất độc lập nhau… 
TTY: Tự bản chất, nhóm Sáng Tạo không phải là một văn đoàn với những định chế quy củ nghiêm nhặt, với những cương lĩnh chi tiết rạch ròi, những chương trình họp bàn kiểm điểm, mà chỉ là một quy tụ gần như tình cờ của một số người, tuổi tác chênh lệch nhau, gia thế khác nhau, nghề nghiệp khác nhau, sở học khác nhau, nhưng cùng chung một sở thích là làm mới văn chương nghệ thuật, có vậy thôi. Ngay cả cái chuyện chính là làm mới đó cũng chẳng ai bảo ban ai phải làm mới như thế nào. Tự do sáng tác được tuyệt đối tôn trọng, các tác giả, ai muốn viết gì, viết như thế nào, cứ việc viết, ngay cả việc khen chê sáng tác của nhau cũng chỉ là nhân tiện câu chuyện qua qua, lắm khi đùa cợt, chớ chẳng ai nghiêm trọng hiệu đính ai, chẳng ai ra sức vận động ai. Nếu như có một vận động nào đó thì vận động đó chỉ phát khởi từ Mai Thảo, một Mai Thảo tinh nhạy, cực kỳ yêu quý chữ nghĩa và tài năng, trầm lặng đến độ người không thân tưởng là lạnh lùng phớt tỉnh, với tư cách chủ báo cần bài đủ kịp cho số báo tới, đã có kêu gọi, thúc hối mọi người viết, viết. Những người trong nhóm chẳng mấy khi họp bàn nghiêm trọng, nhưng sinh hoạt với nhau thật chặt chẽ thân tình, hầu như đã dành tất cả thì giờ rảnh rỗi tìm gặp nhau, tay đôi, tay ba, nhiều khi cả đám, nói với nhau đủ thứ chuyện trên đời để rồi cuối cùng cũng chủ yếu quay về chuyện chữ nghĩa tư tưởng như là một ám ảnh đam mê chung. Ở bất cứ nơi nào, nhà riêng, tòa soạn, nhà in, công viên, vỉa hè, bờ sông, quán cốc, hàng ăn, phòng trà… Vào bất cứ lúc nào, sáng trưa chiều tối, và rất, rất nhiều lần mãi tận đêm khuya lang thang trên đường phố. Ðó là thời kỳ bohémien của chúng tôi.

PNH: Anh có thể nói đôi điều về quan hệ văn nghệ giữa anh và nhà thơ Thanh Tâm Tuyền? 
TTY: Thanh Tâm Tuyền và tôi bắt đầu chơi thân nhau cũng từ thời kỳ đó. Nửa thế kỷ đã đi qua, thay đổi bao nhiêu cảnh đời, nhưng vẫn không thay đổi tình bạn giữa chúng tôi. Chúng tôi trao đổi chia sẻ với nhau nhiều điều và tất nhiên cũng có nhiều điều chúng tôi không đồng ý với nhau. Thường chúng tôi cũng có những nhận xét bất chợt về những bài thơ nào đó của nhau nhưng chúng tôi tuyệt nhiên chẳng bao giờ thuyết phục nhau dù bằng cách này hay cách khác về phương cách làm thơ của nhau. Lý do quan trọng hơn cả là vì chúng tôi tôn trọng nhau, cũng như hiểu rõ rằng trong việc làm thơ không có chuyện hợp tác, và riêng phần tôi, tôi rất yêu quý tài năng đa dạng và chói rực của Thanh Tâm Tuyền. Theo chỗ tôi nhận thấy, Thanh Tâm Tuyền là một người sáng tạo bẩm sinh, đích thực, ngay cả trong những câu chuyện mưa nắng bình thường, anh cũng hay đưa ra những ý tưởng mới mẻ bất ngờ mà người không quen có thể cho là chối ngẳng, nhưng riêng tôi, tôi nhìn thấy chúng như những tia nháng lạ lùng của một trí tuệ cực kỳ sinh động, khiến người nghe có dịp đi xa thêm nữa trong suy nghĩ của mình. Thường giữa chúng tôi với nhau, Thanh Tâm Tuyền có một cách thức nói chuyện khá độc đáo là từ ý tưởng này nhảy sang ngay ý tưởng khác, thường rất xa cách nhau mà không cần lần lượt đi qua những ý tưởng chuyển tiếp trung gian, khiến người nghe có khi cũng ngớ ra và phải cất công chớp nhoáng dò ngược lại trong đầu mình đường dây tư tưởng của anh. Có lẽ cấu trúc thơ văn của Thanh Tâm Tuyền cũng theo một tiến trình tương tự. Ngay từ những năm mới 20, 21 tuổi, anh đã là một khuôn mặt quan trọng hàng đầu trong sinh họat văn chương miền Nam dù rằng anh là một tác giả gây ra nhiều dị nghị và dị ứng nhất. Mãi cho đến bây giờ, sau những gần năm thập niên rồi, hình như người ta vẫn chưa thật sự công bằng với anh. Cảm thức thưởng ngoạn của quần chúng văn chương Việt Nam quả neo buộc quá chặt, quá lâu vào cội đa già bảo thủ. Thời gian sau này, ra khỏi nước, anh ẩn mình ở một bang miền Bắc hẻo lánh, không công bố thêm sáng tác nào nữa, và như vậy, vô tình anh đã tạo ra một khoảng trống không nhỏ trong sinh hoạt văn chương hải ngoại hiện thời. Những khi gặp nhau, thường tôi có hỏi thăm chuyện viết lách của anh, nhưng hoặc anh lảng tránh trả lời, hoặc trả lời không rõ ràng, lúc vầy lúc khác, dù rằng anh vẫn như hồi nào, hào hứng đam mê nói bàn về tư tưởng chữ nghĩa kim cổ Ðông Tây. Thôi thì văn chương cũng là thứ hữu mệnh, tôi chỉ biết ngậm ngùi và cũng như hồi nào, tôi chẳng nói thêm với anh một lời thúc đẩy, vặn vẹo nào cả.

PNH: Quan niệm chung của anh về vấn đề làm mới thơ ca thế nào? 
TTY: Bạn hỏi về quan niệm chung của tôi trong việc làm mới thơ như thế nào, quả tình tôi cũng ngẩn ra. Bởi tôi không hề có, ngay cho bản thân tôi, một chủ trương nhất định nào trong việc làm mới thơ. Một phần vì tự bản chất trời sinh, tôi vốn dị ứng với tất cả những thứ gọi là hệ thống hay định chế. Tôi định nghĩa tôi là một thân phận vô định. Và thơ cũng theo đó mà vô định. Vì vậy, tôi nhận thấy là mọi toan dự định nghĩa thơ nếu như có được đi chăng nữa, cùng lắm chỉ là một định nghĩa què quặt tạm bợ cho thơ, định nghĩa qua những bài thơ đã có mà thôi. Lúc nãy, tôi có nhắc qua về bản chất phiêu bạt của hồn thơ, thành thử một định nghĩa nào đó về thơ mặc nhiên chặn đứng hồn thơ lại. Và vì hồn thơ không thể bị chặn đứng lại mà không bị hủy diệt nên thơ cũng như mọi hình thức diễn đạt khác phải được làm mới, thường trực làm mới. Nội ý niệm làm mới thôi cho thơ, nghĩ cho kỹ, tự nó đã bao hàm đầy đủ lắm rồi những gì cần làm, những gì cần tránh trong bài thơ sắp tới, chớ còn chủ trương thêm phải thế này, phải thế nọ chỉ là một việc làm dư thừa nếu không nói là có khi lại bội phản thơ vì ngăn chặn thơ. Ngay cả với mỗi thi sĩ thôi, trong mỗi bài thơ đang làm của mình, theo dẫn dắt vô định của hồn thơ phiêu bạt, hắn sẽ tự chọn lựa lấy một phương cách đặc thù và cũng là nhất thời nào đó mà thôiù. Có như vậy mới thật sự là làm mới, thường trực làm mới. Bằng không, sẽ chỉ là mô phỏng, ngay cả mô phỏng chính mình. Một chủ trương về thơ thật ra chỉ làm hạn hẹp không gian sinh tồn của thơ. Hãy làm thơ theo như mình cảm nghĩ. Người sáng tạo tâm niệm: cõi sống mênh mông biến ảo, liệu ta đã theo hồn thơ đi cùng khắp hay chưa? Ngay tảng đá nơi sân nhà, có những buổi sáng tôi nhìn nó thấy lạ như chưa từng nhìn thấy nó.

PNH: Sau 1975, anh đi “cải tạo” mười ba năm. Có lúc anh viết: “Hãy kể lại mười năm mộng dữ / Một lần kể lại để rồi thôi”. Anh đã có dịp kể lại cơn mộng dữ này chưa? 
TTY: Chưa, nếu nói là viết hẳn một cuốn sách dày về cơn mộng dữ đó. Nhưng nếu chỉ nói chung chung thì tôi có kể loáng thoáng đây đó qua một số bài thơ của tôi. Có nhiều biến động lớn lao trong đời như chiến tranh, tù rạc… mà tôi đã chứng nghiệm nhưng rồi tôi đã chỉ nói được một phần rất nhỏ nhoi qua thơ tôi mà thôi. Ðồng ý là văn chương trong tự thể của nó tựu trung là một nỗ lực vô vọng nhưng tuyệt vời nhằm kéo dài sinh mệnh mong manh của ký ức loài người, nhưng việc viết hay không viết về những từng trải của mình hoàn toàn tùy thuộc nơi tâm cơ của từng tác giả. Vạn vật bất bình tất lên tiếng là chuyện đã đành, nhưng lên tiếng như thế nào lại là chuyện khác nữa.

Hẳn nhiên độc giả Việt Nam, nhất là tác giả Việt Nam nào mà chẳng mong mỏi một kiệt tác bề thế chiếu yêu một thời đại lầm than vừa đi qua của đất nước? Một thời đại thảm khốc thường dẫn dắt ngay theo sau nó một thời đại được mùa của văn học. Nhân loại chẳng học hỏi được ở đâu nhiều bằng từ những thảm kịch của chính mình. Quả đáng tiếc và cũng đáng xấu hổ nếu như chính chúng ta chưa hình thành nổi một giáo án tầm cỡ tương xứng. Hay là dân tộc Việt Nam vẫn chưa vùng thoát ra được cái thảm kịch mấy ngàn năm đeo đẳng của mình là chẳng thu vén đủ nổi thời lượng rảnh rang và tâm trí tỉnh táo cho những công trình quy mô đồ sộ?

Tôi cũng xin nhân tiện nói luôn: chẳng lẽ cả dân tộc Việt Nam tự mình lại còn muốn kiệt sức hà hơi tiếp cho những cái thây ma một thời được nhớt rãi rêu rao là đỉnh cao, là siêu việt, lại còn muốn khuất thân tôi mọi nối dài thêm nữa một chương hồi lịch sử lầm lạc oan khiên, để tự mình đầy đọa lấy mình thêm nữa trong đó hay sao? Và cũng chẳng lẽ đã ba thập niên qua, thời gian của hơn một thế hệ trưởng thành, vẫn chưa đủ để chúng ta khựng tỉnh cơn hả hê hào khí ngất trời ngu muội và vô sỉ, vẫn chưa đủ để chúng ta giải trừ được lòng nghi kỵ cùng sự sợ hãi như những hội chứng tâm thần trước những phải trái cần phân minh, vẫn chưa đủ để chúng ta lương thiện lượng giá phẩm cách làm người của mình, để mà can trường hồi phục được hy vọng, niềm tin và ý chí phải có của một dân tộc hay sao?

PNH: Những bài thơ sau 1975 của anh, trong khi phản ánh một đời sống khốn cùng cả vật chất lẫn tinh thần, vẫn toát lên nỗi buồn bao dung về cuộc nhân sinh: “Ta tưởng chừng nghe thời đại động/ Xô đi ầm ĩ một cơn đau”, những niềm vui rất thi sĩ: “Cám ơn hoa đã vì ta nở/ Thế giới vui từ mỗi lẻ loi”. Trong quan niệm của anh, thi sĩ là ai trong cõi đời này vậy, giữa những biến động tàn khốc của lịch sử? 
TTY: Thi sĩ, ngươi là ai? Bất thần bị hỏi căn cước, thi sĩ chắc phải lúng túng thôi. Bởi chẳng như người đời thường tưởng lầm, thi sĩ vốn không có căn cước nhất định. Căn cước đích thực của thi sĩ là bài thơ hắn đã làm ra, vì vậy có thể hắn có rất nhiều căn cước khác nhau, mỗi bài thơ là một căn cước nào đó của hắn. Thi sĩ thật ra chỉ là người từng là thi sĩ của những bài thơ hắn đã làm ra, chớ không phải là người lúc nào cũng đang là thi sĩ, hay sẽ là thi sĩ. Thi sĩ không phải là một danh phận thường trực hiện hành mà là một danh phận nào đó thuộc quá khứ. Căn cước hay những căn cước của hắn, nếu phải gọi đó là căn cước thì cũng chỉ là những căn cước đã quá hạn. Nhận thức này cũng ngầm nói rằng thi sĩ là một hồn tính lang thang vô sở cư một khi đã xa lìa bài thơ quá khứ của chính mình. Hơn nữa, nói đến văn chương là nói đến quá khứ. Nếu như phải chọn một định nghĩa nào đó cho văn chương, tôi sẽ sẵn sàng chọn cái tên tựa tác phẩm À la recherche du temps perdu của M. Proust làm định nghĩa vậy. Người sống chẳng ở lại trọn đời nơi quá khứ. Thi sĩ đã mãn phần khi làm xong bài thơ. Và nếu muốn, tự hắn sẽ thoát đi, hóa thân thành một thi sĩ khác ở bài thơ sau.

Với xã hội, thi sĩ có khác người chăng chỉ ở chỗ làm được thơ cho ra thơ, thế thôi. Tôi thiết nghĩ không nên nhầm lẫn lấy sứ mệnh của thơ làm sứ mệnh của thi sĩ. Trước đây, tôi đã có lần bày tỏ đại khái là thơ có sứ mạng, thi sĩ thì không.

Với lịch sử, trước những chuyển đổi thời thế, thi sĩ của bài thơ đang làm là cơ phận nhạy cảm nhất trên thân thể cộng đồng. Hắn nhuốm bệnh dịch thời khí trước tiên và sau khi dịch thời khí đã đi qua, dường như hắn vẫn còn phải chịu đựng lâu dài thêm hậu quả của bệnh. Âu đó cũng là cái giá phải chăng mà hắn phải trả sòng phẳng cho chính bài thơ hắn đã làm ra. Nghề nào, nghiệp nấy.

PNH: Anh đang sống ra sao, đang viết gì hay có ý định viết gì? 
TTY: Tôi hiện sống một mình trong một khu chung cư do chính phủ Mỹ tài trợ, láng giềng chủ yếu là người da đen và tôi gần như chẳng giao tiếp với bên ngoài vượt quá mức tối thiểu đòi hỏi của xã hội. Về vật chất, tôi tự bằng lòng với những căn bản mà một con người có thể nhờ vào đó mà tạm sống còn trong xã hội Mỹ. Về tinh thần, tôi đang suy nghiệm, qua bản thân khi đối diện với tuổi già trong cô quạnh, về một câu nói của E. M. Cioran mà tôi đã tình cờ đọc thấy: “Ðêm tối chảy trong huyết quản tôi”.

Tôi vẫn chưa bỏ được viết. Tôi viết, lúc được lúc không, nhiều ít tùy cơ, và bởi tôi vốn không hề nhằm chủ đích chiêu khách tiếp thị gì nên thấy không cần phải rao hàng trước. Bao giờ tác phẩm đã xong thì hay là đã xong, xong như vậy đó. Hơn nữa, qua kinh nghiệm, khi chưa khởi công, thường tôi cũng có ý định này nọ, nhưng đến khi viết được thì lại viết những thứ khác hẳn với ý định ban đầu của mình. Thành thử cuối cùng tôi đành để trống tâm trí mình và tự thả nổi theo duyên nghiệp. Vả lại, đương đầu với tuổi già trái trở, tôi cũng tự lượng sức mình may ra chỉ còn làm kịp được dăm ba câu thơ chơi chơi nữa mà thôi. Từ bao giờ, tôi vẫn tâm nguyện ca múa không dụng tâm, sống đời không hậu ý. Bây giờ, thời gian còn lại ước lượng chẳng bao nhiêu, lẽ nào lại đổi thay điều tâm nguyện đó? Tôi mong mỏi bạn đã chẳng cảm thấy bị phụ lòng khi tôi phải trả lời không rõ ràng như vậy.

