T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không Phí Ngọc Hùng: ÔNG  THẦY  CŨ     

Tranh: vanonline.vn

                               

       Có ai đó viết cứ Tết đến, liếc qua khuôn khổ của tờ báo xuân là thấy bài thơ rất ư là khuôn mẫu mở đầu bằng vào mỗi năm hoa đào nở, lại thấy ông đồ già và kết thúc bằng câu những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ. Theo người viết thì thực sự bài thơ “Ông đồ” cũng chẳng hay ho gì cho lắm, chỉ vì người Việt mình có tính hòai cổ đó thôi…Lẽ dĩ nhiên gã không cùng cảm nhận với người viết trên. Vì mỗi lần mang mang đến hình ảnh ông đồ vẫn ngồi đấy, qua đường không ai hay trong cái lúc đang phất phơ nơi đất khách quê người. Đất sinh cỏ, già sinh tật, gã lại đốc chứng hoài cố nhân, hoài cố quận, và hòai đồng vọng về một thời một thưở cùng người xưa cảnh cũ đang ẩn khuất đâu đó trong tâm khảm.

       Gần đây qua “Thầy khóa Tư”, truyện viết về một ông bố ở nhà quê, một ông đồ già lỡ vận mài mực ra mà để kiếm gạo. Vào trong Nam, người con cũng theo nghề gõ đầu trẻ, viết một bài phú, một thể văn biền ngẫu nay đã thất truyền, khi làm xong thì cũng vừa lúc ông bố mất. Anh áo dài khăn đống, bát cơm quả trứng, vừa vái linh cữu bố vừa ê a ngâm bài phú ấy. Bỗng dưng trong gã, bồi hồi với hình ảnh anh nhiêu, anh khóa của một thời đã qua, trôi sông lạc chợ, nay hiện về như hồn ma bóng quế.

       Trở lại người xưa cảnh cũ của một thời vắng bóng với ông đồ, anh khóa. Ấy vậy mà gã đã gặp cả hai…

                                                            ***

       Chuyện là ngày ấy, gã đã gặp một ông đồ.

       Nhớ lại những năm cuối trung học, Tết nào cũng thế với tình nghĩa giáo khoa thư cùng tập tục mùng hai tết thầy, mùng ba thăm bạn, gã được ông bác dẫn tới thăm ông thầy già của ông từ làng quê xa xưa. Nghe ông bác thuật lại thì ông thầy già rất nho phong sĩ khí, khi bình rượu túi thơ, lúc ngồi trên trõng tre với cái điếu bát, thong dong an lạc với vườn cỏ vân, nhà cột tre cật, kèo tre gai, vách phên trúc. Và ông bác gã chỉ học ông thầy được ít lâu, vì lớn tuổi phải lấy…vợ để lo chuyện nối dõi tông đường.

       Như gã vẫn hình tượng qua sách vở và không hẳn là những ngày Tết, ngày thường cũng vậy, vào đến trong Nam, ấy vậy mà mỗi lần có người tới thăm là mỗi lần ông đồ mặc áo the thâm, khăn sếp ra tiếp khách. Ông gầy như que tăm, xanh như tầu lá chuối, giọng nói có thều thào đấy, nhưng rất an nhiên tự tại, điềm đạm, mực thước. Mặc dù ông bác gã là học trò cũ, nhưng ông đồ vẫn một mực khiêm cung, vẫn kêu ông bác gã là thầy thế này, thầy thế nọ, thầy dậy thế là phải. Nhưng cũng không hẳn vậy, gặp ngày kị ngày húy, được bà vợ thửa cho mấy đĩa đồ nhắm, ông bác gã xách chai rượu tới là ông đồ cũng…”hào sảng” như ai. Gã thấy khẩu khí và tính khí ông cũng có khác, thơ phú rung đùi hỉ hả, hay ngất trời với trong trần ai, ai dễ biết ai.

      Gặp thằng gã, thấy chai cổ lùn nắp đen như lân thấy pháo, gặp thời thế, thế thời phải thế, ông nhấp gã ực. Nhập thế tục bất khả vô văn tự, thế nên gã có muốn bon chen, chẳng hay ho cũng húng hắng một vài câu, ông bác gã lại lừ mắt một cái. Ông đồ như biết ý, khà một tiếng: “Chấp nhê bất ngộ”. Mới xong trung học đệ nhất cấp, chữ nghĩa gã cũng lem nhem, vốn liếng chữ Hán như nước chẩy mây trôi, chẳng dấu gì, gã vẫn thường ăn mày chữ nghĩa, chữ được chữ không. Và mỗi lần hỏi ông chuyện sách vở, thì câu nói đầu môi chót lưỡi của ông là: “Tận tín thư, bất như vô thư”.

       Đại thể là những ngày còn nhỏ, gã đã có túc duyên gặp một ông đồ có thật hai, ba lần. Và phải đợi đến cái tuổi tóc muối tiêu với muối nhiều hơn tiêu, gã mới gặp lại một anh nhiêu, anh khóa như “Thầy Khóa Tư” ở trên. Anh như một cái gạch nối, giữa cũ và mới, đó cũng chính là ông thầy cũ của gã trong bài viết này.

                                                            ***

       Nhưng phải đợi đến khi gần đây ông cụ gã nhắc, gã mới nhớ đến họ và tên. Trước khi về thăm quê nhà mấy tháng, ông cụ gã cho gã xem một cái thư gửi cho ông cụ mà phần tái bút có “liên hệ” đến gã: “Ông cho cháu gửi lời thăm đến gia đình Hùng và nhờ ông nhắn Hùng phấn đấu về thăm Thái Bình một chuyến”.

