T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không : Mỗi năm hoa đào nở , Lại nhớ cánh mai vàng

clip_image002

(Mai rừng – Tranh Trần Xuyên)

Cũng bày ra một hiên nhàn

Dăm ba chậu kiểng, một bàn cờ vuông

Án thư vài tập cảo thơm

Bức tranh thủy mạc đông phương an hòa

Một bình rượu, một khay trà

Một đôi bạch lạp, giấy hoa bút vàng

Nghe hơi gió chuyển mùa sang

Tuổi già cám cảnh đôi hàng rụng rơi

(Cung Vĩnh Viễn)

Gớm nhẩy! Huynh cười khủng khỉnh ra cái nhẽ lại bày vẽ cho ăn gan giời trứng trâu gì nữa đây phỏng? Ấy huynh nói hay chửa, tháng ba ngày tám, ăn đong ăn vay, trăm sự là ở bài thơ trên. Số là năm hết tết đến, chả nhẽ cười nhăn một mình, thế nên buồn tình khề khà thơ lão bạn thâm căn cố cựu. Chưa kịp…nghe hơi gió chuyển thì đúng là đồ cháo ám, chợt nhớ ra nhà hình như cũng có…một khay trà đâu đó.

clip_image004

(Ấm Lưu Bội – Đời Thanh)

Số là nhăm thu trước sắm được bộ ấm cổ giả Giang Tây gan gà. Mới quá cũng mất vui. Bèn nhoay nhoáy chôn xuống dưới gốc cây, nhủ thầm mai này bộ ấm trà lên men, lạc tinh cũ rích. Rồi ra nào có thua gì bộ ấm Mạnh Thần của cụ Nguyễn Tuân trong Vang bóng một thời. Ai biết đó là đâu, thưa huynh.

Sắp tết nhất đang vêu vao, không nói chuyện mồm miệng nó mốc đi, chuyện là đệ ngứa tay ngứa chân muốn đốt tràng pháo chuột cho nổi đình nổi đám ấy mà. Bèn ngồi bên…án thư múa bút khai xuân với bộ ấm nhất qúy hồ tinh bất qúy hồ đa trên. Sò tay sờ đến…đôi ngọn bạch lạp với…giấy hoa vàng thì trời cao đất dầy ơi, đào đâu ra ở cái thời buổi này, chẳng lẽ ngồi đồng như thằng dở người. Hay là cứ theo lão ấy chỉ vẽ bày hàng…dăm ba chậu kiểng trước hiên nhà. Tiếp đến, thửa…bức tranh thủy mặc ngòai chợ trời để vẽ vời thêm, hiểu theo nghĩa là đệ vừa thêu dệt xong cái cốt truyện.

Thế nhưng đuợc hầu chuyện với huynh đây, đệ thóang có đôi chút ngại ngùng. Vì chẳng qua tranh là tranh Tầu có chịn cái triện đỏ chét, lại phất phơ dăm hàng thơ nét thư pháp chấm phá sổ ngang nét dọc. Thế nên, sau đấy nếu có nhồi nhét thêm ông Thôi Hiệu, Lý Bạch uống rượu cùng Đường thi, đường mòn theo thiển ý đệ thì chẳng qua ở cái thế chẳng đặng đừng của chuyện trên trời dưới đất, chuyện là thế đấy thưa huynh.

Riêng khoản…một bình rượu, một khay trà mà lão hủ nho hủ nút vừa trình làng, đệ đành ngậm tăm với…một bàn cờ vuông vì lão ấy chành chọe chấp đệ hẳn một con xe, một con pháo. Nhưng khỏan kia, chẳng phải nói trạng nói tướng gì đệ xin vô phép vô tắc với huynh, chẳng gì sáng dăm ba chén, chiều làm một vài chung. Tỉnh giâc mơ xuân, đệ lại buồn vui cùng ba khóm tùng, bụi trúc. Rồi thẫn thờ về những ngày tháng cũ với ai ra bến nước trông về Bắc, chỉ thấy mây trôi chẳng thấy làng, hoặc giả học thói nho gia với bản lai vô xứ sở, xứ sở thị chân không. Mặc dù chẳng biết quê nhà mịt mùng nằm ở cái đầu thôn cuối xóm nào, mà chỉ bàng bạc u hòai đến cành đào đất Bắc năm xưa, qua ngày này tháng nọ, cứ đeo đẳng với đệ không rời.