Cám ơn bạn Phan Nhiên Hạo cùng các bạn đã quan tâm thăm hỏi.

PNH: Cảm ơn nhà thơ Tô ThùyYên. 

4/2005 © 2005 talawas

 

Tâm thức khuất dạng của thơ 

 1.

Năm đó, giặc Trung Quốc bất thần mở mặt trận ồ ạt tấn công vào 8 tỉnh miền Bắc nước ta. Nửa khuya, Công an Cộng sản Việt Nam lùa tất cả những người tù đày của chế độ miền Nam từ những vùng thượng du và trung du lên những chiếc xe đò khẩn cấp trưng dụng, chạy bán mạng về vùng Thanh Nghệ Tỉnh, tức Liên Khu Tư cũ, đất ẩn trú một thời của những Nguyễn Đức Quỳnh, Đào Duy Anh, Hữu Loan, Phạm Duy và ban hợp ca Thăng Long, của những ngày toàn dân kháng chiến chống Pháp cũ. Tại một trại giam ở Nghệ Tĩnh, ẩn khuất trong Trường Sơn, tôi gặp lại người bạn vong niên là nhà thơ lão thành Hà Thượng Nhân, giữa đông đảo những bằng hữu thất tán khác. Trong một lần trò chuyện, nhà thơ Hà Thượng Nhân ngỏ ý khát khao được đọc thơ. Tôi hoàn toàn thông hiểu nỗi khát khao đó của Hà tiền bối.

Bởi tôi cũng hằng khát khao ngày đêm như vậy. Nên một hôm, tôi nỗ lực vận dụng trí nhớ đã nhiều hao kiệt của mình ghi lại toàn bộ một kiệt tác khá dài của thi hào Đỗ Phủ. Đó là bài Đồng Cốc Huyện Chung Cư Thất Ca, gồm bảy khúc ca viết theo lối cổ phong, trong đó thi hào mô tả thời thế loạn ly, người phải rời bỏ quê nhà, thất lạc vô âm tín đám em trai, em gái, nay lê tấm thân tàn bệnh tật, đói kém nơi chướng khí sơn lam, chỉ còn trò chuyện cùng con rắn lớn nơi đầm hoang. Bài thơ đó, tôi ghi lại hoàn toàn bằng Hán tự. Cụ Hà đọc lại bài thơ đó, xúc động, cố gắng chuyển dịch thành thơ Việt Nam để cho nhiều bạn khác không am tường chữ Hán cùng được thưởng thức. Rủi ro cho cụ là có một tên chỉ điểm nào đó đi thóc mách, đồ đạc của cụ bị lục soát, bài thơ tang chứng bị tịch thu nên cụ bị Ban An Ninh trại liên tiếp mấy ngày gọi lên làm việc.

Theo quan điểm của trại, rõ ràng là tên Đỗ Phủ này hoàn toàn không chịu an tâm phấn khởi cải tạo, oán thán chính sách, bôi bác chế độ, tên Đỗ Phủ này quả là một tên phản động bẩm sinh, cho đến thời điểm ồ ạt của ba dòng thác cách mạng thế giới toàn thắng mà vẫn còn ngoan cố chưa chịu giác ngộ, hối cải. Cán bộ lãnh đạo yêu cầu cụ Hà phải thành khẩn khai báo tên Đổ Phủ là bí danh của ai, thuộc đội nào, lán nào, liên hệ như thế nào với cụ. Mãi sau này nhớ lại câu chuyện đó, tôi vẫn còn thử nghĩ nếu ở vào trường hợp của cụ Hà, tôi sẽ phải trả lời như thế nào để hương hồn của thi hào Đỗ Phủ khỏi tủi hổ. Có thể tôi sẽ trả lời: Đổ Phủ là danh hiệu của một con người xứng đáng, ông hiện diện ở mọi đội, mọi lán, một nơi chốn của nhân loại lầm than, ông là người rất đỗi thân thiết của một số khá đông chúng tôi.

2.

Đối với đa số người đời, thông thường, thơ nói riêng, văn học nghệ thuật nói chung là một thứ gì đó rất ư phù phiếm, chẳng hề mang lại ích lợi cụ thể thực tiễn nào cho cuộc sống hằng ngày đầy dẫy những vật vã, tất bật. Chắc chắn Platon không phải là người đầu tiên cũng không phải là người cuối cùng trong lịch sử muốn tống xuất nhà thơ ra khỏi cộng đồng loài người dù cho rằng Plato cũng còn một chút ưu ái là choàng cho lấy có lên đầu nhà thơ một vòng hoa tưởng thưởng. Do đó, dường như chẳng có mấy người làm văn học nghệ thuật nào, nhất là nhà thơ lại chẳng mang sẵn không nhiều thì ít cái mặc cảm mình là kẻ thừa thãi, là kẻ ăn bám trong xã hội loài người quần quật đầu tắt mặt tối. Rõ ràng lao động nghệ thuật, nhất là lao động thi ca, gần như chẳng được xã hội lưu tâm bao nhiêu và đánh giá đúng mức. Và cũng vì cái mặc cảm về sự vô bổ đó của thơ nên đã có một số không ít những người làm thơ đã muốn dĩ thi tải đạo, làm những bài thơ giáo huấn tuyên truyền luận giải thuyết phục, để thấy mình cũng như thơ có được một mục đích lợi ích xã hội thiết thực.

Tất nhiên cũng không hiếm những chế độ chính trị đã tận lực góp thêm phần tạo thành dầy đặc cái mặc cảm vô dụng đó nơi người làm thơ để dễ dàng sử dụng hắn như một công cụ khá cần thiết cho chúng, và khi đã ưng chịu như vậy thì người làm thơ một cách mặc nhiên đã làm một công việc hoàn toàn khác biệt với công việc làm thơ, đã tự mình chối bỏ danh xưng thi sĩ.

Một chế độ chính trị bao giờ cũng bắt buộc phải chứng minh bằng cách này hoặc cách khác. Còn thơ tự bản thân nó chẳng cần chứng minh nó là thơ, một thế giới cảm xúc thế thôi. Sự thiết thân gắn bó của thơ đối với con người, cái lý do tồn tại chính đáng cao cả đó của thơ sẽ phải chỉ tìm thấy được ở một nơi chốn nào khác, và nơi chốn đó là hồn thơ của chính người đọc. Do đó, đã xảy ra điều nghịch lý là khi nhà thơ tự đặt trước cho mình một mục đích lợi ích thực tiễn xã hội nào đó, thì đó cũng là lúc nhà thơ chẳng còn lấy chút lợi ích nào nữa cho đời sống. Tuy rằng, trên thực tế, một thực tế mà người đời ít có dịp nhận ra một cách phân minh, chính xác là thơ, cho dù có bị khước bỏ, hắt hủi, lãng qưên đến đâu đi nữa, vẫn luôn luôn hiện hữu, kết liền một cách thiết thân hình bóng với con người, với cuộc đời như một người tình cực kỳ bất hạnh của định mệnh ràng buộc, chẳng thể để dễ dàng xa lìa, để bỏ.

Bởi lẽ con người nào cũng đều tàng chứa trong tâm thức sâu thẳm của mình cái hồn thơ bàng bạc, chung đồng và vĩnh viễn. Cái hồn thơ đó trường kỳ nghi phục, bất động đâu đó, khó thể nhận biệt trong những lúc bình thường của cuộc sống, để rồi trong những thoáng cơ duyên nào bất chợt nhất, nó lại xuất đầu lộ diện ngự trị, điều động con người theo những luật tắc riêng biệt vừa rộng rãi mà cũng vừa nghiêm nhặt của nó. Và kinh qua những lần chứng nghiệm thơ như vậy, con người bỗng nhận thức được như một đốn ngộ về một nghịch lý: thơ, với tất cả những gì mà người đời cho là những khuyết phế vốn dĩ của thơ, lại cũng là một phương thức nhận thức đặc biệt cùng với những phương thức nhận thức khác của con người triền miên theo đuổi công cuộc tìm kiếm những sự thật lẩn khuất chung quanh mình, ở trong mình.

Và thơ, tội nghiệp thay, cũng là đứa con nhờ vả được đã dẫn dắt người cha mù lòa đi sâu vào những cõi u uẩn huyền nhiệm tuyệt vời và chính những đứa con sáng sủa hằng được trọng vọng khác của trí tuệ con người chẳng tài nào tiếp cận.

 

3.

Phải, ở những lằn ranh cuối cùng mà tôn giáo, triết học, khoa học đã phải đứng lại, thơ, vâng, chỉ có thơ, vẫn nhẹ nhàng tiến bước, xông pha, bay lượn, vùng vẫy. Lúc đó, những lúc đó, con người chợt cảm nhận rằng mình phơi phới nhẹ nhàng như đã được giải phóng khỏi những nặng nề đè ép thường nhật, rằng mình đã thật sự hòa nhập vào một đời sống có khi còn chính đáng hơn cả cái đời sống mà mình vẫn thường lầm tưởng là duy nhất chính đáng, một đời sống khác nữa không hẳn là không xác thực, một đời sống khác nữa ở ngay trong cõi sâu cùng thăm thẳm nhất của chính đời sống. Những lúc đó, con người nương thả theo thơ, sống trọn vẹn là con người với đầy đủ các tính cách kỳ diệu lạ lùng mà bình thường chưa từng nghe thấy có, tưởng chừng chẳng thể có. Bởi lẽ hồn thơ chính là cái phần u ẩn lẩn khuất mênh mông tuyệt đối của hồn người, nó chính thị là hồn người trong ý thức sau cùng hết của con người.

Có thể nói mà không sợ quá lời rằng khó lòng tưởng tượng một con người còn có thể là con người nếu như con người đó, một cách giả tưởng, tự mình hoàn toàn tước bỏ cái hồn thơ của mình, tự mình hoàn toàn tước bỏ khả năng, tư duy xúc cảm nhân loại của chính mình. Bởi lẽ, thơ, những lúc đó, mặc nhiên trở thành thi sĩ theo định nghĩa cao cấp nhất của danh xưng: Kẻ tạo dựng một thi cảm, một cách thức nhìn thấy độc đáo về cái thế giới vừa ngoại quan và cũng vừa nội quan mà chính mình đang sống.

Thơ chính là một thị cảm dù được thể hiện theo kỷ luật riêng biệt của bất kỳ trường phái hay khuynh hướng thi ca nào, và nếu như bài thơ nào không truyền đạt được những khêu gợi phải có nhằm đánh thức thôi thúc được một cách mãnh liệt cái hồn thơ ẩn náu bất động nơi người đọc để hình thành một thi cảm nào đó, chắc chắn bài thơ đó đương nhiên không phải là thơ.

Tất nhiên, khi làm bài thơ, phần người làm thơ tận lực cố gắng phần mình nữa trong việc thể hiện được trọn vẹn cái hồn thơ chung đồng của cả đôi bên. Đó chính là chỗ lớn lao đích thực của thơ. Đó chính là lẽ tồn tại xứng đánh của thơ. Hiểu được như vậy, làm được như vậy, người làm thơ mới có thể ngẩng mặt với đời, nhận lấy danh xưng thi sĩ, không hổ thẹn về những đóng góp độc đáo của mình đối với xã hội, đối với lịch sử.

Đặc biệt, trong những tình huống cực kỳ chông chênh, nghiệt ngã, sinh tử mà chính con người đã bị đày đọa dìm đắm vào đó, bị đặt để trước nguy cơ thường trực của sự trấn lột chính cái nhân phẩm còn sót lại của mình, thơ, hơn bao giờ hết, đã chứng tỏ một cách mãnh liệt cái khả năng siêu tuyệt gần như là tôn giáo của thơ. Trong những tình huống đó, rất nhiều người đã nương tựa vào thơ, để mà gìn giữ lấy mình, để mà sống sót với tư cách là con người, gầy dựng cho chính mình và cho cả bằng hữu cùng cảnh ngộ một thế giới ánh sáng, một thế giới niềm tin giữa một thế giới tối tăm, cùng mạt và hủy diệt. Ở đây, tôi không hề muốn nói thêm qua về cái bản chất của thế giới tù đầy đó. Trong thế giới đó, nhiều con người thất trận của một cuộc chiến đã tạm thời phải ngã ngũ như vậy từ đất đứng, danh vị, thậm chí đến cả sinh mạng của mình, chỉ còn lại mỗi một phần duy nhất tạm thời chưa thể bị tước đoạt hoàn toàn, đó là nhân phẩm, và niềm tin của chính mình. Chúng tôi, mỗi người một cách, đều phải ý thức một cách rõ ràng rằng đó mới chính là nỗi sinh tử cốt tủy, đích thực của chính mình, rằng không thể để cho con người trong chúng tôi bị bức tử, ô nhục, rằng đó chính là cái phần mà chúng tôi bắt buộc phải gìn giữ bảo vệ bằng mọi giá, kể cả bằng mạng sống của mình. Lúc đó, một số không nhỏ chúng tôi đã tìm thấy được một sự trợ lực thần thánh. Lúc đó, tôi nghiệm rõ một điều hết sức thông thường như một sự thật cổ lỗ mà bình thường chẳng bao giờ mình để ý đến về thơ.

Thơ là hình loại văn nghệ đầu tìên của con người, khi con người không có gì cả trong tay, và thơ chắc chắn cũng là loại văn nghệ cuối cùng của con người khi con người chẳng còn gì cả trong tay. Thơ sẽ còn hiển hiện tồn tại rạng rỡ với con người, nếu mà con người còn ngôn ngữ, còn tấm lòng, còn ký ức, còn là con người trong cái ý niệm cực kỳ cao cả đầu tiên và cuối cùng của mình.

Thơ, một cách mãnh liệt, đã trở thành sự sống không thể bị hủy diệt của cái ý niệm đó. Thơ còn con người còn. Tự bản thân, tôi vẫn quan niệm rằng văn nghệ cũng y như mọi thứ khác trên đều phải có những cấp độ cao thấp, lớn nhỏ của nó. Có những thứ văn nghệ ở cấp độ thấp nhất là văn nghệ giải oan, giải thoát. Chắc chắn không cần phải nói thêm, chúng ta đều thấy hiểu rằng trong hoàn cảnh lúc đó của chúng tôi, chúng tôi đã nhận chân ra cấp độ cao nhất của văn nghệ.

Lúc đó, thơ đã trở thành một thế giới bất khả xâm phạm, bất khả hủy diệt để con người chúng tôi được nuôi dưỡng tồn tại. Đó là một thế giới vô hình nhưng có thật, thật như một thế giới hữu hình nào. Cám ơn ngôn ngữ của loài người, cám ơn thơ của loài người. Thế giới của chúng ta không chỉ hẳn là một thế giới có mặt của những con người thân quen, từng gặp gỡ ngoài đời, mà còn là một thế giới có mặt những con người chưa từng gặp gỡ ngoài đời nhưng rất đỗi quen thân. Chắc chắn trong thế giới của chúng ta vẫn hằng lui tới hình bóng của một Khuất Nguyên tiều tụy lang thang bên dòng sông Mịch La, một Lý Bạch tiêu sái nơi một quán rượu của Hàng Châu, một Holderlin quằn quại trong thư phòng khuya khoắt ở Horburg, một Nguyễn Du não nề trở lại Thăng Long trong một ngày đông rét mướt, một Nguyễn Gia Thiều héo hắt ngồi bất động nơi Hồ Tây, một Nguyễn Trãi đạt ngộ giữa vùng cây cỏ Côn Sơn … Những con người đó đã một lần đi khuất dạng trong lòng ta …

Cám ơn những con người đó đã đến trong thế giới riêng tư của chúng ta, ở lại đó, bầu bạn thắm thiết cùng chúng ta để chúng ta được đỡ xót xa thương lấy mình hơn nữa, để con người chúng ta còn được tồn vinh xứng đáng.