       Trước đấy gã bấm bụng nhủ thầm rằng chém chết đâu đó cũng thuộc dạng thư kể khổ. Đại loại như những thư nhà bất cứ ai cũng một lần chạm mặt, không ngoài cái nợ đời là lại sắp phải đóng góp cho cái mục vợ ốm con đau hay lợp mái sửa nhà chi đây. Thế nhưng không, tất cả chỉ là cái thư thăm hỏi với chuyện xưa tích cũ. Và không nhìn địa chỉ ngòai phong bì, nhắm mắt gã cũng biết thư này được gửi đi từ…Thái Bình.

       Chuyện xưa tích cũ thì năm tám, chín tuổi gì đấy, vì rắn đầu biếng học, vào dịp hè ông cụ gã tống về tỉnh để ông bác gã kèm, và cũng để buộc chân bó cẳng cái thằng nhô tì “cao bồi Hà Nội” ngày ấy là gã. Chưa kịp biết ổi cầu Bo to nhỏ thế nào, hôm trước hôm sau là gã chạm trán với…nỗi buồn chạm mặt: Đó là một…”anh khóa” đến nhận kèm trẻ tư gia. Qua ông bác gã được biết, với cái học nhà nho buổi ấy, mười người đi học chín người thôi, thế nên anh là anh khóa cuối cùng của cái học nhà nho đã hỏng rồi. Mặc dù nay anh đang theo Tây học, nhưng ông rất quý anh vì dầu sao cũng là tình đồng môn, lại cùng một thầy nên đưa anh về nhà để “kèm” gã là vậy. Mặc dù gã chả chịu hiểu anh nhiêu, anh khóa là khỉ mốc gì…

       Nhưng vẫn chưa xong, được ba bẩy hai mươi mốt ngày, ông bác gã lại gọi anh là…”đồ gàn”: Vì cơm nóng canh sốt có sẵn không ăn, anh cứ lôi cơm nắm muối vừng trong cái mo cau ra bầy cỗ, “cao lâu” lắm là cơm nguội chan nước dưa chua với mấy con rạm rang, vậy là xong bữa. Trời nóng hừng hực, tứ thời bát tiết canh chung thủy với cái áo dài chúc bâu, quạt nan phẩy phành phạch. Ghế không ngồi, anh tháo guốc, hai bàn chân vỗ vào nhau bèn bẹt, leo tuốt lên cái sập gỗ chân quỳ ngồi sếp chân bằng tròn. Để có đầy đủ dụng cụ “thư phòng”, ông bác gã khuân về từ tiệm sách Khánh Hưng ở phố Lê Lợi, vở học trò có kẻ gạch ngang, bút ngòi sắt, lọ mực tím. Anh bỏ xó, thay vào đồ nghề của anh trong cái bị là sấp giấy bản đục lỗ buộc bằng giây gai, bút tre vót bẹt…

       Ông bác gã gọi anh là “đồ gàn”, thì gã lại hiểu ra là…”ông đồ”.

       Hình ảnh ông đồ với anh khóa cứ đeo đuổi gã theo năm tháng, sau năm 54 với “Lều Chõng”, đến năm 75 cùng Vũ Đình Liên, gần đây có “Thầy khóa Tư” và bây giờ là anh. Mặc dù anh không răng đen, áo the, khăn lượt. Anh cũng chẳng dính dáng gì đến chữ nghĩa chấu trát như “Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi, viết lúi húi giật cái khôi nguyên”. Nhưng dạo ấy, dưới mắt gã, gã vẫn thích nhìn anh là một ông đồ, chỉ vì thỉnh thỏang anh mang thỏi mực Tầu ra mài, chấm bút lông rồi sổ ngang sổ tọet. Và cũng chẳng nhớ anh dậy gã những gì, mà chỉ thấy tòan kể chuyện đâu đâu như Nguyễn Công Trứ với Quỳnh Như cứ như truyện tận bên Tầu với Lã Bố Hí Điêu Thuyền ấy. Thỉnh thỏang chêm một hai câu mà gã nghe như mán nghe kèn, mà anh gọi là chữ Hán, chữ Nôm.

      Lớn lên gã mới biết, chẳng là hồi ấy anh muốn “khoe”: Thái Bình của anh là quê quán của những tao nhân mặc khách như Uy Viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ, với tài kinh bang tế thế dẫn thủy nhập điền ở huyện Tiền Hải. Đất lành chim đậu với cụ Tiên Điền Nguyễn Du, năm ba mươi tuổi, lánh nạn nhà Tây Sơn về tá túc ở nhà nhạc gia là tiến sĩ Đòan Nguyên Thục ở Quỳnh Côi. Qua đời Nguyễn, cụ làm tri huyện Phụ Dực ở đây.  

       Nhưng sâu đậm nhất với gã là cuối tuần, anh đưa gã về quê anh để bơi sông, câu cá. Gã còn nhớ ngay ngã ba đầu làng có một cây bàng, thân bằng cổ tay, anh nói là do thầy anh trồng, và dưới gốc cây là quán nước chè tươi, có kẹo vừng, có bánh gai. Muốn bước vào nhà anh  phải đi qua khúc đường mòn, bên cạnh cái ao nuôi cá rô, ngập bèo Nhật Bản. Đến đây anh lại ngâm nga mấy câu thơ của cụ Nguyễn Khuyến, mà gã chỉ nhớ mang máng vì những âm thanh rất vu vơ như ‘bé tẻo teo” với “khẽ đưa vèo” vậy thôi.