Vẫn chửa xong, thấy cành đào nghiêng ngả trên bìa báo Tết bụng dạ lại vấn vương…mặc dù chả hiểu hoa đào năm ấy nó…cười nhăn nhở gió xuân, gió đông ở cái khổ nào. Cuối năm ôn cố tri tân, ngả nghiêng qua chuyện ông thầy tu để tóc dài, mặc áo nâu sòng. Một ngày ông ngồi bó gối ngòai vườn ngắm cái gò mối nổi u, ông bật ra câu thơ “Động nam hoa có thiền sư – Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn”. Rồi thành câu hát con chim chết dưới…cội hoa, tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao.

Vậy chứ, trăm sự nhờ vả huynh kiến giải dùm là ông thầy tu mang con chim gì vào câu lục bát ấy? Dám là…con hạc lắm ạ!

Còn cội hoa là…mai hay đào? Xin đọc hồi sau sẽ thông hanh, thưa huynh.

***

75 qua đây, là người di tản buồn, năm hết tết đến ngồi ngòai vườn nhìn cây cảnh thiếu vắng mầu hoa xưa cũ, đệ bất giác bồi hồi không thấy hoa nở chẳng biết xuân về hay chưa. Nhưng vạn sự giai không ấy là thơ vui thú điền viên của cụ Nghè đất Hải Dương Nguyễn Bỉnh Khiêm mà người sau thuổng đỡ làm nhạc tân thời đấy thôi. Ấy là hai câu thơ “Thấy nguyệt tròn thì kế tháng – Nhìn hoa nở mới hay xuân” trong bài Thú tiêu dao của cụ. Và rồi mấy trăm năm sau, cụ Trạng mang dây ba-trạc, đầu đội sùm sụp cái mũ sắt, đeo ba lô vào rừng, gác súng bên vai, chằm bằm ngắm hoa mai nở mà chính mình cũng chẳng hay. Nhẽ này sấm Trạng Trình chả luận bàn tới. Nhảm thật.

Tiết hàn năm nay ấm áp lại điểm tí nắng hanh vàng, thế là đệ ghé vựa cây thửa cây mai, cây đào về cho đời nở hoa xuân. Đang lụi cụi đào dăm cái hố bỗng nghe tiếng con chim cu đất gù gù “..cúc..cù..cu..” trên hàng dây điện như…cuốc gọi hồn, để lây lất qua “con quốc quốc” của Bà Huyện Thanh Quan với “cái gia gia”. Mà cái gia gia là…cái gì thưa huynh? Chung quy chỉ tại tối ngày vất vưởng qua cái đĩa Mai Hạc của cụ Nguyễn Du (nguồn Vương Hồng Sển) có câu thơ “Nghêu ngao vui thú yên hà – Mai là bạn cũ hạc là người quen” . Lại nữa! Lại cũng là hai câu thơ trong bài Thú Yên Hà của Tuyết Giang phu tử Nguyễn Bỉnh Khiêm khi cụ cáo lão về hưu. Bậy thật bậy, thưa huynh.

 

clip_image006

(Đĩa trên thấy trên mạng lưới, là

đĩa Mai Hạc của cụ Nguyễn Du?)

Chưa hết, ngoài chuyện đệ chộn rộn khi không ôm rơm rặm bụng với…con hạc chết tiệt của ông thiền sư ăn mặn vừa rồi. Chẳng những thế, cũng báo Xuân năm nay, đệ đầu bù tóc rối với một nhà bác vật thành danh, trong bài lai cảo ông có ý đồ gán ghép bà Hồ Xuân Hương mà tên tục là Hồ Phi Mai với cụ Nguyễn Du. Ông dẫn chứng qua cái đĩa Mai Hạc. Nguyên văn như sau đây:

“…Ghi thành ba dòng cọc cạch nghêu ngao vui thú yên hà, mai là bạn cũ hạc là người quen, tôi nghĩ rằng thơ của Nguyễn Du không thể ngớ ngẩn như thế. Và, vẫn theo thiển ý, Nguyễn Du đã viết: Maingười cũ hạc là bạn xưa…”.

Nhà bác vật hiệu đính thơ cụ Nguyễn Du, đệ chả đám lạm bàn. Ông còn thêm:

“…Về phần Nguyễn Du khi đặt mua sáu cái đĩa Mai Hạc ở Giang Tây, mà ông đề với một liên thơ lục-bát chữ nôm. Người thợ lò sứ Cảnh-Đức tô đúng những gì ông viết, vì họ không đọc được chữ nôm…”.

Đệ buồn tình gãi đầu gãi tai, cứ theo…ngu ý đệ thì dám cụ Nguyễn Du không biết…chữ Hán lắm ạ! Rõ chán ông bác vật trên thật, phải chăng thưa huynh.