  • Trên đây là bài nói chuyện của Thi sĩ Tô Thùy Yên
  • tại Seattle Public Library ngày 26 tháng 7 năm 1997.
  • Nhan đề và phân đoạn do Khởi Hành đặt.
    (Trích Khởi Hành số 22 tháng 8 năm 1998)

 

Đãng tử

Nguyễn Hưng Quốc

Đãng Tử không phải là bài thơ hay nhất của Tô Thùy Yên. Tôi thích hơn, ở Tô Thùy Yên, bài Qua sông, bàiTrường Sa hành và đặc biệt, chùm thơ Quỷ xướng thibao gồm ba bài thất ngôn: Hề, ta trở lại gian nhà cỏ, Tưởng tượng ta về nơi bản trạch, Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai. Tuy nhiên, Đãng tử là bài thơ có vị trí cực kỳ quan trọng: nó là cửa ngõ, từ đó, dẫn vào tư tưởng, vào tâm hồn, vào cõi thơ bát ngát của Tô Thùy Yên. Không thể hiểu rõ Tô Thùy Yên, nếu trước hết, không đọc kỹ bài thơ này.

Bài thơ bắt đầu như một cách gợi chuyện:

Bạn có nghe, này bạn có nghe

Ở bìa rừng bên gió sửa soạn

Tuần du – cuộc tuần du bất tận

Bạn có nghe, này bạn có nghe

Giũa tầng trời cao chim giục giã

Từng giàn như những thủy triều sôi

Bạn có nghe, này bạn có nghe

Trên đỉnh non nhòa, mây xôn xao

Về nơi hẹn nào không hẹn trước.

Đoạn thơ nói về gió, về chim, về mây. Gió tuần du. Chim giục giã. Mây xôn xao. Nhưng chủ tâm của Tô Thùy Yên không phải là tả ảnh. Nhà thơ chỉ muốn nêu lên một số những hiện tượng trong tự nhiên. Và muốn nêu lên thật nhanh để đi vào vấn đề chính mình muốn gửi gắm. Nhanh quá thành hối hả. Mỗi khổ thơ bị rút ngắn lại ba câu thay vì là bốn câu như thường lệ. Và nhịp thơ nữa, để ý mà xem, cứ thoăn thoắt, thoăn thoắt, âm vang câu trước chưa dứt, âm vang câu sau đã tràn lên, nối tiếp, “như những thủy triều sôi”.

Những hiện tượng tự nhiên ở trên dẫn đến nhận định này:

Bạn có nghe, này bạn có nghe Vũ trụ miên man chuyển động đều Chim đã bay quanh từ vạn cổ Gió thật xưa, mây thật già nua Nên vời một đời bao biến đổi Mà trong vô hạn có chi đâu.

Hơi thơ đang dồn dập ở trên, đến đây, bỗng dưng lắng xuống, trầm lại. Thành lặng lẽ suy tưởng. Thành ngậm ngùi bâng khuâng. Ý, không mới. Từ xưa, đã lâu lắm,t nhất từ Trần Tử Ngang, đời Đường, biết bao người đã bàng hoàng trước cái mênh mông không cùng không tận của trời đất. Tô Thùy Yên chỉ khác, hơi khác ở thái độ: ông không hoảng hốt run sợ, đôi khi một cách rất giả vờ, như hầu hết các nhà thơ trước. Ông chỉ ưu tư khắc khoải.

Đoạn thơ kế tiếp vừa để chuyển mạch vừa để tô đậm thêm cái ý trên:

Ly rượu rót mời xin uống cạn

Bài ca ta hát đến đâu rồi.

Xin hát nốt – Còn đi kẻo muộn

Cho úp ly – Bóng xế đường dài.

Thật mâu thuẫn. Đã biết “Nên với một đời bao biến đổi. Mà trong vô hạn có chi đâu”, thế nhưng, nhà thơ – mà không phải chỉ nhà thơ – tất cả đều vội vàng, đều thấp thỏm lo muộn màng, đều nôn nao trước cảnh đường dài bóng xế.

Nhưng đi đâu?

Bìm bịp chiều chiều kêu nước lớn

Đi, đi đâu, chèo chống mỏi mê

Đến ngã ba, đành theo một lối

Tiếc ngẩn không cùng theo lối kia.

Hai câu trên được gợi hứng từ câu ca dao quen thuộc ở miền Nam:

Bìm bịp kêu nước lớn, anh ơi

Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê.

Tô Thùy Yên không phải là người thương hồ. Ông không đi trên sông nước. Nước lớn và chèo chống mỏi mê chỉ là một cách nói. Vấn đề Tô Thùy Yên nêu ra liên quan đến vấn đề lịch sử. Điệp điệp trùng trùng trong lịch sử hiện đại là những ngã ba, ngã tư, ngã năm, ngã bảy. Không còn nữa, những quốc lộ, những đại lộ thênh thang dẫn về một hướng. Chỉ có những ngõ ngách rối rắm, chằng chịt, những con đường đi quanh quẩn và bế tắc.

Lịch sử đất nước chưa bao giờ phức tạp và bị phân hóa đến thế. Phức tạp và phân hóa ngay trong tư tưởng của mỗi người. Ngày xưa, nhớ lại coi, tất cả đều đơn giản biết mấy. Lúc nào, ở đâu cũng chỉ có một lý tưởng chói sáng. Từ “người khách chinh phu” trong thơ Thế Lữ đến“người khách giang hồ”, trong thơ Lưu Trọng Lư đến những người “khách độc hành” trong thơ Nguyễn Bính, thơ Trần Huyền Trân, tất cả đều là những kẻ dứt khoát, hoặc đi hẳn một con đường, hoặc ngồi lại hẳn một chỗ nhất định:

Ta đi, nhưng biết về đâu chứ?

Đã dấy phong yên khắp bốn trời

Thà cứ ở đây, ngồi giữa chợ

Uống say mà gọi thế nhân ơi.

(Nguyễn Bính)

Thời tiền chiến, các nhà thơ cùng lắm chỉ có chút “phân vân” kiểu “con cò trên ruộng cánh phân vân” của Xuân Diệu chứ chưa có những dằn vặt, những trăn trở đầy nhức nhối trước lịch sử. Nói cho đúng, họ chưa có ý niệm rõ ràng về lịch sử. Vấn đề lịch sử đặt ra lúc ấy khá đơn giản: họ tiếp tục cuộc sống cũ hoặc là phải vùng lên đánh đổ thực dân, giành lại độc lập cho tổ quốc.

Người đãng tử trong thơ Tô Thùy Yên, trái lại, không ngớt thao thức trước lịch sử, lòng nung nấu khát vọng hành động, nhưng trí lại chìm đắm trong mịt mù hoài nghi. Đi, ừ, thì đi. “Đến ngã ba đành theo một lối”. Nhưng vừa đi vừa phân vân: “Tiếc ngẩn không cùng theo lối kia”.

Tô Thùy Yên biện mình cho thái độ lưỡng lự của mình:

Thoáng nhớ có lần ta đọc trộm

Lược sử ta trong bí lục nào

Văn nghĩa mơ hồ không hiểu trọn

Thiên thu lóe tắt vệt phù du.

Nhà thơ bịa. Chả có bí lục nào hết. Ông cũng không hề đọc trộm. Lịch sử ta sờ sờ ra đấy. Và ông đã nắm bắt được, từ lịch sử ấy, cái kết luận này: bao nhiêu dâu biển, bao nhiêu biến thiên, cuối cùng, chỉ là “thiên thu lóe tắt vệt phù du”. Phù du. Lóe tắt. Thiên thu.

Thân phận con người, dưới ngòi bút Tô Thùy Yên, nhỏ nhoi đến tội nghiệp. So với cái vô hạn của trời đất, so với cái thiên thu của lịch sử, con người chỉ là một vệt đom đóm nhỏ nhoi, chập chờn, lóe tắt hư ảo.

Hẳn Tô Thùy Yên nhớ đến Lý Bạch:

Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt

Sở vương đài tạ không sơn khâu.

(Từ phú Khuất Nguyên mờ nhật nguyệt

Lâu đài qua Sở cỏ rêu xanh)

Nên ông nảy ra cái ý định giải quyết sự bế tắc bằng văn nghệ:

 

Thuận tay, ta ngắt một cành sậy

Làm cây sáo thổi cạn hồn sầu

Bay tản khắp vô cùng trống trải

Âm thừa tưởng lạc đến muôn sau.

Cây sậy có thể chỉ là cây sậy. Nhưng cây sậy cũng có thể là con người. Ý Pascal: “Con người chỉ là cây sậy biết suy tưởng”. Thơ Vũ Hoàng Chương: “Thơ đâu?… Hãy thắp vào cây sậy. Ánh lửa mười phương Nhật-nguyệt-đăng”. Biến cây sậy thành cây sáo là biến chính mình thành bài thơ để âm vang cái nỗi niềm “những điều trông thấy mà đau lớn lòng”. Như Nguyễn Du.

Nhà thơ, như vậy, trước hết, là một kẻ bất lực. Bất lực trong cuộc đời. Trong bài Phương, Tô Thùy Yên viết: “Văn nghệ, tôn giáo của những anh hùng bất lực”. Nhưng nhìn trong thăm thẳm thời gian, vượt qua lớp lớp những thời đại khác nhau, nhà thơ lại là người chiến thắng. Chiến thắng sự quên lãng. “Bất tri tam bách dư niên hậu”. Thơ Nguyễn Du. “Âm thừa tưởng lạc đến muôn sau”. Thơ Tô Thùy Yên.

Riêng tôi, tôi tin lắm, là, thơ Tô Thuỳ Yên sẽ còn lại mãi. Mãi mãi.

*

ĐÃNG TỬ

Ngày kia trở lại Ngôi nhà Lớn,

Lòng những bằng lòng một kiếp chơi.

 

Bạn có nghe, này bạn có nghe

Ở bìa rừng bên, gió sửa soạn

Tuần du – cuộc tuần du bất tận.

Bạn có nghe, này bạn có nghe

Giữa tầng trời cao, chim giục giã

Từng giàn như những thủy triều sôi.

Bạn có nghe, này bạn có nghe

Trên đỉnh non nhòa, mây xôn xao

Về nơi hẹn nào không định trước.

Bạn có nghe, này bạn có nghe

Vũ trụ miên man chuyển động đều.

Chim đã bay quanh từ vạn cổ,

Gió thật xưa, mây thật già nua.

Nên với một đời, bao biến đổi

Mà trong vô hạn có chi đâu.

 

Ly rượu rót mời, xin uống cạn.

Bài ca ta hát đến đâu rồi?

Xin hát nốt – còn đi kẻo muộn

Cho úp ly – bóng xế đường dài…

Bìm bịp chiều chiều kêu nước lớn.

Đi, đi đâu, chèo chống mỏi mê?

Đến ngã ba, đành theo một lối,

Tiếc ngẩn không cùng theo lối kia.

Thoáng nhớ có lần ta đọc trộm

Lược sử ta trong bí lục nào,

Văn nghĩa mơ hồ không hiểu trọn,

Thiên thu loé tắt vệt phù du…

Thuận tay, ta ngắt một cành sậy

Làm cây sáo thổi cạn hồn sầu

Bay tản khắp vô cùng trống trải,

Âm thừa tưởng lạc đến muôn sau…

 

Trich chương XV: Đọc thơ, trong sách “Nghĩ về Thơ”,
Nxb Văn Nghệ, 1989

 

Giấc mơ không dứt đó của thần linh

Nguyễn Tà Cúc

Thơ Tô Thùy Yên nói tuyền về một nỗi khắc khoải của cuộc nhân sinh, niềm vô

vọng trước sự bí nhiệm không cùng của vũ trụ. Ông được nhiều người đọc.

Người đọc ông ở đủ lớp tuổi, thuộc nhiều thành phần khác nhau. Được thế vì

ngôn ngữ thơ ông tuy tân kỳ nhưng lại vô cùng cũ, vô cùng dân gian: Đôi bàn

tay vỗ nháng âm thanh … (Mòn Gót Chân Sương Nắng Tháng Năm), Nỗi đời bi

thiết xé lưa tưa. Hòn ngói lia bay bay mặt nước (Tưởng Tượng Ta Về Nơi Bản

Trạch), Đời im lìm đóng váng xanh xao (Ta Về) … Nhưng người thơ trước sự bí

nhiệm ấy không chỉ cúi rạp xuống, và dù có khòm lưng vì gánh nặng nhân sinh

vẫn không ngừng hỏi han bản thể mình. Cái linh của người gặp cái thần của chữ

để bày tỏ giấc mơ không dứt mong rời bỏ thân phận con người vô ích sáng

choang (như món trang hoàng đeo lên Hư Vô đen ngời bóng lộn) mà tới nơi vĩnh

cữu, vô biên …Nhà thơ Tô Thùy Yên hiện sống tại Saint Paul, Minnesota. Bài này

được thực hiện qua nhiều cuộc nói chuyện, hoặc bằng điện thoại, hoặc bằng thư

từ, trong thời gian khoảng hơn một tháng, xong trước tháng 11-1998. (NTC).

 

***

Nói chuyện với nhà thơ Tô Thùy Yên

– Sang bên này anh mới cho xuất bản tập thơ đầu. Qua thơ anh, người đọc có thể đoán rằng anh ngả theo chủ thuyết hư vô, phải thế không? Nên việc có để lại thơ hay không, không quan trọng. Nếu thế sao bây giờ đủ quan trọng để in thơ?

– Tập thơ xuất bản năm 1996 của tôi ở Mỹ không hẳn là tập thơ đầu mà chỉ là một gom chọn phần lớn những bài thơ đã xuất hiện từ lâu của tôi, như cái tên đặt cho nó, THƠ TUYỂN (1). Hiểu đó là những bài thơ rải rác của tôi lần đầu in thành tập có lẽ đúng hơn. Tại sao không in thành tập trước năm 1975, bây giờ mới in? Câu hỏi này, nhiều người đã đặt ra cho tôi. Thật tình, tôi không muốn giải thích làm ra quan trọng sự việc đó. Nhưng đã được hỏi thì tôi cũng xin nói qua.

Trước năm 1975, sở dĩ tôi đã không gom thơ in thành tập, chủ yếu là vì tôi không bận tâm lắm về duyên phận những bài thơ đã đăng báo của mình. Tôi thiết nghĩ nếu những bài thơ đó hay thì người đọc nhớ, không hay thì bị quên, hà tất phải in thành tập. Mặt khác, tôi vẫn cảm thấy còn có nhiều bất ổn đáng tiếc trong những bài thơ đó nên có ý lần lữa tự hẹn lúc nào rảnh rang sẽ làm siêng gom góp sửa sang. Và điều đó cứ gay gắt với tôi như là mình đã không làm trọn vẹn trách vụ.

Sau này, ngay khi còn đang ở trong tù và nhất là khi đã sang Mỹ, tôi được một số anh em nhắc hỏi về những bài thơ đó, những bài thơ mà tôi hầu như chẳng còn nhớ mảy may nào. Và tôi chợt nhận ra cái lỗi trước kia của mình là đã công bố những bài thơ đó. Cuối cùng, được sự khuyến khích thúc giục của một số anh em xa gần, đã quen hoặc chưa, nhất là những anh em đã lưu giữ thơ tôi và gửi lại cho tôi, kể cả những bài thơ được làm trong những hoàn cảnh đặc biệt sau năm 1975, tôi đã tuyển chọn in ra thành tập. Thâm tâm, tôi cũng muốn những bài thơ đó đã lỡ được biết đến, thôi thì cũng một lần được mồ yên mả đẹp, siêu tán phiêu diêu, để tôi còn được nhẹ nhàng tiến tới những bài thơ khác, tôi hy vọng như vậy.