      Cũng có thể vì vậy, từ những dấu ấn tiềm ẩn trong gã từ ngày ấy, sau này gã bắt gặp lại qua sách vở, nên rất thân quen với làng trên xóm dưới, êm đềm của bụi tre khóm trúc, lãng đãng đâu đây tiếng võng ru con kẽo kẹt, xa xa tiếng chó sủa bâng quơ chìm đắm tận cuối thôn giữa trưa hè. Vì vậy chẳng ngại ngùng gì để mà nói, vô hình chung không hẹn mà gặp, anh là người đã mang hương đồng cỏ nội vào đầu óc non nớt của gã, những tên tuổi, những trang sử vừa lật qua. Ngay cả những áng thơ bi hùng, tình yêu trai gái của Sơ Kính Tân Trang Phạm Thái qua ngòi bút Khái Hưng với Tiêu Sơn Tráng Sĩ. Cũng từ Phạm Thái, từ cái buổi hoang sơ ấy, lớn lên gã biết thế nào là mùi phong trần tục lụy, thác về âm phủ cắp kè kè, Diêm Vương phán hỏi mang gì đó: “Be…”

                                                             ***

       Một phần vì qua cái thư “nhờ ông nhắn Hùng phấn đấu về thăm Thái Bình một chuyến”, thế nên mấy tháng sau gã khan gói gió đưa trở về Hà Nội. Một phần vì âm vọng của tiếng “be” với hồ trường và gà luộc của tỉnh Thái mời gọi: Nào là gà thả ngoài đồng da vàng như ướp nghệ, nào là thịt mỏng thơm và ngọt, chưa nhìn đã phát thèm…Để nay gã đang rong ruổi với đường mưa ươt đất về lại với cái tuổi ấu thời. Xe từ quốc lộ 1 đổi qua quốc lộ 10, nhìn đâu gã cũng chỉ thấy trống vắng và lạ lẫm…Gã lại được thể gậm nhấm thêm câu viết của một người viết khác là “Nhật mộ hương quan hà xứ thị – Yên ba giang thượng sử nhân sầu” cách mấy, khi trở về thăm quê nhà, ông có cảm nhận như người khách lạ trên chính quê hương mình…Thêm một lần, gã không cùng cảm quan với người viết này.

       Vì rằng xe ghé Nam Định rồi qua phà Tân Đệ, đứng nhìn trời cao mây xanh, con sông mát rượi, mặt nước dập dờn gợn sóng, sát bên bờ là con hương lộ, xa xa là một rặng cau cao vút, thấp thóang những bóng nhà. Để gã lắng đọng và nhởn nha thả hồn về quá khứ, để gã bắt gặp những vết chân của những người đi trước, mường tượng sẽ gặp lại mảnh đất đã vun sới cả một dòng họ. Đất quê lành lắm, gieo gì lên nấy, nhẫn nại nuôi vén, ngọt nhờ đắng chịu. Qua bao lớp phế hưng dâu biển, người của đất quê muôn đời vẫn vậy, cam chịu, nhẫn nhục bám cứng vào ruộng vườn, mồ mả gia tiên cùng nhà từ đường từ thế hệ này qua thế hệ khác.

       Thế nhưng khi hình dung đến ông thầy cũ, càng đến lúc sắp gặp mặt, gã như muốn chùn lại. Vì một chuyện không đâu với “lão” chú họ, hắn hơn gã hai tuổi, hồi nhỏ vẫn cùng nhau đánh khăng, đánh đáo. Biết gã mới về là mò tới, vẫn mày tao như xưa, như lời ông cụ gã dặn dò, gã gửi hắn ít tiền để làm quà. Vừa thò tay nhận, chân trước chân sau là hắn đòi về ngay, nại cớ chị vợ đang bị bệnh nặng, than thở, thở than hắn đang lo không biết có qua khỏi con trăng này không. Nghe thấy vậy, gã cũng áy náy, móc thên mớ bạc nữa và hắn biến mất trong nhấp nháy.

       Đến buổi trưa, vợ hắn đứng trước cửa, nghe gã kể vậy bà cười toe: “Lại mò ra tiệm phở ấy mà, quất hai bát là ít”.

       Thêm một nỗi buồn không tên bám theo gã không rời: Lãng đãng với ông đồ của thời thế, họa sĩ Bùi Xuân Phái đồng cảm qua bài thơ của người bạn họ Vũ: “Tấm tắc ngợi khen tài, hoa tay thảo những nét, như phượng múa rồng bay”, nên phóng bút vẽ bức “Ngắm Tranh Ông Đồ”. Ông vẽ ông đồ ngồi trên vỉa hè, như đắm chìm trong con phố vĩnh hằng và yên ắng, cửa đóng im lìm, đường không có người, cây không có lá. Thế nhưng người thơ không ngắm mà chỉ “nhìn” bức họa, nên “tái bản” thêm bài thơ “Ông đồ” thứ hai. Để gió thổi muôn chiều ẩn hiện với cờ đỏ sao vàng: “Hỡi người nghiên bút ngàn năm ấy – Khối hận bây giờ đã nhẹ chưa”. Vì vậy theo gã, qua người viết ở khúc đầu thì “thực sự bài thơ Ông đồ cũng chẳng hay ho gì cho lắm” cũng có thể vì Vũ Đình Liên với những hệ lụy của thời thế với gió đánh đò đưa ấy…

       Rời bến phà, còn mười cây số nữa là tới thị xã, gã như Từ Thức về trần lạc lõng với mấy cái bảng hiệu bên đường như “Phở cơm” hay “bánh Cáy”…Trở về thực tại, gã cứ vẩn vơ với những chuyện không ra chuyện vừa rồi. Trong thâm tâm, gã muốn sếp tàn y lại để dành hơi về ông thầy cũ hay anh khóa qua hình ảnh của một ông đồ, cũng có thể đang eo hẹp với nhưng mỗi năm một vắng, người thuê viết nay đâu. Vì miếng đỉnh chung, cũng có thể đang mải mê ngụp lặn trong biển dâu với hồng hơn chuyên. Gần hơn một chút, không lẽ  anh giống như lão chú họ của gã, đại hạn phùng cam vũ, chỉ đợi bơi trong mấy bát hành trần nước béo. Lại nữa, lại vướng víu với chữ “anh”, biết gọi bằng gì, không lẽ kêu…“Thầy”.