***

Dậu đổ bìm leo, tiếp đến mạn phép huynh nhai văn nhá chữ qua người xưa với “Mai thê, hạc tử” cùng “Hạc nhi” hoặc giả như Mai vương dáng hạc mai gầy – Mai ơi, vàng nụ, vàng ngây ngất vàng để làm chứng từ. Để rồi nỗi buồn chạm mặt với văn chương Trung Hoa không có không xong, ấy là điển điển cố và hình tượng chim hạc đã lững thững đi vào văn học Trung Hoa từ 3000 năm. Thi Kinh có Chương hạc minhMai hạc kinh miêu tả chim hạc nơi thảo dã. Và chuyện trôi sông lạc chợ với giống hạc có thể sống hơn sáu mươi năm, thọ nhất trong các lòai điểu thú, cũng dài hơn tuổi ngũ thập tri thiên mệnh của người Tầu thời ấy. Nên hạc được biểu tượng cho chữ thọ, để có tuổi hạc, tuổi vàng. Nếu Nam Tào Bắc Đẩu có sổ tọet thì thôi cũng đành “hạc nội mây ngàn” để…cưỡi hạc về quê. Bằng vào nhiễu sự ấy, các danh họa Trung Hoa thường kết hợp hạc đậu trên cây tùng, với nỗi niềm là có thêm cây tùng thì sống…dai dẳng hơn. Nhưng khổ một nỗi, đó là một kết cấu đầu cua tai nheo, vì chuyện tréo cẳng ngỗng là:

Giống hạc lẩn thẩn ở đầm lầy, không sống ở trong rừng và cũng không đậu được trên cây vì móng chân của hạc quá ngắn. Duy nhất hạc đầu đen là có thể đậu trên cao, nhưng lọai hạc này lại luân lạc mãi tận bên…Phi Châu. Huynh chẳng nên bận tâm con hạc Phi Châu có cái đầu…đen làm gì cho nhức…đầu, thưa huynh.

clip_image008

(Not now – Tranh Hirochi

Yoshida 1871 – 1946)

***

Nói về hạc mà không nhắc đến Hòang Hạc Lâu trong thi ca của văn học Trung Hoa là…có tội với thi nhân đời Đường: Kiến trúc này nằm trên mỏm đá Hòang Hạc ở nam Trường Giang. Chủ nhân họ Tân giao du rộng, nên các văn nhân mặc khách thường lui tới đây uống rượu ngắm cảnh…hạc nội mây ngàn. Vì có một họa sỉ nào đó để lại trên tường bức tranh Vũ hạc, vẽ hạc múa sống động…như thật. Người Thôi Hiệu nghe tiếng, tìm đến đề thơ Hòang hạc lâu trong đó có câu “Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản – Bạch vân thiên tải không du du”.

 

clip_image010

 

Thơ thẩn như vậy là nhất với chiếu hoa một cõi, nhưng nghe óc ách làm sao đấy. Phải đợi đến cụ Tản Đà chỉ cần vẩy mực nhẹ hai câu cái hạc bay lên vút tận trời, trời đất từ nay xa cách mãi. Thế là hạc bay cái vù, lại bay đẹp nữa mới thật là tuyệt bút. Nhưng chẳng phải đợi đến cụ Tản Đà sau này, năm nắm thấy vậy, người Lý Bạch mon men tới uống rượu ngắm hoa và cũng bon chen thơ thẩn “Hòang Hạc Lâu trung xuy ngọc địch – Giang thành ngũ nguyệt lạc mai hoa”…Xin thưa với huynh là thi hào, thi bá Trung Hoa có giật gỵa hạc vàng, hạc trắng gì đi chăng nữa thì câu Giang thành ngũ nguyệt lạc mai hoa” tức và Trường giang tháng năm mai rụng hiểu là ngắm mai rụng vào tháng năm. Với đệ quanh quẩn nơi xó vườn, bới bèo tìm bọ đóan chừng rằng Lý Bạch ực rượu, ngất ngư làm thơ ngắm…mai hoang, mai dại nở vào giữa năm đấy thôi, thưa huynh.

