T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không : Tác Giả và Tác Phẩm – Hồ Hữu Tường (II)

clip_image002

Hồ Hữu Tường và cái nghiệp làm báo

Trần Nguơn Phiêu

Trong giới những nhà viết văn, rất nhiều vị đã đi vào làng báo vì tự biết mình có thiên phú văn tài, cần phải có đất dụng võ để nuôi dưỡng tài nghệ. Lần lần về sau, việc viết lách, ngoài sự đem lại danh tiếng, thúc đẩy sự dấn thân vào nghiệp văn chương lại còn giúp họ thực sự lấy việc viết văn làm một nghề sinh sống.
Hồ Hữu Tường cũng ở vào tình trạng nói trên, nhưng ngoài ra ông lại còn là người mang nặng cái nghiệp phải viết, phải say mê nghề báo chí vì ông thấy cần phải giãi bày và tranh đấu cho việc thành tựu những ước vọng của đời mình.
Hồ Hữu Tường đã đi vào việc viết văn rất sớm, và cũng như những việc sẽ xảy ra về sau này, chuyện viết lách thường đưa ông vào nhiều tai họa.
Ngay khi mới bước chân vào trường Trung học Cần Thơ, học sinh H.H. Tường cũng như các anh em bạn trẻ khác, đã thấy lòng sôi sục khi đọc những bài tường thuật hằng ngày trên Đông Pháp Thời Báo đăng tải vụ cụ Phan Bội Châu bị đưa xử ở tòa Đề Hình Hà Nội. Việc này đã đưa đến việc thực hiện một tuần báo viết tay, với những bài nặng mùi ái quốc. Các tác giả non trẻ này về sau là những tên tuổi thành danh như Ung Văn Khiêm, Tổng trưởng Ngoại giao của chánh phủ đầu tiên của Hồ Chí Minh, Trần Thiêm Thới gốc Hà Tiên dáng cao như cây tre nên lấy bút hiệu Trúc Hà, sau này cộng tác viết tạp chí với Đông Hồ. Hồ Hữu Tường, lúc này có lẽ vì bụng hơi to nên được các bạn đặt biệt hiệu là Tường Bụng, dịch ra tiếng Pháp là Ventru và nói lái lại thành Vutren. Vì thế nên trên tờ báo viết tay này, H.H. Tường vì viết bài tiếng Pháp, nên đã chọn bút hiệu là Pierre Vutren. Báo lọt vào tay ban Giám Đốc của trường và vì báo có nội dung chánh trị, các ký giả tí hon đều bị đuổi! Không hi vọng được trở lại học, Pierre Vutren (!) vận động để được sang Pháp học.

Hồ Hữu Tường phen nầy đã quyết để tâm trí vào việc học, nhưng đến dịp lễ Giáng Sinh 1927, anh sinh viên trẻ này lại có được dịp đến Marseille dự buổi diễn thuyết của hai nhà hùng biện Dương Văn Giáo và Trịnh Hưng Ngẫu. Ngẫu hẹn cho Tường đến gặp sau buổi diễn thuyết và nơi đây Tường lại có dịp gặp thêm Nguyễn Thế Truyền và Tạ Thu Thâu.
Tường khi đó chỉ vào khoảng mười tám tuổi nhưng đã có tiếng là học giỏi, nhứt là môn toán. Nguyễn Thế Truyền – một trong năm người có tiếng của nhóm “Ngũ Long” ở Paris ( Phan Văn Trường, Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Thế Truyền) -, đã khuyến khích và rủ Tường : “…làm cách mạng phải là những tay học giỏi. Chớ học trong lớp mà “ cầm cờ”, rồi ra làm cách mạng, bọn thực dân nó chê tụi mình là tụi ratés, nên giả vờ làm cách mạng để cứu thể diện”. Trịnh Hưng Ngẫu thì dạy Tường: “ …nên noi gương Nguyễn An Ninh, muốn làm cách mạng đắc lực, phải viết báo cho hay. Không làm cách mạng mà viết báo hay, cũng có lợi. Đây là qua dạy em cái bí quyết để thành công trong đời đó
Sau Đại học Marseille, H.H. Tường ghi danh vào Đại học Lyon để nạp luận án thi Cao học Toán trong khi ở Việt Nam có tin về cuộc khởi nghĩa Yên Bái của nhóm Nguyễn Thái Học. Việc thực dân Pháp ở Việt Nam ra tay khủng bố, đàn áp dân chúng sau cuộc bạo động đã làm sôi sục tinh thần yêu nước của các sinh viên ở Pháp. Tường nôn nóng mong lên được Paris để tham gia vào các hoạt động kêu gọi chánh giới Pháp làm áp lực với chánh phủ ngưng các bản án xử tử hình các nhà ái quốc Việt Nam. Không cần chờ biết kết quả, sau khi trình luận án, Tường đã từ giã Lyon để lên kinh đô Paris. Tường đã được Tạ Thu Thâu tiếp đón ở nhà ga Lyon và đưa về trú ngụ ở nhà của Huỳnh Văn Phương (Chú của Huỳnh Tấn Phát, Chủ tịch Chánh phủ Lâm thời Miền Nam, Việt Cộng sau này). Ở Paris, Tường đã có cơ hội gặp gỡ những nhà ái quốc lưu vong như Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường, Nguyễn Văn Tạo, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh v.v…Vào thời buổi này, Tạ Thu Thâu đang phụ trách đảng P.A.I (Parti Annamite de l’Indépendance, tức đảngViệt Nam Độc Lập) cho Nguyễn Thế Truyền vì Truyền trở về Việt Nam. Đảng P.A.I. lại bị nhà cầm quyền Pháp giải tán sau một cuộc xung đột ở quán Café Turqueti, ngày 9-1-1929, với một nhóm người Việt thân Pháp. Theo lời khuyên của Phan Văn Trường, việc tái lập đảng P.A.I. đã không được tiếp tục và đã được thay thế bằng một tập hợp có tên là “Nhóm Việt kiều tại Pháp”(Les Émigrés vietnamiens en France). Nhóm cũng quyết định không ra báo công khai như trước của đảng P.A.I. mà chỉ làm báo bí mật lấy tên làTiền Quân để làm cơ quan của nhóm.
Hồ Hữu Tường được giao phó làm chủ nhiệm báo Tiền Quân vì Tường là gương mặt mới ở Paris, còn trẻ và nhiều rảnh rỗi, chưa bị Pháp theo dõi các hoạt động. Phan Văn Hùm vì đã có chân trong làng báo từ năm 1923 nên lãnh chức chủ bút. Thành viên của bộ biên tập toàn là những nhân vật sau này được dân chúng miền Nam ngưỡng mộ như Tạ Thu Thâu, Hồ Văn Ngà, Phan Văn Chánh, Huỳnh Văn Phương, Lê Bá Cang…Mặc dầu là báo được viết tay ( do chủ bút Phan Văn Hùm thực hiện!), nhưng cũng được trình bày thành cột như báo in và được làm bản kẽm để in đẹp. Hồ Hữu Tường đã hãnh diện về sáng kiến chụp làm bản kẽm nầy, một kỹ thuật “tiền quân”.