       Xe vừa vào cửa ngõ thị xã, gã như khựng lại vì nhìn thấy dọc bên bờ sông Trà Lý, khóm chợ ngày nào vẫn vậy, vẫn không đổi thay. Cả mấy chục mái rơm, mái rạ, hiu hắt phất phơ trong gió, lơ thơ mấy cái trõng tre, chân gầy guộc cao lêu khêu, nghèo nàn và tiêu điều, cảnh cũ vẫn vậy, không đổi thay qua nửa thế kỷ. Ấy cũng là hình ảnh cuốu cùng của Thái Bình mà gã nắm bắt được khi rời thị xã về lại Hà Nội năm 195…Và bây giờ, gã như hụt hẫng vì chẳng thấy ổi làng Bo đâu trong một ngày chợ chiều vắng khách.

       Cây đa bến cũ…Cảnh thì như vậy, còn người thì nay sao. Để rồi gã đứng trước cửa nhà ông thầy cũ lúc nào không hay, cũng như một ngày hè như năm nào. Cửa vừa hé mở, thấy gã và ông nói ngay: “Anh Hùng phải không”.Khi không tự trong tiềm thức, gã buông ra một tiếng: “Thầy…”.

       Ông nheo mắt cười và mở rộng cửa đón gã vào. Gã như ngập tràn những dồn dập, xúc động với bồi hồi, như không hiểu tại sao ông biết gã về. Vào đến phòng khách, nhìn cái lỗ  khóet giữa hai căn nhà, dùng để đặt cái điện thọai, là gã hiểu ngay là ông cụ gã đã “điện” cho ông để báo trước. Tưởng ngồi ở đây để hàn huyên, ông lại khóac vai gã đi vào phòng, gã mới nhận thấy chân ông đi khập khiễng, như có tật. Vừa ngồi xuống ghế, gã nói: “Thầy…”, ông khóat tay, thầy trò gì, cứ anh em như hồi ấy, thế mà hay, để gã cảm thấy gần gũi như gặp lại một người thân.

       Ông vào trong lấy nước, gã đảo mắt nhìn căn phòng, gần như trống rỗng. Cái phản với chiếu Phát Diệm, giữa là chữ thọ đã bạc mầu, trên tường treo hình Phật, góc bàn có một cái “ra đi ô” và tất cả chỉ có vậy và không hơn. Qua dăm câu hỏi thăm, gã được biết ông trước dậy học, giờ đã về hưu, vẫn còn phòng không đơn chiếc nên ở chung với mấy đứa cháu. Nói chuyện với ông một lát, gã phải cáo từ vì còn theo bà chị về thăm làng xã, và hẹn ông khi trở lại, sẽ ra ngòai tiệm, để nón lá áo tơi ra quán chợ, trơ vơ trên bến nước sông đầy, vụn vặt cùng những ngày nào năm ấy.

       Chiều về đón ông, trước khi ra quán, gã nhờ bác tài đánh một vòng thị xã để tìm về đường xưa lối cũ. Thành phố này, giống như bất cứ thành phố khác mà gã mới vừa đi qua, cũng với đôi chút đổi thay rất “ấn tượng”, khách sạn, cửa hàng, nhà hàng, sô bồ với nhà cửa, cái cao cái thấp, thụt ra thụt vào như tổ tò vò và chả khác Hà Nội là mấy. Thiếu vắng hẳn cái yên ắng, phẳng lặng của một thị xã bên đường, qua tiếng ve sầu râm rả trong nắng hè oi ả. Ông vừa chỉ chỏ như muốn”thuyết minh” với gã giữa cũ và mới, đây là phố Lê Lợi, trước là phố Đệ Nhất, kia là phố Hai Bà Trưng, xưa là phố Đệ Nhị, rồi bắt qua năm 1949, 1950 với tiêu thổ kháng chiến này kia…

      Gã nghe đến phát chán, vì chẳng hình dung được gì, cũng có thể vì không phải thành phố quen thuộc của gã như Sài Gòn ở cái tuổi mới lớn. Ai cũng vậy, mỗi người mỗi có một nơi chốn để ẩn náu, trong những ngày vắng gió đìu hiu. Vả lại, chữ nghĩa gã chỉ bằng cái muỗng, bức tranh vân cẩu tỉnh lỵ của ông, được mô tả qua hai câu thơ sau đây là hết ý, hết…đất: “Thái Bình có cái cầu Bo – Có nhà máy cháo, có lò đúc môi”. Mà cũng linh, như ma đưa lối quỷ dẫn đường, vừa nghe tới cái môi múc cháo, vừa qua Đền Mẫu là tới quán ăn. Ngồi xuống là ông nói ngay, quán này có gà luộc và dân Thái “Lọ” quê mùa của ông chỉ có thế. Gã cười thầm không nói vì ngay từ Hà Nội, gã đã được nghe về hai món này, và quả thực ăn cũng không đến nỗi…“lọ” cho lắm, chỉ…“bình bình” thế thôi.