***

Đang luận về Đường thi, khi không huynh chỉ bức tranh Thạch Đào của Vương Duy

clip_image012

Nước ao mà vỗ lên bờ thêm thắt chuyện đào với chim, theo tích cũ vùng Lào Kai có lòai chim ngói ăn đào từ bên Tầu, chúng tha hột về và đánh rơi trên miền núi biên thùy. Hạt đâm chồi, mọc cây, có cây cổ thụ sống cả mấy trăm năm. Các cụ ta chặt cành đào đặt góc bếp trong đêm ba mươi để trừ ma quỷ. Sau vì thấy hoa đào mầu hồng rực rỡ, tượng trưng cho hỉ tín, nên được trưng trong ngày Tết.

clip_image014

Đó là giống bích đào hồng thắm, nhị vàng xếp thành nhiều lớp, đuợc dân làng Nhật Tân bên Hồ Tây mang về gây giống. Còn đào phai là đào ăn quả, cánh hoa thưa, mầu hồng nhạt. Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét Nàng Bân, mùa đông càng rét mướt, hoa đào càng rộ hoa thắm thịt. Mỗi năm thời tiết mỗi đổi thay, đang đông lại chứa thu, trong đông lại ẩn xuân chan hòa. Chính sự nghịch lý của trời đất đã làm hỏng đi sự tuần hòan của những cánh đào, hoa không thắm mà lại hồng hồng. Nên được gọi là…đào mơ.

Nghĩ cho cùng tất cả cũng chỉ là…chuyện tất nhiên của đất trời, thưa huynh.

***

clip_image016

Rồi thì cũng phải đến chuyện cây mai của miền Nam mưa nắng hai mùa với tháng sáu trời mưa, trời mưa không dứt. Số là họ hàng hang hốc nhà mai rắc rối chi đâu với tên cũ gọi là Lạp Mai, xuất xứ xa lắc xa lơ mãi tận bên…Chân Lạp. Nặng nợ với từ chương điển tích thì chúa Nguyễn Hòang rong ruổi theo chân người Chiêm Thành suôi nam. Nhà Chúa mang mai vàng từ núi Cổ Mông tức núi Hòang Mai, thuộc đất Bình Định, theo cuộc Nam tiến lưu lạc vào đến tận Hà Tiên. Riêng ở Hà Tiên, vùng này có giống mai trắng bốn cánh là một lọai mai hiếm và quý, vỏ cây hơi đỏ, đuợc tìm thấy ở núi Bình San, khu lăng tẩm họ Mạc. Thông thường mai năm cánh mọc ở trên núi được gọi là lãnh mai, trong rừng sâu là giả mai.

Ngòai Bắc có giang mai mọc ở bờ sông, nhưng thực ra cốc mò cò sơi vì ấy là biến thái của cây mơ, cây mận, hoa mầu trắng. Có người vẩn vơ “Bên cầu sương rụng mấy từng mai mơ – Đêm về thắp nến làm thơ ” và đề thơ “Giang mai, mai ở đầu sông – Trong thơ Đỗ Phủ, ngàn năm vẫn buồn – Tàn rồi mấy độ hoa xuân – Thiền sư ngửa mặt tần ngần với mai”.

Từ đấy trong Nam, một trong những đặc thù của mai là trên núi thân cao, cành sần sùi, trong rừng thì thấp, mảnh mai. Thời tiết càng nóng, mai càng nở vàng đậm. Mai hoang, năm nở hai lần, vì vậy mới nẩy ra chuyện Lý Bạch nốc rượu, ngắm…giả mai, tức mai đỏ chứ chả phải mai vàng, mai trắng mà tên Nhật là Toyo Nishiky. Rồi khật khờ làm thơ “Tháng năm mai rụng…” như Lý Bạch là thế đó, thưa huynh.

Vẫn chuyện trái nắng trở trời với tháng sáu trời mưa, trời mưa không dứt vì vậy đệ cũng muốn trồng cây nào rào cây nấy với hoa mai miền Nam mưa nắng hai mùa có mầu sắc đậm đà hơn là hoa xứ lạnh qua mai Chiếu Thủy gốc mãi tận bên Xiêm La, thường mọc bên bờ suối, cuống hoa dài xụ xuống như soi bóng nước nên mới có cái tên chiếu lên, chiếu xuống. Mai Tứ Quý hay mai kép, tức hoa có hai lớp cánh, lớp mềm lớp cứng, trổ hoa đỏ suốt tháng.

Riêng Bạch Mai họ hàng gừng tỏi với cây mù u, trong Nam kêu là cây sầu đâu. Ở …”đâu” không thấy nhưng gánh bùn sang ao là ngòai Trung gọi văn vẻ là cây sầu đông. Cây mù u, vốn dĩ cái tên tự nó đã mù mịt gió mây, lại u ám kể gì, nhưng hoa nở như…”cười”, mầu tím hoa cà như hoa xoan, đong đưa trước gió, chẳng vương giả như đào, mai, nhưng hương thơm dịu dàng. Như vừa đảo qua, bạch mai rất hiếm. Thời cụ Vương Hồng Sển ở ngay Sài Gòn chỉ có ba cây, một ở chùa Tầu, một ở Phú Nhuận và cây còn lại cũng rất qúy và hiếm thì lại ở trong…trại tù Cây Mai.