Thêm nữa, tôi cũng còn muốn, qua việc xuất bản đó, gián tiếp nói lên với nhà cầm quyền hiện nay ở Việt Nam rằng tôi, giữa đông đảo những người cầm bút khác của miền Nam trước đây, đã chẳng hề chối bỏ những tác phẩm đã được hình thành trong quá khứ của mình, rằng qua bao nhiêu dập vùi đày đọa, những thi sĩ vẫn còn sống, thơ vẫn còn sống.

 Còn về chủ nghĩa hư vô?

– Xin lỗi vậy. Câu hỏi đó thuộc vào loại câu hỏi khó chịu đấy. Yêu cầu một tác giả tự nhận định, ước lượng về mình qủa là một sự ép cung hay mớm cung. Soi sáng một tác giả là một việc làm rất cần thiết. Tuy nhiên, rất tiếc đó không phải là công việc của chính tác giả đó. Một tác giả muốn nói gì, nói tới đâu, nói được bao nhiêu là chỉ nói qua sáng tác văn chương của mình, chớ không thể nói gì thêm bên ngoài sáng tác đó. Điều này mặc nhiên thuộc về phần tu sỉ của tác giả, phần đức lý của nghệ thuật. Như Alfred de Vigny, đọc sách, ít khi tôi chịu đọc những bài tựa bạt của chính tác giả.

– Chỉ có những người yếu bóng vía mới bị ép cung hay mớm cung thôi chứ! Nếu “soi sáng tác giả là một việc làm rất cần thiết” thì độc giả rất cần biết ý kiến của tác giả vì tác giả cũng chính là độc giả đầu tiên của mình. Trong tinh thần đó, mọi câu hỏi chỉ có nghĩa rất giản dị là chờ đợi một sự chia sẻ giữa tác giả và độc giả, không có nghĩa là một sự hỏi cung. Nếu hỏi cung đã có những câu hỏi khác không dính gì đến cuộc đời làm thơ của anh đâu!

Đây sẽ lại là một câu hỏi còn “khó chịu” hơn nữa nhưng vẫn hỏi! Cho đến nay, ở ngoại quốc nghĩa là ở ngoài Việt Nam – đã không có một thế hệ mới nào khả dĩ có thể kế tục những thế hệ trước về mặt sáng tạo và tài năng. Về tuổi tác, kế thế hệ Nhượng Tống, Phan Khôi, Nhất Linh, Khái Hưng, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử … người đọc nghĩ đến thế hệ Vũ Khắc Khoan, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Mặc Đỗ, Trần Trọng San, Võ Phiến, Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo, Sơn Nam, Bùi Giáng, Nguyên Sa … Rồi tới thế hệ Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn, Dương Nghiễm Mậu, Lê Tất Điều, Nguyễn Đình Toàn …

Xét về thơ, thế hệ anh còn vượt trội hơn cả. Bài “Nỗi Buồn Trong Thơ Hôm Nay” của Thanh Tâm Tuyền, “Cuộc Phó Hội U Minh” của Viên Linh và mới đây, bài của anh là ba bài viết về thơ tiêu biểu ở ba thời điểm, ba hoàn cảnh khác nhau của thế hệ này. Cứ theo tình hình này mà ngẫm thì sau thế hệ các anh, độc giả sẽ phải đối diện với một khoảng cách đặc (chữ của anh). Không khéo, “Nỗi Buồn Trong Thơ Hôm Nay” sẽ còn đúng cho ít nhất là mươi mười năm nữa sao?

– Câu hỏi này chẳng những khó trả lời mà là không nên trả lời. Văn nghệ không phải là tjời tiết, nên tiên đoán thế này, thế kia về tương lai văn nghệ là một việc làm hoàn toàn vô ích, bởi mọi tiên đoán thường chẳng lấy gì làm đúng, và nếu như có may mắn đúng đi nữa thì cũng chẳng để làm gì cả.

Hiện tình văn nghệ có tới đâu rồi thì nhìn thấy tới đó thôi. Nhiều khi có những tài năng lớn đã sừng sững xuất hiện rồi mà còn chưa được nhìn thấy ngay nữa, huống hồ … Tuy nhiên, ai lại chẳng mong mỏi là văn nghệ mỗi ngày một mới mẻ, một khởi sắc cho phù hợp với nhu cầu tinh thần của cuộc sống đã không ngừng biến đổi. Là nỗi buồn trong thơ hôm nay phải cho ra nỗi buồn trong cuộc sống hôm nay. Khỏi hỏi qua, tôi cũng chắc Thanh Tâm Tuyền hoàn toàn đồng ý như vậy. Tôi sung sướng được đọc những tác phẩm hay, và còn sung sướng hơn gấp bội nếu những tác phẩm hay đó lại là của những tác giả mới trẻ. Có người cùng chạy với mình vẫn vui thích hơn là chạy thui thủi một mình. Tiền đã bất kiến cổ nhân, hậu lại bất kiến lai giả, cái cảnh quạnh hiu đó quả là đáng sợ.

– Đây chúng ta không nói đến chỉ một tác giả. Và nhận xét trên dựa trên những thế hệ tác giả đã xuất hiện sừng sững rồi. Quả như anh nói, người ta không nên bắt mạch văn nghệ để xem tương lai phấn chấn hay èo uột ra sao. Mượn lời – chứ không phải mượn ý – Văn Cao thì văn nghệ không phải là một con bệnh, lâu lâu lại phải đi khám, hay chủng ngừa những bệnh hay lây. Nhưng vẫn có những vấn đề văn nghệ đáng chú ý tới.

Thí dụ như đã có rất nhiều nổ lực để giải nghĩa một hiện tượng được loay hoay bàn thảo từ nhiều năm nay, là tại sao chúng ta không có tác phẩm lớn ghi lại sự khốc liệt của thời kỳ qua. Chưa nói đến tác phẩm lớn vội, nhiều người còn mày mò đi tìm lý do của sự hao kiệt, cùn mằn của một số tác giả có tên tuổi trước 1975. Một bài “Ta Về” của Tô Thùy Yên không đủ lớn sao? Biến cố 1975 có lẽ giúp chúng ta được một điều là chúng ta sớm có hoàn cảnh để thẩm định lại giá trị văn chương của nhiều tác giả. Có lẽ khỏi cần đi tìm nguyên nhân đâu cho xa xôi, một số tác giả chỉ có thể viết tới đó mà thôi. Bởi thế, kỳ vọng vào những tác giả này vô ích. Anh định nghĩa một tác phẩm quan trọng như thế nào?

– Tôi đồng ý phần lớn với cô. Quả biến cố 1975 đã đẩy ra nhanh chóng hơn cái khoảng cách thời gian thông thường cần thiết để nhận định giá trị thật sự của những tác phẩm văn chương. Mặt khác, sự đàn áp có hệ thống bằng cách cấm đoán và cố tình im lặng của một chế độ chính trị cũng góp phần rất lớn vào tiến trình khắc nghiệt đó. Lý do chính yếu rất dễ nhìn thấy là lịch sử và ngay kế sau là đời sống đã biến đổi toàn diện, triệt để, cho nên nghệ thuật cũng đã phải nhanh chóng biến đổi theo.

Sinh hoạt văn học nghệ thuật thời nào cũng có cái phần giả hình tạm bợ của nó. Và đương nhiên cái phần này dễ dàng tan tác thảm hại theo ngay cái thời đại đã cho nó mượn hồn. Người ta gọi một cách đơn giản đó là sự đãi lọc của thời gian. Lịch sử loài người mang một đặc tính, đặc tính gia tốc liên tục. Do đó, so qua với những thời đại trước đây, nghệ thuật càng ngày càng thay đổi nhanh chóng hơn.

Đành rằng không thể gạt bỏ yếu tố thời đại trong sinh hoạt văn học nghệ thuật, nhưng cuối cùng rồi, văn học nghệ thuật chỉ trọn vẹn là vấn đề tài năng mà thôi. Một trường võ bị không đào tạo anh hùng. Cũng y như vậy, một thời đại không đào tạo thiên tài văn học nghệ thuật. Đó là những sự kiện hoàn toàn có tính cách cá nhân. Và có thể một cá nhân thích hợp với một thời đại, nhưng rồi lại chẳng còn thích hợp với thời đại kế tiếp. Cứ bóc đại một thí dụ nào cũng chắc đúng. Chẳng hạn thi tài lỗi lạc Xuân Diệu trước 1945, và cái ông làm thơ tồi Xuân Diệu sau 1945. Rất đáng tiếc cho Xuân Diệu đã chẳng có nổi cái bản lãnh cần thiết của Boris Pasternak, tác giả đã thành danh trước Cách Mạng Nga 1917.
– Còn thế nào là một tác phẩm quan trọng?

– Theo thiển ý của tôi, một tác phẩm quan trọng là một tác phẩm gây được chấn động lớn nơi tâm não người đọc khiến cho sau đó, người đọc, dù là đồng ý hoặc không, vẫn phải tự mình điều chỉnh, thay đổi bằng một cách nào đó chính nhận thức của mình về đời sống. Một tác phẩm quan trọng có ma lực ám ảnh lâu dài người đọc, khiến người đọc còn muốn trở lại như bị bứt rứt là mình chưa hiểu được nó thấu đáo. Một tác phẩm quan trọng bao giờ cũng còn khư khư chứa giấu một cách hấp dẫn những điều gì đó, không chịu thổ lộ hết một lần một. Tính u hiển là tính phải có của nghệ thuật vốn cả thẹn nên sẵn sàng dị ứng sinh tử với mọi phô bày phàm tục. Chắc chắn không phải là tác giả cố tình mập mờ huyền hoặc một cách giả tạo, mà chỉ vì nghệ thuật hoàn toàn không có khả năng nói rõ, nói trắng những điều gì đó thật khó nói. Do đó, thông thường một tác phẩm quan trọng có cái phản lực nội tại chối đẩy đối với lần xâm nhập đầu tiên của người đọc. André Gide kể lại là sau khi đọc chừng vài chục trang, ông đã tức ném cuốn LA CONDITION HUMAINE xuống Địa Trung Hải (2).

– Bài “Ta Về” được chuyển ra ngoại quốc khi anh còn ở Việt Nam. Thay vì tên tác giả là hai chữ Ẩn Danh. Bài thơ này gây xúc động sâu xa. Có bao giờ làm thơ, anh nghĩ đến phản ứng của độc giả, nhất là trong tình cảnh mà anh làm bài “Ta Về”?

– Có đôi khi, tôi cũng thử viễn kiến phản ứng của một vài độc giả mà tôi quen biết, đối với một bài thơ nào đó của tôi. Nhưng thường thì không, nhất là khi đang còn làm bài thơ đó. Bởi lẽ tôi làm thơ trước hết là vì tôi, cho tôi, đơn giản là như vậy. Sau khi làm xong, nếu không vứt vào sọt rác, để một thời gian có khi lâu vài năm, cảm thấy thích cho đăng thì liệu báo nào chịu đăng thì gửi đăng, vậy thôi. Chớ tôi chẳng bao giờ tự đặt trước cho mình một trách nhiệm, một sứ mạng văn học nghệ thuật nào cả.

Tôi rất sợ những nhận định, cương lĩnh, tuyên ngôn văn học nghệ thuật này nọ. Những thứ đó quả là quá to tát với tạng người của tôi. Tất nhiên, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về những bài thơ đã cho đăng của tôi, một trách nhiệm, xét cho cùng, cũng chỉ là một trách nhiệm hữu hạn. Hơn nữa, như đã nói, tôi cũng không quan tâm mấy đến duyên phận của những bài thơ tôi. Dù rằng mỗi bài thơ, như mỗi cuộc đời, đều có số phận riêng biệt của nó, hoàn toàn ở ngoài tầm kiểm soát và sự lường đoán của chính tác giả.
Riêng bài “Ta Về”, khi làm xong, tôi chỉ có chép ra một hai bản cho một hai người bạn của tôi, và trong hoàn cảnh của chúng tôi lúc bấy giờ, dưới những bài viết chuyền cho nhau xem chơi, không ai đề tên tác giả cả. Và tự tôi đã chẳng hề gửi nó ra ngoài. Cho đến bây giờ, tôi cũng chưa biết nó đã lọt ra ngoài qua ai và bằng cách nào nữa

– Khi nào thì anh cảm thấy “thích cho đăng”?

– Lúc tôi quyết định cho đăng những bài thơ đã làm chính là lúc tôi tưởng nghĩ đến những tâm hồn bạn đã quen hoặc không trong trời đất hẳn nhiên cũng có những trôi nổi ở trong lòng cần tìm thấy một chút ấm áp vỗ về của tình liên đới nhân sinh, với niềm hy vọng rằng thơ trở thành miền đất hứa của những tâm hồn thất lạc xót thương nhau.

– Bài thơ “Chiều Trên Phá Tam Giang”, một trong những bài thơ điển hình nhất của anh, đã không thể đăng trên báo Văn năm 1972 vì qua lời nhà văn Mai Thảo nói lại với nhà thơ Viên Linh thì chủ nhiệm Nguyễn Đình Vượng sợ báo Văn bị lôi thôi với cơ quan kiểm duyệt và có thể bị đóng cửa. Lúc đó, Viên Linh, chủ nhiệm và chủ bút tạp chí Thời Tập, mới liên lạc với anh và do đó bài này đăng trên tờ Thời Tập. Hẳn nhiên, sự lo ngại của chủ nhiệm Nguyễn Đình Vượng là có căn cớ. Tình trạng chính trị lúc bấy giờ chắc chắn không dung thứ những câu:

Ngươi cùng ta ai thật sự hy sinh

Cho tổ quốc Việt Nam – một tổ quốc …

 

Hay ghê gớm hơn nữa:

Ta thương ta yếu hèn,

Ta thương ngươi khờ khạo,

Nên cả hai cùng cam phận quay cuồng,

Nên cả hai cùng mắc đường Lịch Sử,

Cùng mê sa một con đĩ thập thành …

Thơ anh, trước năm 1975, có những điều có thể làm mích lòng bà nạ dòng kiểm duyệt. Sau năm 1975, con đĩ thập thành nhốt anh vào tù cũng vì thơ. Thế kiếp sau anh còn muốn làm thi sĩ nữa không? Đừng nói kiếp sau, tại sao anh vẫn làm thơ ở kiếp này?

– Có lẽ tôi là người làm thơ đã vô phước mắc phải nhiều lận đận điêu đứng với văn chương vô mệnh. Nói như trẻ con miền Nam: Thần khẩu hại xác phàm. Những lúc đó, tôi nghĩ đến Khuất Nguyên, Tư Mã Thiên, Cao Bá Quát, … để thấy mình còn được may mắn chán. Còn việc có tiếp tục làm thơ nữa hay không quả không thể là quyết định của mình, nhiều khi tôi cũng muốn bỏ quách việc văn chương đi và thực tế đã bỏ nhiều lần lắm rồi, có lần đến mấy năm trời, chớ chẳng phải là không, cũng như bỏ thuốc lá. Và như đã nói, tôi làm thơ là vì tôi, cho tôi, nên nếu thơ còn là nguồn hạnh phúc tối hậu của tôi, nếu tôi còn thấy cấn làm thơ thì làm, kiếp này đã vậy, chắc hẳn qua những kiếp sau cũng như vậy nữa mà thôi. Bởi tôi đã quan niệm ngay từ đầu rằng thi sĩ là một trạng thái sống, chớ chẳng phải là một danh phận xã hội gì cho cam, nên việc còn làm thơ nữa hay không chẳng phải là chuyện phải nói ra cho mọi người cùng biết với.

Tôi nhớ một bài thơ của Basho:

Con ve sầu

Liệu có còn ca hát chăng

Nếu như nó biết được thêm một thứ gì khác nữa? (3).

– Là người của nhóm Sáng Tạo, anh thấy cái không khí trong nhóm thế nào? Khi tờ Sáng Tạo đình bản lần đầu, anh có cộng tác với tờ Văn Nghệ. Không khí của tờ Văn Nghệ ra sao? Nói chung, sinh hoạt văn nghệ của anh như thế nào?