       Vui chuyện vui trò ông tiếp: Từ ngày về đây, cả ba, bốn tháng ông cứ ru rú trong nhà, không bước ra đường, cũng chỉ vì cái chân. Chuyện là cũng nhờ vậy, gã được biết ông có những thời gian dậy học nhàn hạ, rồi tin Đòan Chính, con của Đòan Chuẩn…“dinh tê” bay về tới tận Hà Nội, ông đâm nghĩ ngợi cả năm trời, cuối cùng ông đăng ký vào bộ đội rồi vượt Trường Sơn. Ông tỉ tê về một miền Nam đất ấm tình nồng, mưa thuận gió hòa, ông say sưa tả cảnh rừng chiều Lộc Ninh, đất Lai Khê ruộng đồng bát ngát, để ông có những suy tính riêng tư. Thế nhưng trời không chiều lòng người, với khúc cuối của đọan đường chiến binh không có hậu: Đụng trận đầu tiên trong đời, ông để lại An Lộc nguyên…một bàn chân.

       Cứ vậy, ông bình thản dẫn dắt gã về một quãng đời lềnh bềnh của ông, như chuyện bên đường, vào một ngày không nắng cũng chẳng mưa, không eo xèo nhân thế. Bất chợt ông hỏi gã ngày mai làm gì, gã trả lời sẽ đi thăm chùa Keo, chùa Đồng Bằng với lăng Trần Thủ Độ. Ông nói tiện đường ông muốn đi theo vì cũng cả gần hai chục năm nay, ông chưa đặt chân về làng. Ngay ở gã cũng muốn trở lại quê ông để ngắm lại cây bàng lá đỏ, thăm bờ ao cá rô, với gã, đó là tất cả những chuỗi kỷ niệm của cái tuổi ấu thời, như gã đã viết ở trên. Và gã cứ lấc cấn chẳng hiểu nổi là cả hai mươi năm, ông không về quê, mặc dù chỉ cách khoảng mấy chục cây số…

      Buổi tối gã về nhà ông ngủ để ôn lại những ngày mưa gió cũ, nhà ông ở ven thị xã nên cũng hơi đồng không mông quạnh. Cũng cả mấy chục năm rồi không nằm màn, vì vậy gã tẩn mẩn “ngắm” cái mảnh vải mầu cháo lòng căng lùng bùng. Và gã vẩn vơ nghĩ đến ông cùng những bước chân chông chênh, đang đi vào cái tuổi đếm những chiếc lá vàng. Cũng trong cái khỏang không gian chật hẹp ấy, trong cái tranh tối tranh sáng của nửa khuya, giữa trời đất bao la của đồng quê thôn dã. Gã vừa lắng nghe ngòai kia tiếng cóc nhái kêu ồm ộp, lúc ầm ĩ thê thảm đứt quãng, khi vang vọng thảm não đến nẫu ruột. Vừa nghe ông nói chuyện bâng quơ, giọng ông đều đều nghe buồn như chấu cắn, như ông nói chuyện với chính ông…

       Ông nói về một, hai niềm vui hiếm hoi, như mới ngày hôm qua đây, khi gặp lại gã. Ông đang lững lờ đọc một đọan văn ngắn của một tác giả nào đó, giọng trầm trầm xa vắng: “Một buổi chiều thanh thản, chợt nhớ đến người bạn tri âm, lâu năm không gặp. Vừa lúc đó, nghe tiếng lạch cạch ngòai cổng, nhìn ra thì đúng là người mình đang nghĩ đến”. Âm hưởng như của Thanh Tịnh “Hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngòai đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc…”. Lớn lên, mỗi lần nghe lại gã vẫn thấy bồi hồi, man mác với những êm đềm của mùa thu đất Bắc. Nhưng gã lại quên đi một điều, bài “Tôi đi học” do chính ông đọc cho gã nghe, cũng chính ở nơi này, thị xã Thái Bình.

       Rồi ông như quên ông để trở về thực tại, ông tản mạn về nơi chốn ông đang có mặt, đang vắng gió đìu hiu. Ông kể lể về dân tình quanh vùng, đang khăn gói gió đưa vào Nam, nghe đâu như dân Hưng Yên lên Ban Mê Thuột, dân Nam Định vào Lâm Đồng, dân Thái Bình dừng chân ở Biên Hòa, dân Hải Dương xuống mãi tận Cà Mâu.

       Ông hỏi gã về một vùng đất lạ, sầu riêng Long Khánh, bưởi Biên Hòa…

       Và ông ru gã vào giấc ngủ chập chờn để thiếp đi lúc nào không biết…Và bỗng dưng không đâu, gã đi ôm giấc mộng lớn, giấc mộng con của ông vào giấc mê trần của gã: Gã nằm mơ thấy ông về những ngày năm 54, gã thấy ông hóa thành “Dế mèn phiêu lưu ký” của Tô Hòai, nếu ra được đến Hải Phòng thì ông cũng sẽ lại như gã, lại: “Như con dế trống đi xa – Lâu lâu lại nhớ quê nhà gáy chơi”. Sau năm 75, qua giấc điệp, gã thấy ông biến thành bướm của Trang Tử, bướm thì thường lụy về một lòai hoa, mà ông đã lục tuần nhi nhĩ thuận, cũng đã có nơi chốn để che nắng che mưa. Gã chợt tỉnh vì ông trở mình, húng hắng ho. Rồi gã trằn trọc, thao thức và tự hỏi: Lâu rồi ông không về thăm làng, nay lại muốn bỏ xứ mà đi, nhưng gã chịu chết nghĩ không ra. Gã lại đắm mình trong mộng, giấc mộng dài chưa chín một nồi kê, bây giờ gã vừa thấy ông hóa thân thành: “Một con cò…”.