Số phận báo Tiền Quân là một số phận ngắn ngủi vì chỉ ra được một số đầu mà cũng là số chót vì Tạ Thu Thâu đã tổ chức một cuộc biểu tình trước điện Élysée là dinh Tổng Thống Pháp để xin giảm án cho các liệt sĩ Yên Bái bị kết tội tử hình. Sau cuộc biểu tình lịch sử ngày 22 tháng 5 năm 1930 nầy, chánh quyền Pháp đã ra lịnh bắt và trục xuất về Việt Nam 19 sinh viên ái quốc. BáoTiền Quân lúc ấy đang in, chưa kịp phát hành. Toàn bộ biên tập đã bị bắt chỉ trừ có chủ nhiệm và chủ bút may mắn thoát được. Bạn bè người Pháp đã tổ chức cho Hồ Hữu Tường và Phan Văn Hùm vượt biên sang nước Bỉ.
Cả hai đã phải trốn tránh ở Bỉ gần hai tháng, đến ngày 14 tháng 7 , ngày lễ Quốc Khánh Pháp mới lén trở lại Pháp. Trong thời gian ở Bỉ nầy, H.H. Tường đã được Phan Văn Hùm giúp huấn luyện lại Việt văn vì Tường có thói quen dùng quá nhiều từ Hán Việt. Khi còn nhỏ, Tường chỉ có được dịp đọc Nam Phong nên đã nhiễm lối viết văn của Phạm Quỳnh. Hùm cũng dạy Tường về việc làm thơ Đường. Tường đã từng công nhận là đã nhờ Hùm rất nhiều trong cái lối “học bạn khác với học thầy” này. Tường thuật lại việc một hôm đã quá trưa, bụng đói, đi với Hùm nhưng Hùm vẫn còn dạy Tường học làm thơ. Hùm xướng một câu, bắt Tường làm câu kế tiếp. Câu thứ nhất, Hùm xướng:
Túng nước sang qua Bỉ Lợi Thì,
Tường nhớ lại cảnh ngày hôm trước nên tiếp:
Hai đứa chia nhau một bánh mì.
khiến Hùm phải la:

– Âm điệu là âm điệu của câu thứ tám.

Hùm phải thú thật:

– Tôi cũng biết vậy. Nhưng đói quá rồi. Làm cho đủ mấy câu giữa, thì rã ruột!

Những ngày vượt biên lánh nạn ở Bỉ đã giúp H.H. Tường và P.V.Hùm có dịp gặp gở nhiều nhân vật chánh trị lưu vong có tiếng tăm, nhất là những người thuộc tả phái. Vì vậy khi trở lại Pháp, Tường và Hùm được André Rosmer, chủ nhiệm báo La Vérité, cơ quan của nhóm Tả Đối Lập Pháp thuộc cánh Trotsky, giành cho cơ hội được viết trình bày quan điểm người Việt với điều kiện chỉ dùng chung một bút hiệu mà thôi. Hai người vì vậy thường viết hằng tuần trên báo nầy dưới danh xưng “Giải Phóng”.
Vì Tạ Thu Thâu, Phan văn Chánh, Huỳnh Văn Phương… đều bị trục xuất về Việt Nam, Tường đã phải giúp thực hiện tập san quay ronéo nhưng chỉ để phân phát cho độ vài chục người, khiến Tường lấy quyết định trở về xứ.
Tình cờ, H.H. Tường gặp Đào Hưng Long, một nhân vật trước thuộc đảng Lao Động, từng được cử làm Đặc ủy miền Tây, nhưng vì có việc bất đồng chánh kiến nên về Cà Mau tổ chức một đoàn thể khác. Đào Hưng Long hợp tác với nhóm của Tạ Thu Thâu thành lập tổ chức Đối lập Tả phái ở Đông Dương. H.H. Tường phụ trách tạp chí lý luận Tháng Mười cho tổ chức.
Cơ quan biên tập và in ấn do Đào Hưng Long phụ trách và được đặt trong một chòi lá, cất bên mé rạch Cầu Chong ở Thị Nghè. Một nữ đồng chí tên Huệ Minh đã được đoàn thể gởi đến đây và về sau là người bạn đời của H.H. Tường. Tạp chí Tháng Mườicũng như các sách huấn luyện đều được in theo lối in xu xoa nhưng đã được cải tiến. Xu xoa thay vì đổ vào khuông chỉ in được một lần, thì nay được đổ vào một hộp thiếc dày, trong có đặt nhiều tấm kiếng có gỗ kê cách nhau khoảng một phân. Mỗi miếng kiếng sẽ giúp có được hai mặt xu xoa láng, tốt hơn mặt xu xoa tự nhiên.
Cơ quan ấn loát bí mật nầy được duy trì khá lâu, nhưng đến tháng Chín năm 1932 thì bị phát giác. Đào Hưng Long và Huệ Minh bị bắt. Tạp chí Tháng Mười đành phải ngưng hẳn vì Hồ hữu Tường cũng bị bắt hai tháng sau đó, vào ngày lễ Đình chiến 11 tháng Mười một, 1932. Đó là lần thứ hai H.H. Tường làm báo bí mật; lần này được duy trì lâu hơn lần đầu tiên khi tờ Tiền Quân chỉ ra được có một số độc nhứt.