– Mặc dù gồm nhiều lứa tuổi chênh lệch nhau, nhiều nghề nghiệp khác biệt nhau, những người trong nhóm Sáng Tạo, người thân ít, người thân nhiều, nhưng đều là thân với nhau cả, không có ai là đầu đàn, ai là cuối đàn. Gọi là nhóm chớ thực tế, tất cả chúng tôi đều hoàn toàn biệt lập nhau, chúng tôi chỉ cùng chia sẻ với nhau một số quan điểm đơn giản về văn nghệ, thế thôi. Bài vở chọn đăng, gần như một mình Mai Thảo làm lấy, không hỏi ý kiến ai. Về thưởng ngoạn nghệ thuật, Mai Thảo tinh tế thính nhậy, hình như ảnh chưa từng nhìn sai, bỏ sót một tài năng mới nào. Hơn nữa, Mai Thảo rất xứng đáng trong vai trò chủ báo, ảnh hân hoan một cách thần khải mỗi khi có dịp phát hiện một bài viết hay, hoặc một tác giả hứa hẹn sẽ viết hay ở những bài viết sắp tới. Sau này, ở đâu, ảnh có làm xã trưởng văn nghệ thì cũng phải thôi. Nói chung, thời gian Sáng Tạo ngắn ngủi là thời gian văn nghệ hào hứng nhất trong đời tôi. Sau này, có thêm tuổi trải qua nhiều cảnh đời, tôi không còn tìm thấy một hào hứng nào tương tự. Một thời thế đã đi qua, một lứa tuổi của mình đã không còn nữa. Còn lại chăng chỉ là tình bạn một đời giữa những người trong nhóm.

Tôi đến với tờ Văn Nghệ vì chơi thân với chủ nhiệm Lý Hoàng Phong, anh ruột của Quách Thoại. Lý Hoàng Phong là một người bạn rất tốt, tận tâm, dung dị và rất dễ gần gũi. Thể theo lới yêu cầu của Lý Hoàng Phong, tôi đảm nhận chức vụ Tổng Thư Ký Tòa Soạn cho đến cuốn năm 1963 khi nhận được lệnh nhập ngũ Khóa 17 Thủ Đức. Tờ Văn Nghệ tiếp tục cũng cố tên tuổi cho nhiều cây bút trẻ mới. Ở đó, tôi thân với vài người bạn, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Trung, Nguyễn Nghiệp Nhượng … Nhìn chung, tất cả những cây bút cộng tác đều đã thể hiện những nỗ lực tuyệt vời, chỉ tạm kể vài cái tên: Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn …Tuy nhiên, cái không khí văn nghệ chung của miền Nam lúc bấy giờ không còn được như trước nữa. Chiến tranh lan lớn. Các tác giả không còn mấy ai rảnh rang.

Nhìn lại, tôi tự thấy mình là một tác giả gần như không có cái gọi là sinh hoạt văn nghệ, hoặc giả nếu có thì cũng chỉ là năm thì mười họa, mon men loáng thoáng bên lề thế giới văn nghệ mà thôi, dù rằng tôi rất yêu thích, trân trọng những buổi họp mặt thân hữu trò chuyện thực sự thú vị và bổ ích.

Phải, tôi có rất ít bạn đáng gọi là bạn. Thì giờ rảnh, chắc chắn tôi thích, hoặc một mình hoặc với đôi ba người bạn, thả rong ra đồng, lên rừng xuống biển hơn là ngồi làm mẫu ở những quán cà phê, phòng trà. Hơn nữa, tôi cũng ngầm hãnh diện là chưa từng gia nhập bất kỳ một hội đoàn văn hóa văn nghệ, hay một đảng phái chính trị nào. Mặc dù, sau này, khi bị nhà cầm quyền Cộng Sản bắt tới bắt lui vì thơ phú chữ nghĩa, nhận được rất nhiều sự giúp đỡ tinh thần và vật chất của nhiều hội đoàn ngoài nước, bất ngờ làm hội viên danh dự của một số Trung Tâm Văn Bút ngoại quốc, tôi vẫn chứ là hội viên thông thường của Văn Bút, chẳng hạn. Cũng như có rất nhiều tác giả nổi tiếng cùng thời, lớn tuổi hoặc trẻ tuổi hơn, mãi đến bây giờ, tôi vẫn chưa được hân hạnh làm quen hay biết mặt. Mấy năm nay, sang Mỹ, tôi ở Minnesota, đất này xa xôi lạnh lẽo, thưa người và tôi cũng ít giao du.

– Anh nói rất đúng: đã không phải cái tạng hay cái ý chí của mình thì không nên. Không phải ai cũng là một nhà thơ được như anh, nên không phải nhà văn nào cũng vừa cầm bút vừa là đảng viên mà tuy phân cách rõ ràng hai phần, phần nào cũng xuất sắc, cũng cống hiến được toàn vẹn như Nhượng Tống, như Nhất Linh … Hay có cái hiếm hoi bội phần là cùng lý tưởng, tài văn cùng nghiêng ngửa để thành Tự Lực Văn Đoàn, hay Hàn Thuyên … Cộng thêm sự may mắn nữa. Ở trường hợp Sáng Tạo mà anh đã nhắc, cái may mắn ấy không tới hai lần dù xã trưởng văn nghệ Mai Thảo vẫn có dịp làm chủ nhiệm, chủ bút, vẫn tiền hô hậu ủng như thường lệ. Còn Văn Bút thì như anh đã biết, sau 1975, nếu Văn Bút Quốc Tế không có Ủy Ban Văn Nghệ Sĩ Bị Cầm Tù thì hẳn có nhiều anh em cũng chẳng muốn gia nhập làm gì để tốn tiền niên liễm mỗi năm!

Anh vốn không có tạng viết cương lĩnh, tuyên ngôn văn học, tham gia đảng phái. Thế bài thơ đầu tiên của anh, anh còn nhớ không? Viết … cương lĩnh về tình yêu, thuần là một bài thơ tình hay mượn cớ thơ tình để nói về Như bào thai, Chân Lý lớn cư an … (“Chim Bay Biển Bắc”)?

– Tôi hoàn toàn không nhớ bài thơ đầu tiên tôi làm trong đời là bài thơ nào, và nó như thế nào, nhưng tôi chắc chắn đó không phải là một bài thơ tình. Nếu tôi thích làm một bài thơ tình thuần túy như cô nói, thì tôi sẽ làm thôi, chớ việc gì phải quanh co mượn cớ tình yêu để treo móc nhập nhằng những thứ chẳng phải là tình yêu. Nếu như chuyện đó có xảy ra, chẳng qua là vì trong tâm tưởng tôi, nhận thức về tình yêu không thể biệt lập với những nhận thức căn bản khác về đời sống. Thơ, nói chung, tự nó, là những trôi nổi ở trong lòng. Tôi làm thơ chỉ vì vậy, và về việc này, tôi chỉ có thể nói được đến như vậy thôi, chớ chẳng biết nói gì hơn.

Vả lại, tôi cũng có cảm tưởng là người làm thơ được là người không có trước cái tham vọng làm được thơ. Dường như hoạt động thơ không hề giống với những hoạt động khác của con người. Nói như thế, tôi cũng không hàm ý huyền hoặc hóa làm gì chuyện làm thơ, một chuyện tự nhiên thôi. Thơ, nói chung, tự nó, là một cái gì hốn nhiên trôi chảy, như gió như nước, không chấp nhận bị gò ép, đặt để. Tôi làm thơ chỉ vì những bứt rứt, thôi thúc ở trong lòng.

– Thơ anh khiến người ta phải đọc đi đọc lại. Không phải vì khó đọc hay khó hiểu mà vì ngấm từ từ như rượu. Độc giả Võ Phiến có nói: Tại hạ hữu bệnh, bệnh mết thơ Tô Thùy Yên. Ông cụ còn nói thêm: Đọc thơ Tô Thùy Yên, tâm gan bấn loạn. Phần anh, anh có đọc lại thơ anh không? Cảm tưởng của anh thế nào? Có còn muốn sửa chữa thay đổi gì nữa không?

– Được đọc đi đọc lại, quả là một cái may lớn cho thơ tôi. Bản thân tôi, tôi khinh miệt sự lộ liễu tỏ tường trong nghệ thuật. Trong thực chất, nghệ thuật vốn là một nỗ lực gần như vô vọng nói lên cái không thể nói được, cái có nói cũng không cùng. Hiểu nghệ thuật là một quyến rũ tìm kiếm phát hiện cũng đúng. Phần tôi, đối với thơ mình, sau này nhờ có in sẵn thành tập, tiện tay nên tôi có nhiều dịp đọc lại. Cảm tưởng lắm lúc cũng hay hay, có bài lâu lắm mới trở lại, thấy như là của ai đó khác chớ chẳng phải là của chính mình. Những lúc đó, không tránh khỏi ngậm ngùi.

Nghệ thuật bao giờ cũng có cái mùi của quá khứ. Không cần phải tinh mũi lắm cũng có thể dễ dàng ngửi thấy. Cũng do đó, khi đọc lại, sau một thời gian xa lìa như khoảng cách nhìn ngắm cần thiết giữa bức tranh và họa sĩ, thì thường đọc lại như một độc giả phê bình, không còn bị những quấn cuốn vướng víu của cái cảm hứng sáng tác nữa, nên thấy rõ hơn, do đó cứ muốn điều chỉnh, hiệu đính. Đỗ Phủ, Giả Đảo, Paul Valéry, Octavio Paz, … cái danh sách những thi sĩ thôi xao (4), bôi bôi xóa xóa những bài thơ của mình chắc chắn phải là dài vô tận tuyệt.

Tục truyền, Vương Bột đắm thuyền chết đã lâu mà hồn vẫn chưa tan, đêm đêm còn tức tưởi đi lại ngoài bãi quạnh, cũng chỉ vì hai câu thơ đã lỡ khắc vào thiên cổ của mình:

Lạc hà dữ cô lộ tề phi.

Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc.

vẫn chưa được hoàn chỉnh. Dường như ông tiếc hối sao đã chẳng kịp bỏ đi hai chữ dữ và cộng khá thừa, hai câu thơ sẽ mãnh liệt hơn, ảo diệu hơn …

– Anh còn có điều gì thôi thúc trong lòng muốn nói thêm?

– Thưa có. Thú thật, cho đến bây giờ, tôi vẫn còn thấy sợ mỗi khi bị gọi ra “làm việc”. Nói lên, cứ lo là nói lôi thôi, trời biển, mang tiếng lập ngôn. Xin hết ạ.

– Cám ơn anh.

(Khởi Hành: số 26 tháng 12/1998)

Chú thích (tạp chí Khởi Hành)

(1) THƠ TUYỂN, Tô Thùy Yên, tác giả xuất bản, 1995. Không phải 1996. Sách dầy 220 trang. Thật ra, tháng 11-1994, thơ Tô Thùy Yên đã được in thành tập tại Đức, nhan đề Tô Thùy Yên, TUYỂN TẬP THƠ, dầy 136 trang, nhà xuất bản lmn. Năm sau Tô Thùy Yên đã sửa chữa, và thêm một ít bài mới, in thành tập Thơ Tuyển.

(2) LA CONDITIONE HUMAINE, THÂN PHẬN CON NGƯỜI, tác phẩm của André Malraux. được trao giải Goncourt năm 1933. Một nhóm cộng sản ở Thượng Hải, dưới quyền điều khiển của Kyo Gisors, và của Katow, sửa soạn cuộc nổi dậy chống lại Tưởng Giới Thạch.

(3) Matsuo Basho (1644 – 1694), thi sĩ Nhật, sinh tại Ueno, Iga, nổi tiếng với những bài haiku 17 chữ. Ảnh hưởng Thiền tông, ông du hành không ngừng và hoàn thành kiệt tác THE NARROW ROAD TO THE DEEP NORTH năm 1689.

(4) Thôi, Xao nghĩa đen là đẩy, gõ. Nhà thơ GIẢ ĐẢO đời Đường, vừa cuốc bộ, vừa làm thơ. có một câu phân vân mãi không biết là nên dùng chữ thôi (đẩy) hay chữ xao (gõ), nên có quan lớn ngồi xe đi qua mà không biết để kính chào. Ông quan này cũng là thi sĩ, tên Hàn Dũ, bèn mời lên cho qúa giang, và hỏi đang lẩm nhẩm cái gì. Giả Đảo bèn đọc hai câu thơ:

Điểu túc trì biên thụ,

Tăng xao nguyệt hạ môn,

nghĩa là: Chim ngủ trên cây cao, Sư gõ cửa dưới trăng, nhưng không biết nên dùng chữ gõ (xao) hay đổi là chữ đẩy (thôi). Hàn Dũ khuyên nên dùng chữ xao. Từ đó Thôi Xao trở thành điển cố, nói về sự chọn chữ khi làm thơ của mấy chàng thi sĩ.

 

Tô Thùy Yên (1)

Thu Tứ

 

Anh hùng tận
Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Trường Sa hành
Trời mưa đêm xa nhà
Góa phụ
Đãng tử
Tưởng tượng ta về nơi bản trạch
Qua sông
Vườn hạ
Em nhỏ, làm chi chim biển bắc
Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai

*

Tô Thùy Yên khởi thi nghiệp trong nửa sau của thập kỷ 1950, chủ yếu làm thơ tự do, là hình thức thơ đang “nóng” ở Miền Nam lúc bấy giờ. Đến khoảng giữa thập kỷ 1960, Tô Thùy Yên chợt bắt đầu làm nhiều thơ luật. Về nghệ thuật, Tô Thùy Yên rất thành công với thơ luật và không mấy thành công với thơ tự do.

Thơ Tô Thùy Yên chứa thứ nội dung gì? Võ Phiến bảo nó “có chủ đề triết lý”.(1)

Triết có mấy “quan”. Tô Thùy Yên chuyên trị vũ trụ quan. Cái nhìn vũ trụ của ông ra sao? “Tôi hoàn toàn không tin vào Thượng Đế như một Đấng Toàn Thiện, Toàn Năng.”(2) Tức ông không tin Chúa. Mặt khác, tuy Tô Thùy Yên thỉnh thoảng có dùng một đôi từ trong kinh Phật, thậm chí có “đi về” “suốt bãi sông Hằng”(3), nhưng hình như trước sau Phật cũng không xuất hiện lồ lộ trong thơ ông lần nào. Không Phật không Chúa, cũng không xướng lên một triết thuyết mới… Lại Võ Phiến: “Băn khoăn siêu hình là chủ yếu (…) Gần như toàn bộ sự nghiệp thi ca của ông là một dấu hỏi khổng lồ nêu lên trước cái bí ẩn muôn đời của vũ trụ.”

Thế thì đối với vũ trụ Tô Thùy Yên có thái độ giống Chế Lan Viên sao? Tưởng không hẳn. Chế Lan Viên thiên về nghĩ, trong khi Tô Thùy Yên thiên về cảm, tuy không cảm nhiều như Huy Cận. Ông Tô lại đặc biệt “nhạy” với thời gian, như ông từng tâm sự: “Thời gian (…) là nỗi ám ảnh lớn lao thường trực của tôi.”(4) Vậy người gần ông nhất chính là Võ Phiến chứ ai!(5)

Vẫn về nội dung, Võ Phiến bảo vì thơ Tô Thùy Yên có nội dung siêu hình nên ông “gần gũi miền Bắc tận trong tâm hồn”. Như chúng tôi có lần bàn, “nội dung siêu hình có hai loại. Thơ Tô Thùy Yên thuộc loại ngoài truyền thống, tức tâm hồn ông gần Trung, không phải gần Bắc. Thơ ấy gần với thơ Hàn, thơ Chế, thơ Huy, thơ Võ v.v. hơn là với thơ Phạm Thiên Thư chứ. Nó ít giống Ba Vì, mà giống Trường Sơn đi lạc xuống đồng bằng sông Cửu!”(6)

Không Bắc về nội dung, nhưng thơ Tô Thùy Yên có chỗ chia xẻ với văn học miền Bắc. Ấy là việc sử dụng tiếng Việt hết sức điêu luyện. Dĩ nhiên đó không do tình cờ. Nhà thơ đã nhận thức đúng: “Những chữ trong một câu thơ thành công (…) là những chữ (…) không thể thay thế bằng những chữ tương tự nào khác được”(7), và đã ra công thực hiện cho được cái lý tưởng văn chương.