                                                              ***

       Sáng tinh mơ hôm sau  hai thầy trò về chốn cũ…Xe vào tỉnh lộ 39 để về huyện Kiến Xương. Mới rời thị xã được vài cây số khung cảnh đã đổi khác hẳn. Đường vừa hẹp vừa xấu, mỗi lần muốn vượt xe khác là toát mồ hôi. Hai bên đường vẫn những thửa ruộng bàn cờ, những lũy tre xanh, những khóm cau cao thẳng đứng, nhưng sao xa lạ thế. Ông chỉ cái nghĩa địa ven đường và nói sắp tới làng ông và bảo chú lái ngừng ở đây để vào thăm mộ các cụ. Gã nhòm thấy mộ này chen chúc với mộ kia như bã tha ma, phân trâu phân bò ngập lối đi, rác rưởi đầy quanh. Ông cho gã hay người ta đã “thủ tiêu” những gì về thuộc về giai cấp cũ, “thủ tiêu” cả cái sống với cái chết. Bây giờ một tấc đất nghĩa trang làng cũng thuộc về nhà nước, kể cả đất mồ mả.

        Về đến đầu làng, mới qua từ đằng xa ông đã chỉ cây bàng sừng sững ở ngã ba đường, đến gần thì ông lắc đầu ngán ngẩm, có tàn cao bóng mát đấy như cây đa đầu làng. Nhưng quán nước bên đường không còn nữa, thay vào là cái trạm gác thô kệch bằng gạch vữa, mái tôn. Bước thêm mấy bước là căn nhà xưa của ông, nay là kho chứa thóc của hợp tác xã, ngõ trúc ao sâu vẫn còn đó, những khóm trúc nay đã lớn như bụi tre, vặn mình như tóc rối, gió đánh rập rờn kêu kẽ kẹt. Nhìn xuống cái ao, nước tù xanh om và đầy váng là váng, ngay cả những mảng bèo cũng ngộp thở, không còn sinh khí để sinh sôi nẩy nở. Nhìn lên nóc nhà xác xơ ngả sang mầu xám nâu, ông lặng ngắm, để không tìm thấy khói bếp len lỏi qua lớp rơm trên mái trong một chiều tàn năm nào. Hai bên đường là những thửa ruộng khô cằn và héo hắt, trần trụi những cuống rạ, gió đưa rào rạt, ông như muốn tìm lại một mùa lúa chín của những vụ mùa, vụ chiêm, nhưng tất cả như đã thuộc vào quá vãng. Để mãi mãi nằm ngủ sâu trong tâm thức của riêng ông.

       Chợt thấy một cánh diều nằm chơ vơ cạnh bờ mương, ông bước xuống được vài bước, thửa ruộng trơ cuống rạ, và ông dừng lại như thầm hiểu, cánh diều của cái tuổi thiếu thời, cũng không thuộc về ông nữa. Ông nhướng mắt nhìn bao quát cả cánh đồng, tịnh không một bóng người, con đường sống trâu sâu hun hút. Ông tự biết, nếu có bước lên con đường mòn ấy, ông cũng chẳng biết đi về đâu, ông như người lạc hướng với đường đi không đến. Ông và gã, vẫn rong ruổi trên lối mòn khúc khủyu, như con diều đứt giây, cả hai đều tìm về một dĩ vãng đã mất của cái tuổi thơ vui đùa bên bờ mương ao cá. Để gã cũng có những đồng cảm với ông, cùng những tiếc nuối xa vắng, âm hưởng qua một dòng nhạc như đang â>n hiện: “Còn đâu nữa…Tiếng hát chim non cây đa trường cũ, với bóng tre xanh đong đưa nhịp võng. Còn đâu nữa…Gió ngát hoa cau trong đêm dần tối, dấu cũ chân ai bơ vơ một mình. Mãi đi hoang, mãi lang thang, lỡ quên đi mái đình xưa đổ nát với những nấm mộ hoang”.

       Những nấm mộ hoang…

       Mới hồi nãy đây gã ghé thăm nghĩa địa làng của ông giữa cánh đồng chơ vơ, mồ mả gia tiên ông nằm cô quạnh ở đấy đã bao nhiêu đời, chen chúc với những bụi cỏ gà lay lắt, xao xác tiếng nồm quạnh. Còn đâu nữa…Chỉ còn là hoang phế với cô liêu và u tịch của một chốn đi về cùng hương tàn khói lạnh, để ngậm ngùi, những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ. Còn đâu nữa…Chỉ còn là những nấm mộ bên mảnh ruộng sũng nước. Ngay cả ông thầy cũ, gã cũng không tìm thấy hình ảnh ông đồ hay anh khóa qua ông, chỉ thấy hom hem và cũ kỹ như ngôi miếu cổ, rêu phong ẩm ướt. Còn đâu nữa…Chỉ còn là những nỗi trầm uất của giấy đỏ buồn không thắm, mực đọng trong nghiên sầu và gã bắt gặp ông, như đang gần gũi với miếu đền. Mai này sau ông, những chiếc bình vôi cũng lăn lóc trong hoang lạnh. Còn đâu nữa…Chỉ còn là…

       Hay ngay chính gã cũng đang cằn cỗi và thu hẹp.