Trong bót mật thám Catinat, bị nhốt riêng một mình trong một buồng nhỏ, không biết được ngày ra, H.H. Tường sợ có thể bị quẫn trí phát điên nên đã theo gương một nhà cách mạng Nga là Bakounine tự sáng lập một tờ “báo nhẩm”. Bakounine chủ trương cách mạng vô chánh phủ (Anarchisme) và bị chế độ Nga hoàng nhốt tù. Bakounine chủ xướng mỗi ngày ra “báo nhẩm”, xuất bản hằng ngày như ngoài đời, với đủ chi tiết : xã thuyết, bình luận thời cuộc, tin tức (bịa đặt), văn chương tiểu thuyết v.v…Tường đặt tên tờ báo của mình là Thiên Thu lấy trong câu thơ “nhứt nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Tường đã “xuất bản” được 70 số báo Thiên Thu trong bót Catinat và chỉ đình bản khi được chuyển qua Khám Lớn vì nơi đây không còn nạn bị nhốt riêng. Sau nầy H.H. Tường vẫn còn nhớ được chuyện tiểu thuyết đã viết trong Thiên Thu và năm 1967, đã kể lại trong lời tựa của tác phẩm “Người Mỹ Ưu Tư ”.
Trước khi bị bắt, trong thời gian phụ trách tạp chí bí mật Tháng Mười, H.H. Tường cũng đồng thời đã thực sự bước vào làng báo công khai. Tường được mời hợp tác viết trong tờ Nam Nữ Giới Chung của hai ký giả có tiếng thời bấy giờ là Cao Hải Đễ và Trần Hữu Độ. Trần Hữu Độ là một nhà nho có óc tiến bộ, đã tìm cách thức tỉnh đồng bào bằng cách phổ biến tư tưởng của Lương Khải Siêu, Khương Hữu Vi…Vì vậy nên tờ Nam Nữ Giới Chungchỉ ra được một số là bị cấm! Khởi đầu làm báo bí mật Tiền Quân, chỉ ra được một số, nay bắt qua làm báo công khai, lại cũng ra được có một số: Hồ Hữu Tường quả đã mang một cái nghiệp lạ đời!
Sau hơn ba tháng thất nghiệp, H.H. Tường có dịp may được mời gia nhập bộ biên tập của nhật báo Công Luận, với hai ông Diệp Văn Kỳ và Nguyễn Văn Bá. Bút hiệu của Tường trong Công Luậnlà Bửu Liên, một tên tự đã được một ông đồ nho đặt khi Tường mới ra đời. Thân phụ của Tường nằm mộng thấy một đóa sen lạ đêm sanh ra Tường. Ông thuật việc ấy cho bạn nghe và ông nầy cho đó là một điềm lành nên đặt tên Hữu Tường, với tự là Bửu Liên. Vào thời buổi nầy, giữa Nguyễn Văn Bá và Nguyễn An Ninh có cuộc bút chiến, mặc dầu cả hai đều là bạn. Bá cãi không lại Nguyễn An Ninh nên có mặc cảm bị yếu thế. H.H. Tường, là người đã từng tôn sùng Nguyễn An Ninh, lúc ấy có viết một bài phê bình quyển Tôn Giáo của ông Ninh, ký dưới bút hiệu Bửu Liên. Quyển Tôn Giáo là một sách dùng Duy vật sử quan để xét vấn đề Phật giáo. Nguyễn Văn Bá thấy hay nên đã nắm cơ hội đăng trong Công Luận .
Nguyễn An Ninh đọc luận điệu trong bài phê bình và nghi là do Tạ Thu Thâu viết nên đã trách Thâu : “Tụi mác xít bây xài không được. Trong chỗ quen biết thâm tình nhau, bây có chỉ trích tao, thì cứ ký tên ngay thẳng đi. Có gì cần cãi, thì tao cãi với. Bộ bây trốn dưới bút hiệu vô danh, đâm sau lưng anh em, mà tao không biết sao?”
Tạ Thu Thâu đã thề thốt bán mạng là Thâu không phải Bửu Liên nhưng Ninh không tin : “Tụi duy vật bây có tin có thần có thánh đâu mà thề? Quỉ thần sợ bây, chớ bây đâu có sợ quỉ thần mà bày trò thề thốt?”
Nhưng rồi cuối cùng khi Nguyễn An Ninh biết được Bửu Liên là Hồ Hữu Tường nên chẳng những đã không giận mà kể từ đó, đã coi Tường là một em út cần được xây dựng.
H.H. Tường ngoài việc giúp báo Công Luận còn được Đoàn Quang Tấn, chủ nhiệm và chủ bút tuần báo Đồng Nai , một tuần báo do một số trí thức Tây học như bác sĩ Nguyễn Văn Nhã, giáo sư Đặng Minh Trứ chủ xướng. Tường ngoài việc viết bài còn đảm trách việc gọt, giũa văn cho báo. Nhờ sự cộng tác này nên về sau, Đoàn Quang Tấn đã thỏa thuận giao tuần báo Đồng Nai lúc đó đang bị đình bản gần hai tháng, cho Phan Văn Hùm và Hồ Hữu Tường quản lý. Phan Văn Hùm khi ấy vừa ở Pháp về và đang tìm cơ hội hoạt động. Tuần báo Đồng Nai đã được khởi sắc với những bài viết có lập trường xã hội công khai. Tác giả các bài báo là những người đã có tiếng như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Huỳnh Văn Phương…Những cuộc bút chiến về vấn đề “nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh” giữa Phan Khôi và Phan Văn Hùm đã gây nhiều sôi nổi trong văn giới và chỉ được chấm dứt nửa chừng khi Đồng Nai bị chánh quyền thực dân rút giấy phép. Nhóm Đồng Nai đã trở thành nơi tập trung của các tác giả “cách mạng” vì ngoài việc viết lách, lại còn tổ chức các cuộc diễn thuyết ở trụ sở hội Đức Trí Thể Dục. Ở hội trường này, Phan Văn Hùm và Tạ Thu Thâu đã trình bày về biện chứng pháp và người đến tham dự rất đông. Nhà cầm quyền thực dân vì thế thấy cần phải sớm ra tay bịt miệng tuần báo Đồng Nai.