… Tô Thùy Yên là người Nam. Cái chất Nam nó nằm đâu trong thơ ông nhỉ? Ở ngôn ngữ và ở hình tượng, tuy nói chung không rõ ràng lắm.

Tô Thùy Yên làm thứ thơ tiếng Nam cảnh Nam, nội dung Trung, với lời điêu luyện như lời Bắc! Thơ ấy có những bài hay vào bậc nhất trong lịch sử thi ca Việt Nam.

Vì thơ Tô Thùy Yên nhiều bài rất dài, cho tiện phổ biến phải chia làm mấy tuyển. Sau đây là tuyển 1, chọn từ những bài làm trước 1975.

Anh hùng tận

“Phía phía rừng tràm xanh mịt mịt”, chính giữa là rừng “anh hùng tận” “dô, dô tở mở” đến nỗi “muỗi thủy triều” cũng phải tạm rút!

“Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi…”.(8)

Dĩ nhiên các “hào sĩ” bạn bè không tên của “ta” đã nâng nắp bi-đông đựng rượu đế mà “túy ngọa sa trường”!

Lời bài thơ toát ra được rất mạnh mẽ cái cảm xúc độc đáo trong một buổi chiều đã có thể cuối cùng…

—-

Dựng súng trường cởi nón sắt
Đơn vị dừng quân trọn buổi chiều
Trọn buổi chiều, ta nhậu nhẹt
Mồi chẳng bao nhiêu, rượu rất nhiều
Đây ngã ba sông, làng sát nước
Xuồng ba lá đậu kế chân bàn
Trời mới tạnh mưa còn thấp ướt
Lục bình, mây mỏi chuyến lang thang
Mấy kẻ gặp nhau nào có hẹn
Nên gặp nhau không giấu nỗi mừng
Ta gạn dăm lời thơ tặng bạn
Dẫu từ lâu bỏ việc văn chương
Thiệt tình tên bạn ta không nhớ
Nhưng mà trông mặt thấy quen quen
Hề chi, ta uống cho say đã
Nào có ra gì một cái tên…
Tới đây toàn những tay hào sĩ
Sống chết không làm thắt ruột gan
Cũng không ai nhắc về thân thế
Có vợ con mà như độc thân
Bạn hỏi thăm ta cho có lệ
Cuộc đời binh nghiệp. Ta cười bung:
Còn mươi tháng nữa lên trung úy
Có thể ngày mai chửa biết chừng
Mặt bạn mặt ta còn trắng cả
Như mặt trời chiều mới tạnh mưa
Tiếng hò mời “dô, dô” tở mở
Muỗi thủy triều chừng cũng giạt ra
Phía phía rừng tràm xanh mịt mịt
Sông không bờ, trời cũng không chân
Người thuở trước tìm vàng khẩn đất
Tiêu xác thân, để lại oan hồn
Ngày nay, ta bạn đến đây nữa
Đất thì không khẩn, vàng không tìm…
Bạn nhủ ta: đừng hỏi khó
Uống mất ngon vì chuyện loạn tâm
Ta chắt cho nhau giọt rượu sót
Tưởng đời sót chút thiếu niên đây
Giờ cất quân, đưa tay bắt
Ước cõi âm còn gặp để say.

 

Hề, ta trở lại gian nhà cỏ

Đọc tên thi phẩm sau đây, sực nhớ truyện Tam Quốc. Do “bị” Lưu Huyền Đức “tam cố”, Khổng Minh phải rời “thảo lư” lên đường giúp Lưu săn hươu. Mấy chục năm đầy sóng gió, quân sư đôi khi có nhớ “gian nhà cỏ”?

Vào năm làm bài Hề… (trước 1975) Tô Thùy Yên đi chưa xa, thế mà ông đã tưởng tượng ngày trở lại. Nói tưởng tượng, vì thời cuộc lúc ấy đâu dễ dàng cho bất cứ ai “lẳng lặng đi đi khuất, trong lãng quên xanh hút thời gian”.

Dù sao, thi sĩ “trở lại gian nhà cỏ” là để vui thú điền viên, để “lòng ta vô sự, ta vui vẻ”, có thực chăng? E không đâu. Vô sự lối gì mà, chẳng hạn, đứng “ngắm gốc cây nứt nở vỏ” lại “nghĩ tới bao điều thầm lặng lớn (mà) trí ta không đủ lực đo lường”! Thường xuyên bị “bao điều thầm lặng lớn” ám ảnh, là Tô Thùy Yên đó. Đi hay về, vẫn cứ bị “ám” nặng thôi.

Quân sư tính toán chuyện quân, đánh được một trận Xích Bích thích chí. Nhà thơ băn khoăn chuyện cây nứt vỏ, viết nên trăm câu thơ một hơi, chắc cũng thích chí.

—-

Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Giữa cánh đồng không, bên kia sông
Trống trải hồn ta cơn gió rã
Tiếng tàn tàn rụng suốt mênh mông

Hừng đông hùng vĩ và thanh thản
Sương hứa nguyên ngày nắng rực say
Ta dậy khi gà truyền nhiễm gáy
Chân mây rách đỏ vết thương dài

Ta ngồi trước ngõ nghe xao động
Trời đất bào thai cựa cựa nhanh
Mầm cỏ ngoi ngoi lên rạo rực
Con chim chèo bẻo hót lanh chanh

Ta ngồi cho đến khi trời trắng
Đồng ruộng xanh đông đúc tiếng người
Ta rảo quanh làng hóng chuyện phiếm
Đời người cũng chuyện phiếm mà thôi

Ở đây, ta có dăm người bạn
Phúc tự tâm, không lý đến đời
Ở đây, ta có dăm pho sách
Và một dòng sông, mấy cụm mây

Dòng sông u hiển trôi vô lượng
Dòng sông hiền triết chảy vô tâm
Mà ta ngưỡng vọng như sư phụ
Mà ta thân thiết tựa tri âm

Lòng ta vô sự, ta vui vẻ
Bướm với hoa cùng bay nhởn nhơ
Mùa hạ tàn trôi trôi đóm lửa
Dòng ngày tháng trắng chảy lơ mơ

Quên quên, nhớ nhớ tiền sinh kiếp
Thiên cổ mang mang, thế sự nhòa
Trận lốc cười tròn trên quá vãng
Ta làm lại cả tâm hồn ta

Buổi trưa như buổi trưa nào đó
Tiếng võng đưa đưa tịch mịch mùi
Điệu hát ầu ơ hoa cỏ lịm
Nước mây buồn bã chợt quên trôi

Ta thiếp trong vòm xanh đại thọ
Đời đời giương rộng lượng bao dung
Ví dầu ta ngủ không còn dậy
Ắt hẳn lòng ta cũng dửng dưng

Chuyện trần thế bấy lâu thanh thỏa
Sống một ngày, ta rõ một ngày
Thôi vướng mắc dài duyên với nợ
Ân oán đời, phong kiếm rửa tay

Còn lại chăng cây đàn lở tróc
Gảy mình nghe đôi điệu xưa xưa
Còn lại chăng chút u hoài mốc
Pha cùng rượu uống đến say thua

Gặp buổi trời mưa bay phới phới
Lá cành sáng rỡ sắc hồi xuân
Ta nhìn ngọn cỏ, lòng mê mẩn
Nghĩ tới đời ràn rụa thâm ân

Sống trên đời, chuyện ghê gớm quá
Vậy mà ta sống có kỳ không?
Nước mắt ta tuôn khi nghĩ tới
Những người đã chết, chết như rơm…

Gặp buổi trời trong dàn bát ngát
Ngọn cây ô! đã giát hoàng hôn
Cơn gió mơn man bờ bụi rậm
Kể dạo quanh vườn chuyện trống không

Ta ngắm gốc cây nứt nở vỏ
Gốc cây to đến mấy người ôm
Nghĩ tới bao điều thầm lặng lớn
Trí ta không đủ lực đo lường

Nên ta phó mặc cho trời đất
Trời đất vô ngôn lại bất nhân
Nên ta lẳng lặng đi đi khuất
Trong lãng quên xanh hút thời gian

Đêm tối êm ru lời thủ thỉ
Bên hè có tiếng dế ca ran
Vầng trăng ta thấy thời thơ ấu
Mọc lại cho ta thuở xế tàn

Hình như mọi sự đều như thế
Kể cả lòng ta cũng thế thôi
Các việc vô công làm miết miết
Quên tiệt đời ta như nấm mai

Trăng, bạn hiền xưa giờ tái ngộ
Ta thức đêm nay chơi với trăng
Nghĩ tội thương sau này, mãi mãi
Trên mồ ta, trăng phải lang thang

Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Sống tàn đời kẻ sĩ tàn mùa
Trên dốc thời gian, hòn đá tuột
Lăn dài kinh động cả hư vô

Xa nghe đợt gió lên cơn bão
Nhân loại quay cuồng biến đổi sâu
Bầy chó năm châu cắn sủa rộ
Quỉ ma cười khóc rợn đêm thâu

Cuộc cờ kỳ lạ không bày tướng
ăn sạch quân, trừ lính được thua
Hỡi ai tráng sĩ mài dao nhọn
Xin nhớ đời không mỗi sắc vua

Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Tử tội mừng ơn lịch sử tha
Ba vách, ngọn đèn xanh, bóng lẻ
Ngày qua ngày, cho hết đời ta.

 

Trường Sa hành

Có lần bảo Hát Ngao Trên Tuyết của Cao Tần là bài hành xuất sắc thứ tư của thơ Việt Nam. Bảo thế là lỗi trầm trọng: năm 1974 Tô Thùy Yên có bài “hành Trường Sa” tuyệt vời.

Lỗi to, vì nỗi: hành Cao Tần cùng loại nội dung với hành Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Thanh Nam, trong khi hành Tô Thùy Yên khác hẳn, khiến đầu óc người đọc tự nhiên xếp nó vào một chỗ khác…

Trong khi bốn “hành sĩ” kia không lúc nào rời mặt đất, Tô Thùy Yên hay đi lạc tận… cõi Vô Biên.

Ngoài Vô Biên, thân “hữu hạn” tha hồ “tủi nhỏ nhoi”, tha hồ “đập hoảng” mà gọi “đất liền”, mà cố mở cho kỳ được “khoảng cách đặc”!

Trường Sa, có phải bất quá một cái vỏ đặc biệt thích hợp cho ông Tô tuôn những cảm xúc vũ trụ độc đáo của mình vào…

Cảm xúc mạnh, thơ dài mà như làm một hơi. Còn thơ nào hơn.

—-

Trường Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh choáng
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề
Lính thú mươi người lạ sóng nước
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi

Mùa Đông Bắc, gió miên man thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh Lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ

Đảo hoang, vắng cả hồn ma quỉ
Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lên xác thân người mãi đứng yên

Bốn trăm hải lý nhớ không tới
Ta khóc cười như tự bạo hành
Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục
Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh

Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi ?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời

Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt
Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi
Đám cây bật gốc chờ tan xác
Có hối ra đời chẳng chọn nơi ?

Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh

Mặt trời chiều rã rưng rưng biển
Vầng khói chim đen thảng thốt quần
Kinh động đất trời như cháy đảo…
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân

Ta ngồi bên đống lửa man rợ
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi

Chú em hãy hát, hát thật lớn
Những điệu vui, bất kể điệu nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu

Ai hét trong lòng ta mỗi lúc
Như người bị bức tử canh khuya
Xé toang từng mảng đời tê điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê

Ta nói với từng tinh tú một
Hằng đêm tất cả chuyện trong lòng
Bãi lân tinh thức âm u sáng
Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng

Đất liền, ta gọi, nghe ta không ?
Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng
Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc
Con chim động giấc gào cô đơn

Ngày. Ngày trắng chói chang như giũa
Ánh sáng vang lừng điệu múa điên
Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
Kêu giòn như tiếng nứt hoa niên

Ôi! Lũ cây gầy ven bãi sụp
Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh
Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã
Hay đến ngày bờ tái tạo xanh

San hô mọc tủa thêm cành nhánh
Những nỗi niềm kia cũng mãn khai
Thời gian kết đá mốc u tịch
Ta lấy làm bia tưởng niệm Người.

 

Trời mưa đêm xa nhà

Đêm mưa lạnh, “góc ga thưa”, có một cái… tượng ngồi chờ tàu.

Gần tượng, có “đường sắt phân ly mấy cành”, có “gỗ tênh hênh” trong vòng tay cỏ, có “đèn le lói (như) vết thương tươi”.

Xa tượng, nhưng không xa lắm, có núi “khoác rừng dày ngồi lì”.

Núi dầm mưa không biết có lạnh không, chứ người không dầm mưa, không bị “giọt cường toan” nào nhỏ trúng, mà tim cứ “quằn quại hàng hàng”…

—-
Ga dầm mưa chịu co ro
Cưu mang tàu thấm rét chờ sáng đi
Khoác rừng dày núi ngồi lì
Vân vi đường sắt phân ly mấy cành
Vài thân súc gỗ tênh hênh
Cỏ ôm ấp hẳn lãng quên tay người
Đèn le lói vết thương tươi
Trời da thi thể mưa ngùi chấm than
Hiên ga nhỏ giọt cường toan
Xuống tim quằn quại hàng hàng ưu tư
Trong cơ thể máu chần chừ
Ngoài trời khói thuốc vật vờ ngại bay
Làm gì đây để giải khuây
Ngắm tay mới biết mình gầy hơn xưa
Ngồi chờ tàu góc ga thưa
Nghe hồn ẩm mốc một mùa lạnh căm.

 

Góa phụ

Ai khóc ai đêm khuya, trong tiếng “chó tru thăm thẳm ngây thiên địa”?

Có là không, “em khóc hoài chi” cái nỗi có hóa không.

—-
Con chim nhào chết khô trên cửa
Cửa đóng tự ngàn năm bặt âm
Như đạo bùa thiêng yểm cổ mộ
Sao người khai giải chưa về thăm?

Em chạy tìm anh ngoài cõi gió
Lửa oan khốc giỡn cười ghê hồn
Tiếng kêu đá lở long thiên cổ
Cát loạn muôn trùng xóa dấu chôn

Em độc thoại lời kinh ánh xanh
Trăng lu khuya mỏi nén nhang tàn
Chó tru thăm thẳm ngây thiên địa
Mái ngói nghiêng triền trái rụng lăn

Ngọn đèn hư ảo chong linh vị
Thắp trắng thời gian mái tóc em
Tim đập duỗi ngoài thân nỗi lạnh
Hồn xa con đóm lạc sâu đêm

Cỏ cây sống chết há ta thán
Em khóc hoài chi lẽ diệt sinh
Thảng như con ngựa già vô dụng
Chủ bỏ ngoài trăng đứng một mình.

 

Đãng tử

Vào lúc làm bài thơ này, khoảng cuối thập kỷ 1960 đầu thập kỷ 1970, “đãng tử” Tô Thùy Yên đã “tuần du” được mấy đâu, “một đời” đã “biến đổi” được “bao” đâu, thế mà đã tưởng tượng đến ngày “trở lại ngôi Nhà Lớn”!

Từ bấy đến nay, “vũ trụ miên man chuyển động”, người “đi, đi đâu, chèo chống mỏi mê”, vừa chèo vừa “thuận tay (…) ngắt một cành sậy” “làm cây sáo thổi cạn hồn sầu”, thổi thành thơ “bay tản” khắp trong ngoài nước…

Thiết tưởng “ngày kia” trong “ngôi Nhà Lớn”, nếu (hồn) thi sĩ được ngồi đọc lại tất cả mình, đọc đến những bài như Đãng Tử, chắc “lòng những bằng lòng một kiếp thơ”!