       Chỉ biết rằng, chuyến về thăm nhà lần này, gã như người khách lạ, để thầm nhủ chẳng bao giờ trở lại nơi chốn này nữa. Dù chỉ một lần. Nói một cách khác, gã và ngay cả chính ông như Lưu Nguyễn, sau mươi năm lạc chốn tiên cảnh, cưỡi hạc về trần để thấy quê nhà hoang vắng và xa lạ. Chợt nghe tiếng “quạc, quạc” lạc lõng, nhìn lên khỏang không, trời xanh mây trắng nắng vàng, gã thấy…Không phải là cánh hạc bay lên vút tận trời, trời đất từ nay xa cách mãi mà chỉ thấy một con cò già đang giang cánh bay về phương Nam…

                                                                                            Trúc gia trang, Canh Dần niên

                                                                                               Ngộ Không Phí Ngọc Hùng     

                                                   Tỉnh  THÁI  BÌNH

        Ngược dòng lịch sử với cả mấy ngàn năm trước, mấy trăm năm sau:

        “…Đất Lĩnh Nam ta xưa mấy ngàn năm trước vào thời lập quốc có một làng nhỏ bé, leo teo hai, ba chục nóc gia, lặng lờ bên sông Tô Lịch, làng có tên là làng Vạn Xuân. Họ sống bằng nghề chài lưới, rồi theo thời gian phát triển thành huyện Tống Bình. Tới thời kỳ Bắc thuộc năm 544, Lý Nam Đế mà dân gian gọi Lý Bí. Ông người Thái Bình, đánh đuổi được quan quân nhà Lương, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, chọn khỏang đất này dựng lên thành Long Biên. Ông cho xây chùa Khai Quốc tại đây, sau vì lụt lội, dời về Tây Hồ và đổi tên là chùa Trấn Quốc, tức phần ngoài của thành Đại La…

       Thành Đại La này dựng lên từ năm 860 thời vua Đường Hàm Tông, vua Đường phong cho Cao Biền làm An Nam tiết độ sứ, là người thông thạo địa lý và phong thủy, Cao Biền đi khắp nơi, tìm đất ở phương nam để đạt nền móng cơ sở. Đến vùng rừng hoang, đầm lầy mà cáo hay về nên được gọi là đầm Thây Cáo, Cao Biền thấy thế đất chim phượng uống nước nên cho khởi công xây thành Đại La.

       Sau Đinh Bộ Lĩnh năm 968, dẹp loạn mười hai sứ quân, được Tống Thái Tổ phong chức Giao Chỉ Quận Vương, đặt tên nước là Đại Cồ Việt và nhà Lý dựng thành Thăng Long trên đất thành Đại La.

       – Hay nói khác đi thì ông Lý Bí là người đầu tiên lập quốc. Ông là người Thái Bình. Và từ làng Vạn Xuân mới có Thăng Long xưa, Hà Nội nay…

                                                           *** 

       Đất Thái Bình trước kia là căn cứ địa của sứ quân Trần Lãm tại Bố Hải Khẩu, nơi từng dung nạp Đinh Bộ Lĩnh. Sau Đinh Bộ Lĩnh dẹp lọan 12 sứ quân, vua nhà Tống là Tống Thái Tổ phong chức Giao Chỉ Quận Vương, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Trong sử nhà, đây là lần đầu tiên nước ta thống nhất và độc lập, được người phương Bắc thừa nhận.

       – Để từ đấy Thái Bình có tên là: Kỳ Bố Hải Khẩu.

       Thái Sư Trần Thủ Độ sóan ngôi nhà Lý, bằng cách gả bán  cháu mình với Lý Chiêu Hòang, Trần Cảnh lên làm vua. Từ đó vua quan nhà Trần dựng nghiệp từ mảnh đất bên bờ sông Vị Hòang, đất của dòng họ Trần được gọi là Trấn Sơn Nam (Nam Định), được coi như là Thăng Long thứ hai của Bắc Hà. Ngoài ra còn có: Trấn Sơn Nam Thuợng (Hưng Yên) và Trấn Sơn Nam Hạ (Thái Bình).       

      Vào thời Hậu Lê, Trấn Sơn Nam Hạ có 12 phủ huyện, thời ấy Thái Bình chỉ là một phủ trong 12 phủ huyện. Năm 1832, triều Minh Mạng thứ 12, vua lấy tên phủ Thái Bình thời ấy đặt tên cho tỉnh Thái Bình ngày nay.

      Từ thuở xa xưa, nước ta phân chia đất đai từ huyện lên phủ, từ phủ tới trấn. Dưới huyện là tổng, làng, xã, thôn, ấp và nhỏ nhất là giáp. Tới thời vua Lê chúa Trịnh, Thăng Long thị tứ có phố và phường, tức làng nghề. Qua đến thời Pháp thuộc mới có quận và tỉnh, quận tương đương với huyện và tỉnh được xem như phủ.

       Cũng vì trước là phủ, nay là tỉnh, ranh giới không rõ ràng nên có một số di tích nổi tiếng như lăng Thái Sư Trần Thủ Độ ở làng Ngừ, nên còn được gọi là lăng Ngừ. Tùy theo thổ cư, lúc thuộc Nam Định, khi ở Thái Bình. Lý do là vao thời nhà Trần, lăng thuộc về Trấn Sơn Nam tức Nam Định. Vua Minh Mạng ngoài đổi tên Trấn Sơn Nam Hạ còn nới rộng vùng đất này ra và thu hẹp đất của nhà Trần lại nên lăng nằm ở Thái Bình.

      Ngòai ra có một khúc sông đào, được gọi là sông Thái Sư. Trước là một cái lạch, được một ông thầy Tầu cho đào sâu và rộng ra, để khơi thủy mạch hổ trợ cho long đàm nhà Trần. Cuối sông Thái Sư là làng Đấu, còn dấu tích của bức thành cổ. Nội thành rộng có ngôi đền, sân lát bằng gạch Bát Tràng, đó là lăng vua Lê Cung Hòang, bị Mạc Đăng Dung bức tử.

       Ngòai sông Thái Sư, còn một vài sông khác đã đi vào Thái Bình Địa Dư Chí như sông Trà Lý. Có giả thuyết cho rằng có là thể là vì ông tổ của họ Trần tên Trần Lý, về vùng sông Luộc làm nghề đánh cá, sau con cháu dựng nghiệp ở xã Tức Mặc, phủ Thiên Trường, rồi từ Trần Lý mà đọc trại ra là Trà Lý. Trên sông Luộc có cầu tên cầu Lê, đó là tên họ của mẹ Trần Cảnh. Và sông Hóa thuộc huyện Quỳnh Côi, Phụ Dực, một địa danh mà Hưng Đạo Vương, năm 1288 phá tan quân Mông Cổ ở khúc sông này.