Hồ Hữu Tường sau khi bị bắt vì vụ báo bí mật Tháng Mười, đã bị xử ba năm tù treo và được thả ngày 1 tháng 5 năm 1933. Đó là lúc có cuộc bầu cử nghị viên Hội đồng thành phố SàiGòn-Chợ Lớn. Lợi dụng thời cơ nầy, những nhà cách mạng miền Nam lấy quyết định ra ứng cử để có dịp cổ động công khai đường lối xã hội. Một sổ Lao Động được thành lập với Nguyễn Văn Tạo và Trần Văn Thạch đứng đầu sổ. Vì Nam Kỳ là một thuộc địa của Pháp nên về chế độ báo chí, nếu là báo tiếng Pháp, thủ tục xuất bản rất dễ dàng như ở Pháp. Muốn ra báo, chỉ cần khai trước biện lý cuộc 24 giờ trước khi đem báo rời khỏi nhà in, nhưng chủ nhiệm và quản lý phải là người Pháp. Ban vận động bầu cử đã dựa vào đạo luật dân chủ nầy để xuất bản tuần báo Pháp ngữ La Lutte làm cơ quan tuyên truyền. Báo đã gây được ảnh hưởng lớn trong dư luận quần chúng nhưng chỉ ra được bốn số và đình bản sau khi cuộc bầu cử chấm dứt. Hồ Hữu Tường không có tham dự viết trong La Lutte ở giai đoạn đầu nầy.
Một năm sau, tờ La Lutte được tái bản do sự vận động của Nguyễn An Ninh. Kỳ nầy, với mục đích cùng chung một lập trường tranh đấu chống thực dân Pháp ở Đông Dương, Nguyễn An Ninh đã thuyết phục được cả hai phái Đệ Tam và Đệ Tứ ở miền Nam đồng ngồi chung lại trong ban biên tập. Các bài viết đều không có ký tên và hai hệ phái phải tránh không chỉ trích lập trường của nhau. Kỳ tái bản nầy có H.H. Tường tham gia viết nhưng không tích cực vì bên phía Đệ Tam của Nguyễn Văn Tạo có ít người viết giỏi Pháp văn, nên Tường tự chế không muốn để phía Đệ Tứ có vẻ lấn lướt. Việc hai phái Đệ Tam và Đệ Tứ cùng nhau cộng tác trong một tổ chức là chuyện hi hữu. Trên thế giới, việc này chỉ xảy ra ở Việt Nam mà thôi. Hồ Hữu Tường đã gọi chuyện này là một “quái thai lịch sử ” và sử gia Pháp, Daniel Hémery, giáo sư Đại học Sorbonne đã viết một luận án danh tiếng về thời kỳ này.
Đầu năm 1935 có việc bầu cử Hội đồng Quản hạt ở Nam kỳ. Nhân dịp này, nhóm La Lutte quyết lợi dụng cơ hội để có thể công khai tuyên truyền chống chế độ thực dân ở Nam kỳ. Bên Đệ Tam có Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn Nguyễn, Dương Bạch Mai thành lập liên danh. Phía Đệ Tứ có Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch và Hồ Hữu Tường. Hồ Hữu Tường vì chưa đến 25 tuổi nên liên danh kể như không hợp lệ nhưng vẫn cứ sinh hoạt dán bích chương, in truyền đơn phân phối cho dân chúng có dịp đọc.

Báo La Lutte viết bằng Pháp văn. Phần nhiều các bài thường do Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch,Nguyễn Văn Tạo, Phan Văn Chánh viết. Nguyễn An Ninh trong công việc di chuyển đó đây bán dầu cù là, lại đảm trách thêm việc giải thích cho dân chúng các bài báo vì ông có biệt tài dẫn giải rất bình dân những tiêu đề khó khăn cho sự hiểu biết thông thường.
Đứng trong hàng ngũ nhóm La Lutte, Tạ Thu Thâu phải theo đường lối chung, không thể hoạt động theo xu hướng Đệ Tứ, nên đã giao cho H.H. Tường trách nhiệm tùy cơ, huấn luyện các thanh niên có cảm tình với Thâu. Năm 1936, H.H. Tường được Trịnh Văn Lầu tiếp tay trong việc truyền bá chủ nghĩa, nhân thời cơ thuận tiện của sự thành lập Mặt Trận Bình Dân ở Pháp. Trịnh Văn Lầu đã có sáng kiến tổ chức đánh cắp chữ in của các nhà in và thành lập cơ quan in ấn bí mật để H.H. Tường xuất bản tạp chíThường Trực Cách Mạng, một tạp chí bí mật duy nhứt trong xứ được in bằng chữ in. Cơ quan ấn loát được giao cho một anh thợ nhà in bị bịnh ho lao nặng, phụ trách ở một chòi lá vùng Thị Nghè. Mật thám Pháp vì thấy tạp chí được in đẹp nên tưởng nhầm là được nhóm Đệ Tứ in ở ngoài nước. Khi có tin Mặt Trận Bình Dân thắng thăm vẻ vang ở Pháp, truyền đơn được in và rải khắp Sài Gòn. Phản ứng mau lẹ đó chứng tỏ rằng truyền đơn ắt phải do nhà in trong xứ thực hiện . Mật thám tung ngay một mẻ lưới điều tra và cơ quan in ấn vì vậy bị phát giác, chấm dứt luôn giai đoạn làm báo bí mật của Hồ Hữu Tường !
Hưởng ứng sự thành công của Mặt Trận Bình Dân ở Pháp và cũng để chuẩn bị tiếp đón các phái đoàn điều tra từ Pháp sắp qua Việt Nam, nhóm La Lutte với sự dẫn đầu của Nguyễn An Ninh, rần rộ khởi xướng Phong trào Đông Dương Đại Hội và sự thành lập các Ủy Ban Hành Động. H.H. Tường được đề cử làm Tổng Thơ ký của Phong trào và đã có công trong việc cổ động cho Đông Dương Đại Hội qua việc vận động ký giả các báo Việt ngữ.
Trong giai đoạn nầy, H.H. Tường có cho xuất bản một tuần báo tiếng Pháp với sư cộng tác của một đồng chí là Đoàn Văn Trương. H.H. Tường lợi dụng việc Nam kỳ là một thuộc địa của Pháp nên trên danh nghĩa, người Việt sanh sống ở Nam kỳ được coi là thần dân Pháp (Sujet francais de Cochinchine). Vì vậy nên Đoàn Văn Trương có đủ tư cách làm quản lý một tờ báo tiếng Pháp. Tuần báo Le Militant (Chiến Sỉ) do đó được ra đời trót lọt và đã gây được một tiền lệ: ở Nam kỳ, ra báo Pháp ngữ không cần phải có quản lý người Pháp. Ra được bốn số, tuần báo Le Militant hết vốn nên phải đình bản cho đến một năm sau mới tái bản được và lần nầy ra được 21 số. Le Militant đến giai đoạn này phải dẹp vì hai nhóm Đệ Tam và Đệ Tứ đã ly khai, không còn hợp tác nhau được nữa trong nhóm Tranh Đấu: Nhóm Đệ Tam cho ra báo L’Avant Garde, về sau đổi tên thành Le Peuple. TờLa Lutte được nhóm Đệ Tứ tiếp tục nắm giữ nên không thấy có lý do phải duy trì hai tờ báo cùng một chủ trương và đường lối.
Đến năm 1938, một hội ký giả lấy tên là A.J.A.C. ( Association des journalistes annamites de Cochinchine) được thành lập để tranh đấu cho báo chí tiếng Việt được hưởng quy chế tự do giống như quy chế các báo Pháp ngữ. Hội trưởng là Nguyễn Văn Sâm, chủ nhiệm báo Đuốc Nhà Nam và Tổng Thơ ký là Trần văn Thạch. Nhóm Đệ Tam tình nguyện đi tiên phong, ra báo với thủ tục y như báo Pháp ngữ. Nhưng đến khi báo in được số nào thì nhà cầm quyền đều cho sở mật thám đến, hốt hết. Ra tòa, anh quản lý bị lên án. Sau các thủ tục chống án lên tòa trên, qua tòa Phá án, cuối cùng bản án được chuyển đến Hội đồng Quốc gia bên Pháp vào mùa thu năm 1938. Hội đồng này cũng giống như một Tối Cao Pháp Viện, đã hủy bản án vì luật pháp không minh định rõ ràng về tự do báo chí cho báo Việt ngữ ở Nam kỳ. Đây là một thắng lợi lớn về tự do báo chí.