Ấy là chưa kể Biên Hòa, thành phố của mai vàng, xưa kia là Cù Lao Phố, do cụ Đào Tấn mang từ Bình Định vào. Mặc dù miền đất đỏ này, không có núi non những vẫn được kêu là lãnh mai hay mai gầy vì cành mảnh mai, hoa và lá đều nhỏ. Chuyện về cụ Đào Tấn, đệ sẽ xin hầu chuyện với huynh sau.

clip_image018

Huynh như lạc vào bến mê, nhìn vào chân không và ngụ ý rằng đệ dắt díu huynh từ vườn nhà đến…Cù Lao Phố là cặp bến ngộ. Ấy đấy, chưa đâu, chẳng thiền tính thiền quán giống thiền sư họ Phạm với ”Đánh rơi hạt mận bên đường – Xuân sau mọc giữa chân thường cội hoa” tiếp nối với con chim chết dưới…cội hoa ở trên. Rồi đệ tham vấn huynh cội hoa là…mai hay đào? Nhưng nay chắc mẩm là…cây mận! Thì rõ ra là…hạt mận bên đường và theo đệ với chữ nghĩa dùi đục chấm mắm cáy thì mận hoa mầu trắng. Chứ chả phải vàng khè như trong bài Đưa em tìm động hoa vàng của Phạm Thiên Thư, thơ thẩn tréo ngoe một cõi là vậy đấy, thưa huynh.

Tiếp, huynh cười khục khặc rằng rõ vẽ chuyện vì “bồ dục” chứ chẳng phải là…dùi đục. Dạ thì bồ dục chấm mắm cáy. Thôi thì đệ xin bẻo mép cùng huynh ngoài chuyện thơ thẩn…cây mận, cây mơ qua “Bên cầu sương rụng mấy từng mai mơ – Đêm về thắp nến làm thơ”. Rõ ra, đệ chả rành đề thơ tác phú cho mấy, nên mạn phép huynh…tương bát, tương bần mấy cái tên rằng ngòai cái ngữ danh đi với địa danh như…”giang mai” và…”Xiêm-la”, xin huynh đừng dại mồm dại miệng gọi là…”tiêm la” ấy nha. Tội chết, thưa huynh. Chuyện là tên gọi cỏ cây nhiêu khê không phải là ít, một ngàn năm đô hộ giặc Tầu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, sen kẽ là năm trăm năm chữ Nôm…

Thế nên đệ năng nhặt bị với cây trái giống cái vú bò, được gọi là cây vú bò. Trái giống đầu con phụng, kêu là cây đậu phụng. Lá giống lông con phượng, được gọi là phượng vĩ. Hoa đỏ kêu là cây điệp. Mai, đào, mận, mơ cùng một giống, nên mới có câu: Cành mai, gốc đào, chồi mận, lá mơ. Mai là tên dân dã, chữ Hán gọi là lý. Mơ là chữ Nôm, chữ Nho là đào. Các cụ đặt tên con gái bằng tên các lòai hoa: Hoa, Mai, Lan, Lý, rồi gật gù…mặn mà cả tư. Tết nhất nhà nào trưng cây quất, cây quít sai quả thì có nhiều nô bộc. Vì vậy cây quất, cây qúyt còn được gọi là…mộc nô. Thời Tây học, mộc nô “cái” là…cái Sen. Mộc nô “đực” là…thằng Đực. Thế đấy, vậy đó, thưa huynh.

Tây, Tầu về…một cái tên thì đệ xin vẽ rắn thêm chân…Huynh cười văng ra khỏi miệng là “rết” chẳng là…rắn. Dạ thì rết. Thì cũng bừa phứa đi ấy mà. Thì nào có khác gì người Tầu hay dậy khôn người mình qua sách vở với chữ nghĩa cường điệu như Hồ mã tề Bắc phong, Việt điểu sào Nam chi. Nôm na với tha hóa vong thân thì con ngựa rợ Hồ gặp gió bắc là hí hí lên dăm tiếng vì nhớ cái chuồng. Con chim Việt nhớ tổ ấm nên mới làm tổ chim ở cành nam. Thế nên cụ Phan Bội Châu mới lấy hiệu là Sào Nam. Lại đèo bòng thêm tích cành mai đầu mùa luôn luôn mọc về phía nam.

Cứ vêu vao vậy, chả hiểu có đúng chữ thánh hiền chăng. Đúng hay không thì cây mai vẫn có tên rất nho phong sĩ khí là…Nam chi.