        Thêm một, hai di tích khác nữa là chùa Keo nhưng có 2 chùa Keo: Chùa Keo Hành Thiện thuộc Nam Định được gọi là “chùa Keo Trên”. Còn chùa Keo ở Thái Bình được gọi là “chùa Keo Dưới” hay chùa Keo Giao Thủy ở xã Vũ Nghĩa, huyện Vũ Thư.

        Chùa Keo lúc đầu có tên là Ngiêm Quang, được xây cất vào năm 1061 đời vua Lý Thánh Tông, do thiền sư Dương Không Lộ chủ trì. Sau vua Lý Thánh Tông đổi tên là Thần Quang Tự. Thiền sư viên tịch, hàng năm cứ vào ngày rằm tháng 9 là ngày sinh của thiền sư, dân Vũ Nghĩa, Vũ Thư tổ chức mở hội có đua thuyền rất linh đình. Gần như có thể nói là một trong những chùa cổ nhất vì có từ đời Lý, mái thấp, rộng và cong. Toàn bộ khu chùa gồm 17 tòa, tổng cộng 128 gian. Chùa có một gác chuông cao ba tầng cao 12 thước, cột kèo, dui me tòan bằng gỗ lớn hai người ôm không xuể, nhìn xa như chùa Nhật và Bắc Trung Hoa, nhưng trông có vẻ nặng nề hơn.

        Một di tích khác nữa là đền Đồng Bằng ở làng Đồng Bằng, huyện Quỳnh Phụ chỉ cách cầu Bo 15 cây số. Đền có lẽ là đền cổ nhất ở nước ta, nghe nói được xây từ đời vua Duệ Vương tức đời vua Hùng Vương thứ 18, thế nên đền mới có 18 tòa và 6 phủ.

                                                         ***

       Thái Bình nhiều sông ít núi nên không phải vùng đất của địa linh nhân kiệt, cả mấy trăm năm sau ngòai cụ Lê Qúy Đôn, Tam Nguyên Ngô Quang Bích, tao nhân mặc khách khác đếm trên đầu ngón tay. Và vùng đất này chỉ được biết đến nhiều khi cụ Nguyễn Công Trứ đến đây để dẫn thủy nhập điền. Vì vậy có thể nói, dân ở đây sống bằng nghề nông, nên tên làng cũng mộc mạc đơn sơ. Có làng chỉ có một họ như họ Bùi cùng với những cái tên ngộ nghĩnh khác như làng Bùi Trên, làng Bùi Dưới, nghe đâu dân làng này lại nói ngọng. Đề cập đến họ Bùi thì không thể không nhắc đến Bùi Viện:

       Ông sinh năm 1837, quê làng Trình Phố, phủ Kiến Xương, đỗ cử nhân triều Tự Đức. Năm 1873, ông là người Việt đầu tiên đến San Francisco và sau đó được tổng thống Ulysses S. Grant tiếp đón (năm 1967, khi gặp đại sứ VNCH, tổng thống Lyndon B. Johnson cũng nhắc đến sứ thần đầu tiên người Việt là Bùi Viện). Về nước, năm 1878, ông là “phó” Hộ Đốc Nam Định cho Nguyễn Trọng Hợp.

       Tuy nhiên Thái Bình cũng đã hơn một lần được sấm ký Trạng Trình ghi chép: “Dù mày đánh bắc dẹp đông – “Mười hai phủ huyện của ông thì chừa”. Thế nhưng chiến tranh chưa tới thì đã gặp phải nạn đói năm Ất Dậu. Để rồi dân Thái Bình tha phương cầu thực, nhưng vẫn không quên cái máu Thái “lọ” trong người: “Thái Bình là dân ăn chơi – Tay bị tay gậy khắp nơi tung hòanh”. Thái Bình là dân ăn chơi cũng có thể một phần nào ảnh hưởng của Hồ Xuân Hương, ngòai ông Tổng Cóc, ông Phủ Vĩnh Tường, bà còn có ông chồng thứ ba là Sơn Nam Trấn Ải Quan Trần Phúc Hiển năm 1818. Còn “Tay bị tay gậy khắp nơi tung hòanh”, óc trào phúng này cũng giống như Trạng Quỳnh.

       Ông tên Nguyễn Quỳnh, người làng Bột tỉnh Thanh Hóa. Thi hội nhiều lần bị hỏng, là sinh đồ nên được gọi là Cống Qùynh, sau đi sứ, vua Tầu thử tài và được phong Lưỡng Quốc Trạng Nguyên nên có tên là Trạng Quỳnh. Trước Trần Phúc Hiển đúng 100 năm, ông Cống Quỳnh được bổ làm: Tri phủ phủ Thái Bình năm 1718.

                                                          ***                                                           

        Nguồn:

        Sưu tầm và góp nhặt theo Ngô Sĩ  Liên, Nguyễn Khắc Ngữ, Duyên Anh, Nga Sơn, Băng Đình và Nam Định Tỉnh Địa Dư, Thái Bình Địa Dư Chí. Ngoài ra một số chi tiết được góp nhặt qua bài viết “Chuyện Lạ Quê Nhà” đăng trên báo Ngày Nay ở Houston của một tác giả gốc Thái Bình nhưng rất tiếc người viết sơ sót không nhớ danh tính. Xin thành thực cáo lỗi cùng tác giả.

Bài Mới Nhất
Search