Nhóm Đệ Tam lập tức đổi tờ Le Peuple thành tờ báo Việt ngữDân Chúng. Nhóm Đệ Tứ cánh Tạ Thu Thâu đổi tờ La Luttethành tờ Tranh Đấu; cánh Hồ Hữu Tường cho xuất bản: tuần báoTia Sáng, sau 6 tháng đổi thành nhật báo, tạp chí lý luận hằng tháng tên Tháng Mười và một tuần báo nghiệp đoàn tên Thầy Thợ. Tạp chí Tháng Mười Thầy Thợ được H.H. Tường giao cho Đào Hưng Long làm quản lý.
Cuối năm 1938, chế độ báo chí và xuất bản ở Nam kỳ được đặc biệt nới lỏng khi sắc luật Daladier ngày 30 tháng 8, 1938 cho báo chí chữ quốc ngữ được xuất bản không cần xin phép trước. Việc kiểm duyệt và tịch thâu báo không còn thấy xảy ra như trước.
Ở Bắc và Trung, phong trào tự do báo chí được hưởng ứng nồng nhiệt. Các ký giả trong Nam cũng như ngoài Bắc đua nhau viết vì đều tiên đoán chiến tranh sắp sửa xảy ra, và nhà cầm quyền Pháp sẽ siết chặt lại hoạt động của giới truyền thông. H.H. Tường đã thú nhận là chưa có bao giờ lại có cơ hội làm việc hăng hái như thời trước Đệ nhị Thế chiến này: mỗi ngày, ngoài việc đi dạy học tư, Tường phải viết thông thường là bốn bài báo.
Đến cuối tháng 8, năm 1939, không khí chiến tranh đã thấy bao trùm ở Âu châu. Đêm 23 rạng ngày 24, hiệp ước Hitler-Stalin được ký kết. Ngày 1 tháng 9 quân đội Đức tiến vào Pologne. Lịnh tổng động viên được ban hành ở Pháp và ở Đông Dương. Ngày 3 tháng 9, Pháp và Anh tuyên chiến với Đức. Ngày 25 tháng 9, đảng Cộng sản Pháp bị cấm hoạt động. Toàn quyền Đông Dương hưởng ứng sắc lịnh cấm đó và ngày 29 tháng 9, mật thám tiến hành việc bố ráp trong toàn xứ.