—-

Ngày kia trở lại ngôi Nhà Lớn
Lòng những bằng lòng một kiếp chơi.
Bạn có nghe, này bạn có nghe
Ở bìa rừng bên gió sửa soạn
Tuần du – cuộc tuần du bất tận
Bạn có nghe, này bạn có nghe
Giữa tầng trời cao chim giục giã
Từng giàn như những thủy triều sôi
Bạn có nghe, này bạn có nghe
Trên đỉnh non nhòa, mây xôn xao
Về nơi hẹn nào không định trước
Bạn có nghe, này bạn có nghe
Vũ trụ miên man chuyển động đều
Chim đã bay quanh từ vạn cổ
Gió thật xưa, mây thật già nua
Nên với một đời bao biến đổi
Mà trong vô hạn có chi đâu
Ly rượu rót mời, xin uống cạn
Bài ca ta hát đến đâu rồi
Xin hát nốt – còn đi kẻo muộn
Cho úp ly – bóng xế đường dài
Bìm bịp chiều chiều kêu nước lớn
Đi, đi đâu, chèo chống mỏi mê
Đến ngả ba, đành theo một lối
Tiếc ngẩn không cùng theo lối kia
Thoáng nhớ có lần ta đọc trộm
Lược sử ta trong bí lục nào
Văn nghĩa mơ hồ không hiểu trọn
Thiên thu lóe tắt vệt phù du
Thuận tay, ta ngắt một cành sậy
Làm cây sáo thổi cạn hồn sầu
Bay tản khắp vô cùng trống trải
Âm thừa tưởng lạc đến muôn sau…

 

Tưởng tượng ta về nơi bản trạch

Đào Tiềm thì về thật, nên viết Qui Khứ Lai Từ. Còn Tô Thùy Yên thì chỉ mới tưởng tượng đến về, nên viết…

Ông Đào với ông Tô về hay muốn về, đều do không chịu được chuyện xảy ra nơi đang ở, chứ không phải do “nợ tang bồng” đã “trang trắng” mà “vỗ tay reo” mà về như ông Nguyễn (Công Trứ).

Ông Đào trả ấn từ quan về vui thú ruộng vườn. Ông Tô mơ về “bản trạch”, nhưng trong giấc mơ ít nhất lúc đầu ông chưa vui:

“Tưởng tượng ta về nơi bản trạch
Là rồi một chuyện kể chưa xong”,

“Ta bằng lòng phận que diêm tắt
Chỉ giận sao mồi lửa cháy suông”.

Vì lòng không vui, nên lắng tiếng sóng ông nghe tiếng “biển cử ai rần bãi rã rời”, trông hình “tàu chuối xác xơ” ông thấy “nỗi đời bi thiết xé lưa tưa”…

Thơ Đào Tiềm người ta hay nói tuy có cái vẻ bình dị, điềm đạm, nhưng không phải là không gọt giũa mà chính là “gọt giũa đến mức tự nhiên”.

Tô Thùy Yên trau chuốt thơ mình cũng rất thành công. Có điều, người có bình dị thì tự nhiên mới là bình dị. Tô Thùy Yên không bình dị, nên thơ Tô Thùy Yên sau khi đến mức tự nhiên vẫn không bình dị.

Cái đẹp muôn vẻ, thơ sao cho lộ được cái vẻ của mình!

—-

Tưởng tượng ta về nơi bản trạch
Gió đưa nhớ rải dọc trần gian
Trên đồng ngọn cỏ tranh khom mỏi
Đời nặng cơn bi lụy dịu dàng

Rồi thôi, im mãi, im vô vọng
Ta tiếc dài sao đã đến đây
Lờn rờn bóng lá đong đưa nắng
Thảm thiết dây leo quấn quít cây

Tưởng tượng ta về nơi bản trạch
Ơn dày chôn trả đất bao dung
Cụm mây trôi rã trong trời lớn
Như giấc chiêm bao thấy giữa chừng

Con đường đi mỏi mà không tận
Lượn sóng trên ghềnh nhọn rách tơi
Ai thở dài chi cho não nuột?
Cơn mưa hư tưởng mơ màng rơi

Tưởng tượng ta về nơi bản trạch
Về luôn như một tiếng kêu khơi
Đã buông trong bạt ngàn xanh ngắt…
Biển cử ai rần bãi rã rời

Chuồn chuồn vui đậu trên nhành lúa
Để lại bay đi lúc kịp buồn
Điệu hát nào lan man vướng vất
Như hơi ẩm mục mặt hồ sương

Tưởng tượng ta về nơi bản trạch
Đóa hoa buông cánh khi tàn hương
Tiếng rụng tuyệt âm rền tịch mịch
Dòng sông tới biển nức tuôn, tuôn…

Các mùa chuyển động trong trời trống
Di điểu qua sông xẻ luống sầu
Ly biệt chẳng từ hạt cát ngọc
Tuần hoàn đến cả giọt sương châu

Tưởng tượng ta về nơi bản trạch
Là rồi một chuyện kể chưa xong
Mùa hè cọ sát điên kim loại
Con quạ kêu ran giữa quãng không

Tàu chuối xác xơ reo ngất ngất
Nỗi đời bi thiết xé lưa tưa
Hòn ngói lia bay bay mặt nước
Chìm sâu dĩ vãng đục không dò

Tưởng tượng ta về nơi bản trạch
Bãi bùn trơ trẽn thủy triều lui
Con còng ẩn nhẫn bò quanh quẩn
Càng nhẹ tênh trên cõi ngậm ngùi

Ta bằng lòng phận que diêm tắt
Chỉ giận sao mồi lửa cháy suông
Thôi nói, bởi còn chi để nói
Núi xa, chim giục giã hoàng hôn

Tưởng tượng ta về nơi bản trạch
Áo phơi xanh phới nhánh đào hồng
Mùa xuân bay múa trên trời biếc
Ta búng văng tàn thuốc xuống sông.

 

Qua sông

Bờ sông thường cao hơn mặt sông rõ ràng. “Đứng trên bờ nhìn xuống”, “đến bến, lên bờ” v.v. Nhưng ở trong Nam có những nơi bờ sông thấp gần sát mặt nước. Đứng ở những nơi ấy, thấy mặt sông cao như ngang… mặt mình, thấy như đã gần dinh… Hà Bá, sợ lắm!

“Mùa mưa đã tới”, ở “châu thổ mang mang trời nước sát” giữa người đã gục với người chưa gục có “độ cao” gì đáng kể đâu. Cho nên trông “đám”, người trông rất dễ

“… Nao nao mường tượng bóng mình
Mịt mùng cõi tới u minh tiếng rền”.

U minh “trào lên mắt ngời” trước mặt. Bước tới vài bước, coi như “đời đã bỏ quên”…

—-

Đò nghẹn đoàn quân xa tiếp viện
Mưa lâu trời mốc buồn hôi xưa
Con đường đáo nhậm xa như nhớ
Chiều mập mờ, xiêu lạc dáng cò
Quán chật xanh lên rừng lính ướt
Mặt bơ phờ dính gió bao la
Khí ẩm mù bay, mùi thuốc khét
Chuyện tình cờ nhúm ấm cây mưa
Vang lên những địa danh huyền hoặc
Mỗi địa danh nồng một xót xa
Giặc đánh lớn – mùa mưa đã tới
Mùa mưa như một trận mưa liền
Châu thổ mang mang trời nước sát
Hồn chừng hiu hắt nỗi không tên
Tiếp tế khó – đôi lần phải lục
Trên người bạn gục đạn mươi viên
Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc
Trong vết thương người bạn nín rên
Người chết mấy ngày chưa lấy xác
Thây sình mặt nát lạch mương tanh…
Sông cái nước men bờ sóng sánh
Cồn xa cây vướng sáng mơ màng
Áo quan phong quốc kỳ anh liệt
Niềm thiên thu đầm cỗ xe tang
Quê xa không tiện đường đưa tiễn
Nghĩa tận sơ sài đám lạnh tanh
Thêm một chút gì như hối hả
Người thân chưa khóc ráo thâm tình…
… Nao nao mường tượng bóng mình
Mịt mùng cõi tới u minh tiếng rền
Xuống đò, đời đã bỏ quên…
Một sông nước lớn trào lên mắt ngời.

 

Vườn hạ

Tô Thùy Yên năm ấy mới 36 tuổi, sao lại “Tím hận một đời…” với “Tuổi già gom lại…”? Coi vậy, chớ “mùa hạ trước” qua cũng đã hăm mấy năm rồi. “Mai kia mốt nọ”, tính đại thêm hăm mấy năm nữa, để khi “anh về chơi” cho đủ tuổi!

Tính năm tính tháng đùa chút thôi, chớ cũng biết người trẻ hồn già là chuyện có xảy ra. Hồn một khi đã “chín” thì thời gian có khi không trôi nữa:

“Trời cao mỏi mắt, chòm mây bạc
Thăm thẳm trưa, thời gian chết xanh
Ngoài quãng chói chang hư ảo múa
Dường như ai réo ấu danh anh…”.

“Mai kia mốt nọ anh về chơi”, nằm một mình dưới gốc cây nghe “ve kêu như biển lâng lâng dậy”, nghe “mương nước rì rào sao sáng thở”, nghe “thủy triều lui bậc bậc sầu”, có lúc cất bước loanh quanh khiến “chú dế giang hồ (quen) hát say sưa dưới cỏ buồn” sợ, nín hát, làm “cô tịch bưng ồn như máu tuôn”…

“Anh”, thiệt ngộ hết chỗ nói!

“Thơ ấu, dậy đi, mừng dụi mắt
Cùng anh chạy nhảy tiếp thời vui”!

—-

Mai kia mốt nọ anh về chơi
Vườn ủ đêm dư, nắng mật ngời
Thơ ấu, dậy đi, mừng dụi mắt
Cùng anh chạy nhảy tiếp thời vui.

ăn trái chín cây mùa hạ trước
Thấy nhành ớt động bóng chim quen
Hỏi em, em lấy chồng xa xứ
Hỏi bạn, bạn lìa quê bặt tin

Thời gian đứt quãng dài vô định
Như sợi dây diều băng mất tăm
Lòng anh thảng thốt, sông chao sóng
Kỷ niệm buông tay rú ngất chìm

Ai ngắt giùm anh cây cỏ sướt
Làm đôi gà đá, đá ăn cười
Mùa hè đi khuất kêu không lại
Bãi mía điêu tàn gốc cháy thui

Trời cao mỏi mắt, chòm mây bạc
Thăm thẳm trưa, thời gian chết xanh
Ngoài quãng chói chang hư ảo múa
Dường như ai réo ấu danh anh

Hàng cây đứng bóng ôm tròn gốc
Đất ẩm vương hương cỏ trở màu
Ai cúi soi mương rong khỏa mặt
Thấy hồn mùa cũ đọng xanh xao

Còn đợi cây mưa lớn bất thần
Ấu thơ, mừng nhá, chạy la rân
Đá bong bóng nước cơn vui vỡ
Mưa tạnh, ngồi nghe tuổi hạ tàn

Ve kêu như biển lâng lâng dậy
Xô giạt hồn anh mộng chập chờn
Ngủ chín giấc chiều trên xác lá
Tàn măng âu yếm đắp thân đơn

Mênh mang lưu thủy trường trăng lạnh
Con chó tung tăng giỡn bóng mình
Mương nước rì rào sao sáng thở
Đài hoa sương nạm hạt lân tinh

Đây rồi, chú dế giang hồ ấy
Vẫn hát say sưa dưới cỏ buồn
Nghe tiếng chân người chợt nín lặng…
Cô tịch bưng ồn như máu tuôn

Thấp thoáng ánh đèn rây lưới lá
Đàn ai lên cổ khúc hoài lang
Tình ơi, ta hát thầm theo nhạc
Lời nhớ, lời quên, dạ xốn xang

Đêm lịm chầy khuya, trăng nhợt sương
Liễu đi đâu tóc xõa canh trường
Con chim lạc bạn kêu trời rộng
Hồn chết trôi miền dạ lý hương

Nằm đây phủ sáng hằng hà sao
Nghe thủy triều lui bậc bậc sầu
Nghe tiếng mõ chùa khô khốc khóc
U minh ngày tháng bóng lao đao

Cát bụi đã đành thân tấm mẳn
Thì danh với phận kể mà chi
Cảm thương con cá thia lia bại
Có sót huy hoàng cũng xếp vi

Cọc xu thảy hết ra ngoài mức
Đồng cái, thua buồn cũng liệng sông
Tím hận một đời tay cứng vụng
Chơi cầu âu cả cái tâm ngông

Em có tìm không mùa hạ trước
Chiếc vành xưa đánh lạc về đâu?
Đám tranh thuở ấy cao là vậy
Vành lạc, chân không ngại bước vào…

Cây cỗi càng sưng vết chặt lồi
Chờ nhau cho đáng kiếp chờ thôi
Tuổi già gom lại bao thương tưởng
Như cuối vườn chiều mót củi rơi.

 

Em nhỏ, làm chi chim biển bắc

Đọc mấy câu “(em) biệt xứ ra đi, trời bắt tội”, “còn anh hệ lụy chằng trăm rễ”, “em đẩy làm chi cửa não nề”, chợt nhớ một cái truyện ngắn cũng của Tô Thùy Yên. Trong Nơi Chốn Đi Qua, “tôi” và Phụng rất thân nhau, hoàn cảnh khiến xa nhau, cả hai cùng bất như ý trong cuộc sống, một hôm tình cờ gặp lại…

Tôi trách “em nhỏ, làm chi chim biển bắc”, nhưng thực ra tôi đâu có đi tìm em ở biển nam. Thực ra, chuyện em và tôi không quan trọng gì cả.

“… Còn vọng hằng hà sa số kiếp
Lai sinh trời đất cũ chưa quên”.

Yêu em, chẳng qua tôi yêu trời đất! Nhớ em, chẳng qua là tôi tưởng niệm thời gian!

—-

Em nhỏ, làm chi chim biển Bắc
Xa rồi đám lửa cuối thiên thu
Cửa thần phù dựng trường sơn sóng
Mỗi ngọn xô chìm một giấc mơ

Ôi những con đường đến tự đâu
Một lần gặp gỡ ngã tư nào
Rồi trong vô hạn chia lìa miết
Có cuốn theo mình bụi của nhau?

Biệt xứ ra đi, trời bắt tội
Dài tơ tưởng rụng tóc mai xanh
Trôi mòn vóc đá tào khê thức
Nhướng mỏi ngàn sao đáy lặng thinh

Còn anh hệ lụy chằng trăm rễ
Cam phận cây rừng tối đẫm rêu
Nấm tủa tầng tầng thân mục tới
Như mùa hoa trối tuổi già xiêu

Em đẩy làm chi cửa não nề
Bản lề khô kẽo kẹt hôn mê
Nhện giăng tơ mốc nhà hoang lạnh
Tiếng gọi rền vang gỗ đá ê

Dựng dậy hồn oan dĩ vãng nào
Con chim thần thoại mắt khoen sâu
Giật mình như đã ngàn năm ngủ
Giũ bụi lông, cất khản tiếng gào

Có nhớ không em rừng bóng lạnh
Gốc cây ngời giọt nắng sao thưa
Gió ru mê mệt trưa tàn tạ
Hạnh phúc đùa xa tiếng thực hư

Khép mắt cho hồn bay diệu vợi
Mà yêu đến khóc, đến u mê
Để khi mở mắt, ta nhìn thấy
Cả cuộc đời ta có đáng chi

Cây rách sâu thân chắt giọt lòng
Nghiệp hờn trả nghĩa đất bao dung
Mùa hè cháy hực cơn cuồng nộ
Ồ, máu thơm còn ứa chẳng ngưng

Đồi lộng đưa nhau xuống cuối ngày
Thấy âu sầu hiện mỗi thân cây
Cỏ cao quấn quíu chân chùng bước
Ghim xót xa đầy vạt áo bay

Làm sao đi hết những con đường
Gió với cây cùng khóc hợp tan
Mỗi đóa hoa trên đồng chói lọi
Cũng xui phù thế ngậm ngùi thân

Cầu hân hoan chết như mưa lũ
Nước kéo nhau đi trẩy khắp miền
Còn vọng hằng hà sa số kiếp
Lai sinh trời đất cũ chưa quên.