***

Vẫn không xong với hoa mai ngày Tết, đệ mạn phép huynh múa bút bức tranh vân cẩu qua hội họa Trung Hoa. Rằng họ vẽ hoa mai rất nhiều như Vương Miễn với bức Giang Nam bạch mai thụ, hình thức cổ điển, cành mai lớn sần sùi và cân xứng cùng khỏang trống xen lẫn thơ. Chu Tá với bức Mai hoa, cành trơ trọi với vài đóa hoa vươn lên giữa khỏang trống bao la, hào khí ngất trời của kẻ sĩ. Thế nhưng dường như những danh họa Tầu thường cố tình để những khiếm khuyết trên những tuyệt phẩm để người thưởng ngoạn tìm kiếm. Như bức Đạp tuyết tầm mai của danh họa Phí Mễ, vẽ một lão ông đội nón mê, tay nắm cái gậy chống trời lom khom tìm kiếm…mai giữa bão tuyết. Khác gì Ngô Tuấn Khanh vẽ chim oanh lững lờ đậu trên cành mai mặt mày tươi rói.

Khổ một nồi giống con hạc đậu trên cây tùng. Hoặc giả cường điệu với Hồ mã tề Bắc phong, Việt điểu sào Nam chi. Mấy ông thợ vẽ người Tầu phóng bút chim muông lờ quờ ngự trên cành mai là hỏng tuốt. Vì rằng cứ như theo nhà nông ta với nhất canh trì, nhì canh viên, ba canh điền này nọ thì…thì…chim chóc không đậu trên cành mai…mảnh mai. Lớ quớ lỡ té cái bịch thì sao, chim cò nào mà dại. Dại như anh cò đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao thì các cụ ta xưa…sáo măng ngay. Rầy rà thật, nếu như nhà nông ta có lỡ sai tầm bậy, huynh cứ vả vào miệng đệ. Vì với triết lý củ khoai thì biên giới của cái đúng hoặc cái sai, lắm khi chỉ cách nhau…một cành cây, thưa huynh.

Huynh cười ròn câng cấc à ra thế. Thế là được thể đệ mượn gió bẻ măng qua bài “Trẩn thủ lưu đồn với miệng ăn măng trúc măng mai, những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng. Ăn măng đã mẻ bát thiên hạ, đệ xin khua môi múa mép rằng mai đây là chả phải là…cây mai. Vì rằng ấy là một lọai tre lớn mọc ở trong rừng còn được gọi là cây bương được dùng để làm nhà. Cây tre bương có hoa giống như bông lau, dùng để bó chổi quét nhà với cái tên rất hoa văn là: Chổi…bông mai.

Dạ xin thưa, chẳng qua chỉ là chuyện chổi cùn rế rách cho…rách chuyện đấy thôi.

***

Rách chuyện hơn nữa là cành mai còn ngâng ngẫng đi vào văn học sử nữa. Cứ lêu bêu theo thi tứ lưu danh thiên cổ với giai thọai Nhất chi mai của nhà sư Tuệ Kỷ đời Đường qua câu “Tiền thôn thâm tuyết lý – Tạc dạ sổ chi khai”. Diễn nghĩa là ngòai đầu thôn, trong tuyết dầy, đêm qua có mấy cành mai nở. Sau Trịnh Cốc hiệu đính thay chữ “sổ” bằng chữ “nhất”, từ nhất tự thiên kim Tuệ Kỷ cúi đầu nhận Trịnh Cốc là…nhất tự sư.

Cũng là sư, thiền sư Mẫn Giác, tôn sư của vua Lý Nhân Tông, có bài Cáo tật thị chung thâm viễn hơn và cũng thiền quán hơn: “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận – Đình tiền lạc dạ nhất chi mai”, diễn Nôm là đừng ngỡ xuân tàn hoa rụng hết, đêm qua sân trước lạc một cành mai. Ở đây “xuân tàn” là trầm luân, “hoa lạc tận” là hư vô, giữa mê và ngộ, phân ra hữu và vô, có và không. “Nhất chi mai” chính là giác ngộ với trong sinh có diệt, trong diệt có sinh.

Đến đời Trần “Nhất chi mai” rị mọ vào sử thi: Lúc còn trai trẻ Hồ Qúy Ly đi buôn, trên thuyền đọc truyện Quảng hàn cung lý nhất chi mai, giống chuyện cổ tích trên cung trăng có chú cuội với cây đa. Sau làm quan nhỏ trong triều, ngày nọ vua Trần nghỉ ở điện Thanh Thử, nhân đó vua ra câu đối cho các quan: Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế, với nghĩa trước địên Thanh Thử có cả ngàn cây quế. Hồ Qúy Ly nhớ lại chuyện cũ liền đối ngay: Quảng Hàn cung lý nhất chi mai. Vua nghe xong giật mình hỏi sao lại biết chuyện vua đang sửa sọan dựng cung…Quảng Hàn cho công chúa …Nhất Chi Mai.