Chỉ trong vài ngày, 121 người theo phái Stalin và 55 người theo xu hướng Trotsky đã bị bắt. Nhà cầm quyền đã thi hành 323 cuộc lục xét, tịch thâu 2332 cuốn sách và 26316 ấn phẩm báo chí (Báo cáo của Thống đốc Nam kỳ gởi Toàn quyền ngày 3-11-1939, AOM NF 1820). Các báo chí của cả hai phái Đệ Tam, Đệ Tứ đều bị cấm. Hồ Hữu Tường cũng như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch và các nhà cách mạng khác đều hoặc bị bắt vào tù hay bị đưa vào các trại tập trung ở núi Bà Rá và Tà Lài (Biên Hoà)!
Hồ Hữu Tường đã vào tù hơn năm năm, không còn cơ hội hoạt động báo chí cho đến mãi đầu năm 1948 mới có dịp trở lại làng báo, do thi sĩ Đông Hồ mời cộng tác. Sau khi mãn tù ở Côn Đảo về và còn bị án biệt xứ, cư trú ở Cần Thơ, năm 1944, Hồ Hữu Tường đã tuyên bố với các bạn đồng chí cũ: “ Tôi trở về con đường dân tộc, tôi cho rằng việc giai cấp vô sản giải phóng nhân loại là một huyền thoại lớn của thế kỷ 19 và tiềm năng cách mạng của giai cấp vô sản ở châu Âu và Bắc Mỹ là một huyền thoại lớn của thế kỷ 20”.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật đảo chánh chánh quyền Pháp ở Đông Dương. Các đoàn thể chánh trị Việt Nam có cơ hội hoạt động công khai. Những lãnh tụ các đảng bị Pháp lưu đày biệt xứ đã trở về các đô thị, tái tổ chức hàng ngũ. Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch…đều trở về lại Sài Gòn, củng cố lại nhóm Tranh Đấu. Hồ Hữu Tường chọn việc du hành ra Bắc, cho đến ngày Việt minh cướp chánh quyền ở Hà Nội. Trong bức điện tín ngày 27 tháng 8 năm 1945 của Ủy ban Nhân dân Cách mạng Bắc Bộ, gởi khẩn cầu Bảo Đại thoái vị, ngoài chữ ký của Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Xiển, Ngụy Như Kontum cũng có tên Hồ Hữu Tường. Bảo Đại sau nầy đã cho biết ông đã đồng ý vì thấy trong những người ký bức điện tín có Hồ Hữu Tường là nhân vật mà ông biết đã từng hoạt động chánh trị và am hiểu tình hình thế giới.
Tuy nhiên, năm 1945, Hồ Hữu Tường cũng biết Việt Minh chủ trương diệt các thành phần Đệ Tứ. Để tránh tai mắt trinh sát Việt Minh ở Hà Nội, Tường nhờ được bác sĩ Phạm Ngọc Khuê đưa về Nam Định. Ở đây, H.H. Tường đã viết quyển Muốn hiểu chánh trị , tác giả lấy bút hiệu Huân Phong. Họa sĩ Tô Ngọc Vân e sợ ký như vậy, Tường sẽ dễ bị lộ tung tích vì câu thơ “Huân phong tự Nam lai”. nên đã sửa lại là Thuần Phong. Về sau, Tường đã chọn lại bút hiệu Huân Phong để kỷ niệm những ngày sống với Phạm Ngọc Khuê.
Trên các quyển viết cho nhà xuất bản Tân Việt ở Hà Nội, nhưKinh Tế học và Kinh Tế chánh trị nhập môn, Xã Hội học nhập môn Hồ Hữu Tường chọn bút hiệu Khổng Cưu. Sách do Hàn Thuyên xuất bản đều đề tên Nguyễn Huệ Minh là tên của vợ H.H. Tường. Trên các quyển viết cho nhà xuất bản Minh Đức , bút hiệu được chọn là Duy Minh vì H.H. Tường muốn tỏ lập trường biệt lập giữa Duy tâm và Duy vật. Trong thời gian ở Bắc, năm 1946, H.H. Tường có viết một tác phẩm mà ông đắc ý nhất. Đó là quyểnTương Lai văn Hóa Việt Nam, viết trong hình thức “thơ bằng văn xuôi”, bìa do họa sĩ Tô Ngọc Vân trình bày, Minh Đức in 500 bản hình thức sách quý, giấy đặc biệt chế tạo riêng tại làng Bưởi.
Đầu năm 1948, Hồ Hữu Tường từ Hà Nội trở lại về Sài Gòn. Nhà văn Thiên Giang đưa H.H. Tường đến thăm thi sĩ Đông Hồ. Nơi đây Tường gặp chẳng những Đông Hồ, lại có thêm Dương Tử Giang. Hai nhà văn này đang lãnh phụ trách làm một báo Xuân, do Lư Khê bỏ vốn. Đông Hồ mời H.H. Tường viết giúp và đưa trước ngân khoản cho Tường lúc đó đang túng thiếu. Tường nhận lời với điều kiện không ký tên thật. Đông Hồ đề nghị cho Tường các bút hiệu Lân Trinh và Ly Duệ. Lân Trinh có nghĩa là gần với chữ Trinh. Trong thành ngữ, hai chữ Trinh, Tường thường hay dùng chung nhau. Đông Hồ đặt Lân Trinh , cố ý chỉ rằng tác giả là Tường đó! Còn Ly Duệ để nhắc rằng tác giả bài đó là con cháu của Hồ Quý Ly. Đông Hồ thường nhờ H.H. Tường viết nhiều bài trong mỗi số do ông chủ trương biên tập nên Tường phải có nhiều bút hiệu khác nhau. Như khi viết những tiểu thuyết Thu Hương, Chị Tập , H.H. Tường ký Duy Cúc, là tên thiệt của một nữ sinh viên mà ông đã gặp khi ở Hà Nội. H.H. Tường đã mượn hình ảnh của sinh viên Duy Cúc để phác họa nhân vật Thu Hương trong tiểu thuyết. Duy Cúc sau đã sang Paris du học và đã là một nhà điêu khắc nổi danh.
Trong thời gian hợp tác với Đông Hồ, H.H. Tường có giới thiệu với Đông Hồ và đưa vào làng văn trong Nam, văn sĩ Triều Sơn, từng làm chủ bút tờ Kháng Chiến ở Bắc. Vào Sài Gòn, Triều Sơn làm công nhân cho hãng đóng tàu CARIC ở Thủ Thiêm, lo việc vô dầu, làm máy cho tàu của hãng. Triều Sơn đã rút kinh nghiệm về các cán bộ cách mạng gốc bần cố nông để tạo ra nhân vật “ Nuôi Sẹo”. Triều Sơn đã gọt giũa tác phẩm nhưng đến năm 1954 vẫn chưa vừa ý nên chưa chịu xuất bản, cho đến khi anh qua đời !
H.H. Tường cũng được Đặng Văn Ký mời làm cai thầu biên tập cho tuần báo Sanh Hoạt trong thời Trần Văn Ân làm Tổng trưởng Thông tin. Đặng Văn Ký là một nhân vật tên tuổi trong Nam, đã từng hưởng ứng phong trào Nguyễn An Ninh và phong trào của nhóm Tranh Đấu. Ông đã bị thực dân Pháp đày ở Bà Rá và đã được Nhật giúp đưa lánh nạn ở Tân Gia Ba với Trần Văn Ân, Trần Trọng Kim, Dương Bá Trạc. Trong tuần báo Sanh HoạtH.H. Tường thường chỉ viết bài xã thuyết. Các bài khác ông được một sinh viên lỗi lạc ở Hà Nội cùng theo ông vào Nam là Phạm Mậu Quân, tình nguyện “bao sân”. Phạm Mậu Quân là một sinh viên về toán đã được giáo sư Hoàng Xuân Hãn phục tài vì chép bài rất giỏi. Vào Nam, Phạm Mậu Quân tiếp tục học toán ở Đại học Sài Gòn và cư ngụ ở nhà H.H. Tường. Quân có tài về Toán học nhưng cũng có thêm tài viết báo và viết giống lối văn của Hồ Hữu Tường. Trong các bài viết, Phạm Mậu Quân tìm cách cổ võ cho việc dùng tiếng Việt trong các chương trình giáo dục. Cuối năm 1948. báo Sanh Hoạt ngưng hoạt dộng, Phạm Mậu Quân sang Pháp học và nay là một giáo sư Toán danh tiếng. H.H. Tường tuy ít viết trong Sanh Hoạt nhưng đã nhờ tuần báo này mà phổ biến được chủ trương lập trường Dân tộc trong bài Thân Việt, không thân Mỹ hoặc thân Nga.
Trong khoảng các năm 1948, 1949, H.H. Tường được dịp cộng tác trong báo Sài-gòn Mới của bà Bút Trà. Tường đã cho đăng hằng ngày, từng đoạn của tiểu thuyết Phi Lạc Sang Tàu, một tiểu thuyết mà ông đã ngẫm trong những ngày tránh trinh sát Việt Minh ở Hà Nội. Bút hiệu lúc bấy giờ là Ý Dư, tên mà H.H. Tường đã thấy ký dưới một bức thư tỏ tình thống thiết của Đặng Ngọc Tốt gởi cho em gái của Phạm Ngọc Khuê. Thời bấy giờ, ở giới Đại học Hà Nội có ba sinh viên quái kiệt về diễn thuyết là Nguyễn Đình Thi, Huỳnh Văn Tiểng và Đặng Ngọc Tốt. Trong thời Kháng chiến Nam Bộ, Đặng Ngọc Tốt cũng nổi tiếng, khi phụ trách Ban Tuyên Truyền Lưu Động Nam Bộ nhưng khi ra Bắc phụ trách đảng Dân Chủ thì không biết vì lý do gì, lại ít được nhắc nhở. Khi được biết trong khu Nam Bộ , Tốt hay ăn nói lớn lối, giống như anh chàng Phi Lạc trong tiểu thuyết, một thằng mõ ở Bắc được đặt trên ngôi tiên chỉ, nên H.H. Tường mới chọn bút hiệu đó cho câu chuyện. Bộ tiểu thuyết “Ngàn Năm Một Thuở ” với: Phi Lạc Sang Tàu, Phi Lạc Náo Huê Kỳ, Phi Lạc Bỡn Nga đã được H.H. Tường cho trích đăng từng đoạn trên Sài-gòn Mới, Phương Đông, Ánh Sáng…