 

Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai

Đọc “những người…” sau đây, nhớ “thập loại chúng sinh”.

Xưa đại loạn qua, phần ai nấy tế. Nguyễn Văn Thành xông pha trận mạc, tế riêng tướng sĩ. Nguyễn Du “trải qua một cuộc”, chắc “trông thấy” không sót “điều” gì, nên tế chung tất cả cô hồn. Bài tế “mười loài” kết thúc với nội dung tôn giáo rõ ràng:

“Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi”

Hồi Tô Thùy Yên làm thơ, đại loạn chưa qua. Thi sĩ không tế, lại hình như không có niềm tin nhất định, bèn chọn “biểu dương”. “Biểu dương cùng tận” xong, “rồi tất cả sẽ nguôi ngoai”…

Hoặc sau bể dâu hoặc trong bể dâu, hoặc đậm màu tôn giáo hoặc không, “cảm sầu dội, xuyên suốt tâm linh” nên thơ để đời.

Để ý, trong thơ xưa chỉ toàn “cô hồn thất thưởng dọc ngang”, trong thơ nay ngoài người kia kẻ nọ “thương thay” còn sừng sững “ta lớn lao và ta cô đơn”!

—-

Ra đi như nước ao lền đặc
May gặp ngày mưa lớn thoát tràn
Râu tóc rạng ngời, gậy trúc bóng
Nẻo thơm trần thế, gió hân hoan

Ra đi như một bình minh lạ
Trên kỷ nguyên chưa kịp hiện hình
Thi sĩ Bắc Nam đều chết rạp
Ba trăm năm lịch sử làm thinh

Ra đi như một âm thanh sáng
Xuyên suốt tâm linh, dội cảm sầu
Hỡi gã du hành, hãy cất tiếng
Bài ca thiên cổ chẳng thành câu

Tự do, ta thết mừng điên đảo
Cuộc tiệc trăm năm nhục thánh thần
Dưới bóng bao trùm hạt cát tỏa
Đền rêu, miếu cỏ lạnh ma hoang

Con đường vô định chưa ai tới
Hay tới nơi, thôi chẳng trở về
Hỡi gã du hành, hãy nói lại
Những điều ngươi thoáng thấy như mê

Ta mò đoán nghĩa dòng hư tự
Mòn nét trong thiên địa ngập ngừng
Ta thấy mặt tinh cầu xếp nếp
Như lằn nhăn tuổi tác hư không

Những người thuở trước giương cung cứng
Cưỡi ngựa điên, hoa kích ngàn cân
Một trận tan tành ba triệu địch
Nửa chiều chết đứng hận giai nhân

Những người thuở trước đi tìm mộng
Lạc suối mê, hoa giạt ngược dòng
Theo tiếng kinh quan san biệt dạng
Buộc sầu, xõa tóc, thả thuyền rong

Những người thuở trước say vô hạn
Mơ thuốc trường sinh lạc xác phàm
Níu cánh chim bằng qua biển gió
Cây minh linh tốt mấy ngàn năm

Những người thuở trước tham chung đỉnh
Áo mũ xênh xang chốn ngọ môn
Sơ thất, thương thay thân xuống lính
Đày ra quan ngoại, chết không chôn

Những người thuở trước như là mộng
Diễm tuyệt dung nhan thảo mộc sầu
Hương phấn bay lừng xa khỏi kiếp
Tiếng cười xé rách núi sông đau

Những người thuở trước bây giờ lạc
Trong dã sử nào như bóng mây
Trong trí nhớ nào như giọng hát
Hỡi ôi, trời đất lạnh tình thay!

Hỡi ôi, gió nổi lên cùng khắp
Giục gã du hành rảo bước thôi!
Ta uống giếng hoang, ăn trái lạ,
Tâm hồn mãi mãi mới tinh khôi

Nhiều khi ta ngước lên ngơ ngẩn
Nghe tiếng chim quen bay trớt qua
Bóng thoáng như bàn tay dịu mát
Lau nhanh hơi mỏi mặt mày ta

Hoàng hôn xô bóng ta trên cát
Ta lớn lao và ta cô đơn
Ngưỡng mộ cây xương rồng gắng gượng
Thân trần đứng lẻ giữa đồng trơn

Bình minh như một làn da phỏng
Ta dạo men bờ sóng tuyệt mù
Cảm phục bồi hồi biển nhẫn nại
Bắt đầu mãi mãi lượn thiên thu

Biểu dương – hãy biểu dương cùng tận
Vinh dự lầm than của kiếp người
Hi hữu một lần trên trái đất
Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai.

 

Trong bộ Văn học Miền Nam, phần Thơ.

(2) TTY trả lời phỏng vấn, đăng trong Lê Quỳnh Mai, Tác giả, với chúng ta, nxb. Khôi Nguyên, Mỹ, 2004.

(3) Đi Về và Suốt Bãi Sông Hằng là tên hai bài thơ của TTY.

(4) TTY trả lời phỏng vấn, xem chú thích 2.

(5) Xem bài Nét Siêu Hình Trong Văn Miền Trung của TT, đăng trên trang gocnhin.net.

(6) Xem bài Đất Nào Văn Nấy của TT, đăng trên trang gocnhin.net.

(7) TTY trả lời phỏng vấn, xem chú thích 2.

(8) Bài Lương Châu Từ của Vương Hàn: “Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi / Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi / Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu / Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”.

 

 

Đọc Trường Sa Hành của Tô Thùy Yên

Nguyễn Thị Thảo An

Mấy năm gần đây khi tình hình Biển Đông trở nên căng thẳng, nhiều người trong nước đã tìm đọc bài thơ Trường Sa Hành của nhà thơ Tô Thùy Yên. Nhiều bạn đọc tỏ ý tiếc, Trường Sa Hành là một bài thơ hay nhưng thiếu tính chiến đấu.

Người trong nước ít nhiều chịu ảnh hưởng của nền văn học Chủ nghĩa Xã hội, thường quen với quan điểm văn nghệ phục vụ cho chính trị, văn nghệ là vũ khí… nên lấy làm ngạc nhiên về tác phẩm lẫn tác giả.

Nói về bài Trường Sa Hành của Tô Thùy Yên, ngoài giá trị văn chương, bài thơ còn có một giá trị lịch sử đặc biệt. Bài thơ được sáng tác trong một chuyến du hành thăm đảo trong bối cảnh Hoàng Sa vừa bị Trung Cộng đánh chiếm (3/1974). TTY là một nhà thơ đầu tiên đặt chân đến Trường Sa, viết một bài thơ đầu tiên cho Trường Sa. Bài thơ có một ý nghĩa chính trị về chủ quyền lãnh thổ mà người Việt nào tha thiết với vận mệnh đất nước không thể không biết tới.

Nội dung bài Trường Sa Hành diễn tả tâm trạng những người lính trấn thủ trên đảo. Ở thời điểm đó, Trung Cộng có thể tiến chiếm Trường Sa bất cứ lúc nào. Có thể họ sẽ là những người nối gót Ngụy Văn Thà mới vừa tử thủ ở Hoàng Sa, hay theo dấu những người lính vô danh trong lịch sử.

Trước khi nói đến những người lính thời nay, xin nhắc sơ hình ảnh người lính thời xưa còn sót lại.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử của chiến tranh. Thế mà trong lịch sử, qua bao nhiêu chiến thắng lẫy lừng chống ngoại xâm, hình ảnh người lính oanh liệt ngày xưa biến đi đâu mất. Trong văn học sử chỉ ghi lại hình ảnh người lính tầm thường, nghèo nàn đến tội nghiệp.

“Ngang lưng thì thắt đai vàng
Đầu đội nón dấu vai mang súng dài
Một tay thì cắp hỏa mai
Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.”

Nước mắt như mưa thì làm sao đánh giặc?

Mà không cứ gì đi ra trận mới khóc. Người lính đóng quân ở nơi cheo leo cũng than thở đến xót ruột.

“Ba năm trấn thủ lưu đồn
  Ngày thời canh điếm, tối dồn việc quan
 Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
 Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
 Miệng ăn măng trúc măng mai
 Những dang cùng nức biết ai bạn cùng
 Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng”

Tại sao tác giả lại lấy hình ảnh “con cá nó vẫy vùng” trong giếng nước trong để kết thúc bài? Hình ảnh con cá này đã ám ảnh tôi suốt từ thời đi học. “Con cá nó vẫy vùng” mà không phải là “con cá vẫy vùng”.

Câu thơ là một câu than. Nước giếng trong veo, không có mồi làm sao con cá sống? Ở chốn thâm sơn, cơm gạo đâu ra để người lính sống?

Cái cảnh người lính phải xoay sở để tự nuôi thân chính là cái cảnh “con cá vẫy vùng” trong giếng nước.
Nhưng “Con cá vẫy vùng” chỉ là hình ảnh. Thêm vào chữ “nó” thành “con cá nó vẫy vùng”Hình ảnh “con cá” trong thơ bỗng nhiên sống động hẳn. Cái khéo ở cách dùng chữ. Cái hay của bài thơ cũng ở câu này.

Trấn thủ đất liền đã khổ như vậy, ở đảo còn khắc nghiệt hơn.

Trường Sa xa mút mù khơi. “Bốn trăm hải lý nhớ không tới”. Cái đảo mơ hồ như một mảng đất liền bị trôi dạt ngoài khơi.

“Trường Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề.
Lính thú mươi người lạ sóng nước,
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi. 

Đảo còn say sóng thì huống chi người!

Làm sao giữ đảo khi đầu óc mơ hồ, chân đi chưa vững? Những người lính trên đất liền bị điều ra đảo ví như con cá đột nhiên bị quẳng lên bờ. Ở đây, người lính nhận ra họ phải bảo vệ một mảnh đất mà con người không sống được. Ngàn năm ở đây chỉ có sóng thiên cổgió miên man, gió khốc liệt, đảo không nước, mưa họa hoằn, nắng lóa như kim giũa, cây bật gốc,... Cái đảo từ thuở khai thiên lập địa hầu như chưa có dấu chân người.

“Đảo hoang, vắng cả hồn ma quỷ
 Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên
 Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
 Lên xác thân người mãi đứng yên.”

“Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt,
  Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi
  Đám cây bật gốc chờ tan xác,
  Có hối ra đời chẳng chọn nơi?”

 “Mặt trời chiều rã rưng rưng biển.
   Vầng khói chim đen thảng thốt quần
   Kinh động đất trời như cháy đảo
  Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân.

  Ta ngồi bên đống lửa man rợ,
  Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi,
 Nghe cây dừa ngất, gió trùng điệp
 Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi…”

Con người đột nhiên bị quẳng vào cuộc sống của người tiền sử. Môi trường khắc nghiệt, làm sao bám được cuộc sống để tồn tại? Làm sao chống chọi với trời đất, với thiên nhiên?

“Đám cây bật gốc chờ tan xác, 
 Có hối ra đời chẳng chọn nơi.” 

Ai đã bày ra chiến tranh? Ai tạo ra thời thế để đày con người ra đến chốn này?

Thương thân, trách phận rồi tự giận lấy mình, tự đày đọa, tự trừng phạt.

“Bốn trăm hải lý nhớ không tới.
 Ta khóc cười như tự bạo hành,
 Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục,
 Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh.”

Chống chọi với trời đất đã khó, chống chọi với chính mình càng khó hơn.

“Mùa Đông Bắc, gió miên man thổi,
  Khiến cả lòng ta cũng rách tưa.”

“Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng,
 Những cụm rong óng ả bập bềnh
 Như những tầng buồn lay động mãi
 Dưới hồn ta tịch mịch long lanh.”

Giữa cảnh trời nước mênh mông, sự hoảng hốt tột cùng khi bị cắt đứt liên lạc với đồng đội, với cả thế giới loài người.

 “Đất liền, ta gọi, nghe ta không?
 Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng.
 Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc. 
 Con chim động giấc gào cô đơn.”

Trường Sa như đã trở thành một thế giới khác, con người bị nhốt trong cái thinh lặng tuyệt nhiên ngoài trái đất. Thao thức trước chiến tranh, chiêm nghiệm về lẽ sống còn của đời người, sự hữu hạn, nỗi cô đơn của nhân loại.

“Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn. 
 Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ”

Đứng trước vũ trụ bao la, con người dễ nhận ra thân phận mỏng manh nhỏ nhoi của kiếp người. Vậy mà vẫn phải đem cái “hữu hạn nhỏ nhoi” để giữ lấy cái bất biến trong trời đất.

“Sóng thiên cổ khóc biển tang chế.
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ.
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời.”

Người lính Trường Sa cũng khóc như người lính thú? Cũng than thở xót xa như anh lính trấn thủ lưu đồn ngày xưa? Và rồi cũng chấp nhận số phận để vượt qua số phận.

Bài thơ diễn ta tâm trạng những người lính trấn đảo nhưng cuối cùng trở về nỗi thao thức thân phận của con người. Có lẽ con người là sinh vật duy nhất biết nhận thức được kiếp sống của chính mình.

Cho tới nay, Trường Sa Hành là bài thơ về biển đảo hay nhất của Việt Nam. Nó ví như một viên minh châu đang chiếu lóng lánh giữa lòng dân tộc. Không cớ gì người Việt đọcTrường Sa Hành mà lại không giữ được Trường Sa.

Khai bút đầu nămMồng Một Tháng Giêng.– Feb.10/2013
Theo VOA

………………………..

Bài thơ “Trường Sa hành” Tô Thùy Yên viết tháng 3/1974, trong một chuyến hành quân công vụ của ông ra vùng đảo Trường Sa, hai tháng sau thời điểm Trung Quốc đã cho quân đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa (19/1/1974).
Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa khi đó đã điều quân đội ra đánh trả. Máu binh lính Việt Nam đã đổ xuống trên vùng biển đảo của Tổ quốc để quyết giữ trọn vẹn giang sơn bờ cõi Việt Nam.

TRƯỜNG SA HÀNH
(Tô Thùy Yên)

Trường Sa! Trường Sa! Đảo chếnh choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề.
Lính thú mươi người lạ sóng nước
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi.

Mùa đông bắc, gió miên man thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh Lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ.

Đảo hoang, vắng cả hồn ma quỷ,
Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lên xác thân người mãi đứng yên.

Bốn trăm hải lý nhớ không tới
Ta khóc cười như tự bạo hành
Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục
Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh.

Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế.
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời.

Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt,
Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi.
Đám cây bật gốc chờ tan xác
Có hối ra đời chẳng chọn nơi?

Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh.

Mặt trời chiều rã rưng rưng biển
Vầng khói chim đen thảng thốt quần,
Kinh động đất trời như cháy đảo…
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân.

Ta ngồi bên đống lửa man rợ,
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi,
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi.

Chú em hãy hát, hát thật lớn
Những điệu vui, bất kể điệu nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu.

Ai hét trong lòng ta mỗi lúc
Như người bị bức tử canh khuya
Xé toang từng mảng đời tê điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê.

Ta nói với từng tinh tú một
Hằng đêm tất cả chuyện trong lòng
Bãi lân tinh thức, âm u sáng
Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng.

Đất liền, ta gọi, nghe ta không?
Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng.
Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc.
Con chim động giấc gào cô đơn.

Ngày. Ngày trắng chói chang như giũa.
Ánh sáng vang lừng điệu múa điên.
Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
Kêu giòn như tiếng nứt hoa niên.

Ôi! Lũ cây gầy ven bãi sụp,
Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh,
Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã
Hay đến ngày bờ tái tạo xanh.

San hô mọc tủa thêm cành nhánh
Những nỗi niềm kia cũng mãn khai
Thời gian kết đá mốc u tịch
Ta lấy làm bia tưởng niệm Người.

  1. 1974
    TTY
    (Tạp chí Văn, Sài Gòn)

 

 

 

Bài Mới Nhất
Search