Họ Hồ cứ tình thực mà trả lời, vua Trần cho là số trời nên gả công chúa cho, sau Hồ Qúy Ly sóan ngôi nhà Trần.

Vô hình chung sử nước Nam ta lật sang một chương khác: Vì…một cành mai.

***

Năm mới nói chuyện cũ, đệ muốn eo sèo với những người về từ trăm năm đã nặng nợ với mai. Như đã thưa với huynh ở trên qua cụ Đào Tấn mang mai vào Cù Lao Phố.

Chuyện là vào đời vua Tự Đức, nhân quy kỳ hà nhật thị, lão tận cố hương mai, trên đường hồi cố quận, cụ Cao Bá Quát ghé thăm bạn đồng liêu là cụ Đào Tấn ở Đào mai viên, thuộc Bình Đinh. Cụ Đào Tấn làm quan đến chức Thượng thư bộ Công, là người chuộng mai cụ để lại bộ Mộng mai từ lục, bút hiệu Mai Tăng. Trong đó cụ đề cao cái thanh nhã của mai với Tứ đức: Cao, tú, nhã và đạm. Mai cũng biểu tượng tình bằng hữu qua câu Tuế hàn tam hữu: Mai, tùng và trúc. Mấy lần trước, đã bao thu nơi chốn này, cụ Cao Bá Quát lưu lại câu thơ “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm – Nhất sinh bái thủ bái mai hoa”. Thế nhưng lần này ghé thăm, cụ lão bạn đã tận cố, hương mai đâu chẳng thấy.

Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân, cũng như Khổng Minh nghĩ đến thân phận còm cõi của mình trong cái tuổi bóng sế về chiều. Khi Gia Cát Lượng hồi thảo am với “Kỵ lư hóa tiểu kiều – Độc thán hoa mai sấu”, nôm na là cưỡi lừa qua cầu nhỏ, chỉ thấy xót xa khóm mai gầy. Cũng vậy với Cao Bá Quát, về lại chốn cũ, cụ Cao cố viên hồi thủ bất tăng bi, bạn xưa chẳng còn nữa, ngoài nỗi buồn hiu quạnh cùng những gửi gấm niên nào của cụ Đào Tấn với “Mai mốt non mai ta gửi xác – Để cho mai dỗ giấc mai tăng”. Cụ Cao tìm đến chân núi Hòang Mai viếng mộ chí của bạn già đã quá vãng có câu di cảo: “Mai sơn tha nhật tàng mai cốt – Ưng hữu mai hoa tác mộng hồn”.

***

Qua nấm mộ cụ Mai Tăng, cũng như nhờ cái gò mối của thiền sư mặc áo nâu sòng, đầu để tóc dài đã đẩy đưa đệ với “Hạc buồn dỗ giấc mù sa – Âm nao lãng đãng tơ vàng sương bay”. Tiếp đến lặng lờ với những bước chim di ngày nào năm ấy “Chân chim nào đậu bên cồn – Ngược xuôi có kẻ lại buồn dấu chim”. Với tạp bút này, đệ tuế tóa chữ nghĩa cùng cái hạc bay lên vút tận trời, trời đất từ nay xa cách mãi qua một truyện ngắn vắng gió đìu hiu dưới đây…thưa huynh.

“…Truyện viết về một cụ ông Bắc Kỳ 54 qua đây xin chọn nơi này làm quê hương đã lâu, cuối đời nhờ con cái để lại cho căn nhà cũ che mưa che nắng. Ngay ngày đầu cụ bắt gặp một đàn kiến lũ lượt từ ngòai vườn bò vào nhà. Cụ tẩn mẩn ngắm chúng hàng giờ và bâng khuâng vì thấy chúng nhang nhác giống như cụ chạy lọan trên đất Bắc hồi nào. Lát sau, chúng lếch thếch vác mì gói vụn, khuân cơm nguội rơi rớt của cụ ra ngòai. Cụ hình dung đến cuộc di cư vào Nam tay gánh tay gồng như mới đâu đây.