Mùa xuân năm 1949, Hồ Hữu Tường đáp tàu sang lại Pháp, tình nguyện làm đặc phái viên của Sài-gòn Mới và tiếp tục gởi về các đoạn của tiểu thuyết Phi Lạc Sang Tàu. Ông cũng tiếp tục viết bài về cho Đông Hồ khi có được dịp. Được sự giúp đỡ của một người bạn cũ đang mở một chương trình dạy khoa Cảnh Sát bằng lối hàm thụ, H.H. Tường noi theo ý kiến hay của bạn, mở một lớp dạy làm báo. Các bài nầy đã được cho in lại trong báo Hòa Đồng năm 1965 được nhà xuất bản Khai Trí in thành sách: Những kỹ thuật căn bản của nghề viết báo.
Ở Pháp, H.H. Tường cũng đã thực hiện được tờ Cảo Thơm, một tập báo Xuân in theo kỹ thuật tối tân Hélio, nhờ sự cộng tác kỹ thuật của Việt Hồ, một Việt kiều đã sống bằng nghề in rất lâu năm ở Pháp.
Trong dịp cộng tác giúp ý kiến cho kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích về nhà xuất bản Minh Tân, H.H. Tường được tặng một số vốn. Nhờ vậy H.H. Tường có được khả năng để thực hiện tạp chí song ngữ Pháp-Anh Pacific năm 1952. Tạp chí được xuất bản ba tháng một kỳ. H.H. Tường đã có phương tiện để cổ võ cho thuyết Trung Lập và kêu gọi các nước nhược tiểu thành lập “ thế giới thứ ba”. Đây sẽ là một lực lượng mới, có khả năng cân bằng giữa hai khối Nga, Mỹ đang đối đầu. Tờ Pacific được duy trì đến tám số cho đến năm 1954, khi H.H. Tường bị vào tù khi trở về xứ. Tuy tập san được nhiều giới ở ngoại quốc chú ý nhưng đã bị thủ tướng Nguyễn Văn Tâm ra lịnh cấm lưu hành ở Việt Nam nên số vốn đã tan dần.
Hồ Hữu Tường đã được dịp trở về xứ đôi ba lần sau năm 1952 và đã được dịp cùng bạn bè tổ chức tuần báo Phương Đông . Về sau, Phương Đông đổi thành nhật báo và là cơ quan truyền bá tư tưởng của H.H. Tường. Chủ bút do Lê Văn Siêu phụ trách; Thái Linh là Thơ ký tòa soạn; Nguyễn Hữu Nghi tự Ngu Í là nhà chuyên môn phỏng vấn. Độc giả miền Bắc ủng hộ báo rất mạnh, miền Nam chỉ tiêu thụ khoảng một phần tư. Do được độc giả đất Bắc chiếu cố nên báo được duy trì, trong khi dân miền Nam đinh ninh là Phương Đông sẽ đóng của sớm. Vì báo chủ trương đường lối Trung Lập, nhiều nguồn tin trái ngược được đồn đãi, khi thì cho là báo đượcViệt Minh tài trợ, khi thì nghi do cơ quan phòng Nhì của Pháp đưa tiền, hoặc do Mỹ chuẩn bị nhảy vào Việt Nam khi Pháp bỏ cuộc, hoặc do tình báo Anh giúp vốn, xuyên qua các nước Ấn Độ, Miến Điện…
Khi có hội nghị Hòa Đàm Genève năm 1954, H.H. Tường qua Thụy Sĩ phổ biến bài thuyết trình về “ trung lập chế ” đã được in trong số đặc biệt Phương Đông. Bản dịch tiếng Pháp là “ La seule bonne voie ”, tiếng Anh là “ The only good way”. Nhưng việc làm không đem đến ảnh hưởng mong muốn và kết cuộc, ngày 20 tháng 7 năm 1945, đất nước Việt Nam đã phải chịu chia đôi!

Trở về nước, Hồ Hữu Tường vướng trong vụ Bình Xuyên, bị vào tù tháng 3 năm 1955 và bị chế độ Ngô Đình Diệm kết án tử hình. Nhờ được sự lên tiếng ủng hộ mạnh mẽ của các danh nhân trên thế giới như Thủ tướng Ấn ông Pandit Nehru, văn hào Albert Camus v.v…nên Hồ Hữu Tường mới được thoát chết.
Khi chế độ Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, H.H. Tường mới ra khỏi nhà tù vào tháng Giêng năm 1964. Sau bao năm tù đày ở Côn Đảo, sức khỏe của H.H. Tường đã suy giảm rất nhiều. Mãi đến gần năm tháng sau ông mới bắt đầu bình phục để có thể tập trung tư tưởng, ngồi viết một vài bài báo cho tờ Ánh Sáng của Hoàng Hồ. Hoàng Hồ lúc đó làm giám đốc tờ báo nên có mỹ ý dành cho H.H. Tường cơ hội tập viết lại. Trong tờ Ánh Sáng của Hoàng Hồ, H.H. Tường đã đề nghị chủ trương “liên hiệp quốc hóa Việt Nam” , thay thế cho lập trường “trung lập chế” của ông trước kia.
Qua năm sau, ông Nguyễn Lương Hưng mời H.H. Tường vào ban biên tập của một tuần báo tên Hòa Đồng Tôn Giáo mà ông đã đứng xin cho Hội này. Sau khi có được phép của Bộ Thông tin thì Hội lại không tìm đủ ngân khoản cho ông Hưng thực hiện ra báo. H.H. Tường đi vay được một số vốn nên tuần báo mới được dịp ra đời, với cái tên cắt ngắn là Hòa Đồng. Tuần báo được nhiều độc giả trí thức ưa chuộng nhưng không sống lâu dài khi làng báo, vào lúc đó đang gặp phải khủng hoảng vì việc đầu cơ giấy.
Sau khi Hòa Đồng đình bản, H.H. Tường đã được Chu Tử mời viết trên Sống, quyển tiểu thuyết thời đại “ Người Mỹ Ưu Tư ”. Vì sách không được giấy phép in ở Việt Nam nên ông Tường đã đem qua Pháp xuất bản dưới hình thức loại sách quý, viết tay, chỉ dành cho một số thân hữu. Tác giả và các bạn đã có lúc dùng văn bản Người Mỹ Ưu Tư là một tác phẩm có tánh cách thời sự quốc tế, để vận động cho Hồ Hữu Tường tham dự giải văn chương Nobel nhưng không có được kết quả.
Sự hợp tác với Sống của Chu Tử lại có tác dụng giúp ông Tường, năm 1967, làm dân biểu Hạ Viện. Đây cũng là giai đoạn ông được nhiều nhà báo mở rộng cửa mời ông viết bài như Tiếng Nói Dân Tộc, Quyết Tiến, Đuốc Nhà Nam, Tin Sáng, Saigòn Mới, Điện Tín v.v…