Đồng cảm như cùng đi chung một chuyến đò nên duyên, thế là cụ lẩn thẩn theo chúng ra tận ngòai vườn. Nhìn thấy cái tổ kiến u lên một đống, cụ chẳng hoang tưởng như lên non tìm động hoa vàng…ngủ quên. Cụ ngồi bệt xuống mấy cọng cỏ, tỉ tê với chúng những chuyện gần xa của quê cha đất tổ. Cụ lan man với chúng qua khóm tre bụi chuối, nhà ngang nhà chái bàng bạc là ao vườn này kia, kia nọ.

Cụ thì thầm với đàn kiến về quãng đời bèo dạt mây trôi của cụ: Số là vào đến Cái Sn, chưa rít hết điếu thuốc lào ba s 9 thì đụng đầu cái chát năm Ất Mão 1975, lại tay xách nách mang xuống thuyền nước mắt như mưa khăn gói gió đưa lếch thếch qua đây và cụ cầy như…vạc. Và cụ thở ra, bây giờ sắp bước qua năm Nhâm Thìn…”.

Chợt dạ quan hòai đến huynh, đệ có ý nghĩ vay mượn hình bóng cụ ông trong những ngày chập chọang nắng quái chiều hôm. Suốt ngày quanh quẩn trong vườn nhà, nào có khác gi cái kiến mày đậu cành đào, leo phải cành cộc leo vào leo ra…Trời đất chưa sang xuân, buồn rười rượi như cơm nguội chiều đông, cụ ông hiu hắt như Nguyễn Bính qua Hành phương Nam với quê ta xa mãi bên kia biển, chỉ thấy tơi bời mây trắng vương. Mấy năm sau, nhà thơ trở về Bắc, mất ở bờ ao quê nhà trong một chiều 30 Tết. Khác với cụ ông, it nhất nhà thơ còn có một nơi chốn để gửi gấm nắm xương tàn…

***

Thế nên qua đồng chiều cuống rạ, đệ mới mạo muội mang con cu đất ra quấy quả. Rồi như cánh vạc bay đến cái đĩa Mai Hạc của cụ Nguyễn Du. Rồi lan man qua mấy cành mai thuộc Bình Định, thành Đồ Bàn xa xưa…Để rồi chúa Nguyễn mở mang bờ cõi về phương nam: Cây mai đi đến đâu, dân tộc Chiêm Thành…mất đất đến đó. Chơ vơ còn lại chỉ là những Tháp Chàm, qua những lớp sóng phế hưng, văng vẳng cùng tiếng chim cuốc trầm trầm khắc khỏai cùng một cõi đi về với bà Huyện Thanh Quan.

Và rồi lịch sử là một cuộc tái diễn không ngừng cùng những người viễn xứ, u hòai vọng cố hương trong một ngày cuối năm qua hình ảnh ngày nào như mới đâu đây với vèo trông lá rụng đầy sân…

54 suôi Nam theo những bước chim di của chúa Tiên, đệ chỉ mang theo hoa đào năm ấy còn cười gió đông qua sách vở. 75 khăn gói quả mướp qua đây, bỗng dưng hóa thân vong quốc như người Chiêm Thành. Huynh với đệ, nào có khác gì đồng thị thiên nhai luân lạc nhân, tương phùng hà tất tằng tương thức, trộm nghĩ là cùng một lứa bên trời lận đận, gặp gỡ nhau lọ đã quen nhau. Nay nhân giải cầu vong niên cửu trùng tri ngộ, cùng hoài cố quận qua một cành mai, nhánh đào:

Mỗi năm hoa đào nở

Lại nhớ cánh mai vàng

Huynh tặc lưỡi đến tách một cái và thở ra rằng sẵn cái mạch quê hương bản quái vạn kiếp tha phương nghìn đời thêm thảm ấy. Lại nữa, lại thấy đệ cứ đi ra đi vào như cụ ông Bắc kỳ 54 ở trên, thẫn thờ về những ngày tháng cũ với ai ra bến nước trông về Bắc, chỉ thấy mây trôi chẳng thấy làng, rồi học thói nho gia với bản lai vô xứ sở, xứ sở thị chân không này kia. Thôi thì cứ theo huynh, hãy hồi bản trạch để dối già một lần cho nhẹ mình nhẹ mẩy này kia, kia nọ, thưa huynh.

Dạ xin thưa với huynh, thì đệ cũng đã…

Thì về với bến sông xưa

Hút tàn điếu thuốc mà chưa gọi đò

Nhìn theo ngọn khói vu vơ

Nhớ thương thì có, đợi chờ thì không

(Xuân Sách)

Thạch trúc gia trang

Xuân khởi, Nhâm Thìn niên

Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

clip_image020

 

 

©T.Vấn 2012

Bài Mới Nhất
Search