***

Vợ chồng tác giả bài nầy đã từng khâm phục ông Hồ Hữu Tường, từ khi biết được ông năm 1951, khi còn là sinh viên ở Pháp. Khi trở về nước, cũng thường được gặp ông, nhất là giai đoạn ông cho ra tuần báo Hòa Đồng. Khi ông Tường ra làm dân biểu Quốc hội, ông thường ghé nhà chúng tôi trong cư xá Hải Quân, đường Chu Mạnh Trinh. Lúc đó ông lại bắt đầu mặc áo cà sa màu nâu, cổ mang chuỗi nhà Phật. Gia đình chúng tôi vốn rất phục ông vì tài viết văn : ngồi viết sau một buổi ăn, chỉ độ một giờ là xong một bài cho Hòa Đồng chẳng hạn, sửa chữa lại rất ít là có thể đưa đi in. Tiếc tài của ông vì nhiều khi bị dư luận công kích vô lối, chúng tôi thường năn nỉ ông, xin mỗi ngày ông đến với gia đình chúng tôi để ngồi viết hồi ký chánh trị của ông, truyền lại cho hậu thế. Lúc tôi có được dịp tham gia chánh phủ, tôi có cho ông biết, tôi muốn mời ông giữ một chức như công cán ủy viên ở bộ Xã Hội, để ông có lương hằng tháng. Ông sẽ khỏi cần làm một việc gì trong bộ tham mưu, ông chỉ ngồi nhà viết hồi ký.
Ông Tường cười, phô cái hàm răng đặc biệt của ông và nói: “ Tôi có cái tật ngồi yên một chỗ không được, phải luôn luôn tìm cơ hội hoạt động. Anh mới là người phải ngồi viết truyện về thập niên 1940 như tôi đã bảo với anh ”.
Ông muốn nhắc đến việc lần đầu gặp ông ở Paris. Nhân dịp nghỉ lễ Giáng Sinh, tôi từ Bordeaux lên Paris. Tiền túi ít nên trưa thường đi theo các bạn thổ công ở Paris, mua giùm phiếu để được vào “ăn lậu” ở các quán ăn sinh viên. Một hôm ở quán Parc Montsouris, trong khi xếp hàng, thấy một “sinh viên” Á Đông lớn tuổi, miệng có hàm răng cửa rất lớn, đang cười, nói tiếng Việt, nhờ một sinh viên đứng sau, dùng hai tay đấm thùm thụp vào lưng cho đỡ lạnh. Anh bạn đưa tôi đi ăn cho biết : “ Ông đó là Hồ Hữu Tường. Hôm nay chắc ổng cũng tìm được thẻ để đi ăn lậu như anh”.
Lúc đó, tôi đã biết danh Hồ Hữu Tường, nhưng không được biết là trong thời gian ở Côn Đảo, sau ba năm suy gẫm, ông đã tuyên bố ly khai với chủ nghĩa Các Mác. Tôi đã bắt chuyện với ông trong buổi ăn, thuật những chuyện Cộng sản Đệ tam đã thủ tiêu các nhà ái quốc và nhóm Tranh Đấu thuộc Đệ tứ, khi mở đầu giai đoạn kháng chiến ở Nam Bộ. Ông Tường rất chú ý và rủ tôi ra một quán cà phê Dupont để tiếp nối câu chuyện. Khi tôi kể đến việc đấu khẩu giữa Dương Bạch Mai và Phan Văn Hùm, buổi chiều trước đêm Mai ra lịnh thủ tiêu ông Hùm và các chiến sĩ Đệ Tứ, ông Tường đã tỏ ra bị xúc động mạnh. Ông nói với tôi: “ Anh có bổn phận phải viết lại giai đoạn này”.

Cho đến nay tôi chưa hoàn tất việc viết sách vì không có được cái tài viết nhanh như Hồ Hữu Tường. Ông Tường là người gắn bó với nghề viết báo. Ông là người có nhiều ý kiến đi trước thời cuộc và muốn phổ biến các tư tưởng của ông. Có lẽ vì ông có thêm thiên phú về Toán học, nên ông thường dự tính được nước cờ trước nhiều người khác. Từ khi khởi đầu viết báo bí mật thời thực dân Pháp đến các giai đoạn viết báo công khai, ông lúc nào cũng say mê với các cải biến kỷ thuật làm báo và tìm cách hướng dẫn việc viết báo trong thời kỳ ở trong xứ chưa có trường dạy về môn này.

Rất tiếc là sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, Hồ Hữu Tường đã phải gánh chịu cái oan nghiệp mà đảng Cộng sản Việt Nam đã áp đặt lên đầu dân chúng miền Nam. Ngoài cái cộng nghiệp mà các giới miền Nam phải đương đầu, H.H. Tường có lẽ còn có cái thêm cái biệt nghiệp: nghiệp làm báo. Tưởng cũng nên kể thêm đến một giai thoại tiếu lâm được Đỗ Thái Nhiên ghi lại, khi bị nhốt ở phòng giam tập thể thuộc trại giam số 4 Phan Đăng Lưu: Một hôm, cả phòng đang giờ nghỉ, Lý Hùng, một người tù Việt gốc Hoa, cất cao tiếng, hỏi Hồ Hữu Tường đang nằm ở cuối phòng:
-Bác Tường ơi ! Thời Tây, thời Ngô Đình Diệm và cả thời nầy nữa, thời nào Bác cũng ở tù. Bác có hiểu tại sao Bác cứ ở tù hoài hoài vậy không ?
Hồ Hữu Tường nhìn Lý Hùng vừa cười vừa hỏi dò chừng:
-Mày trả lời giùm tao đi, tại sao ?
Lý Hùng nhanh nhẩu trả lời:
-Dễ quá mà ! Tên Bác là “ Hữu Tường” nên Bác phải “hưởng tù” dài dài !
Hồ Hữu Tường, mắt nhìn xa xăm trông thật buồn, nói nhỏ giọng:
-Có thể thằng nầy nói đúng !
Năm 1999, nhà văn đã quá cố, Như Phong Lê Văn Tiến có nhờ tác giả viết bài về Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ cho Đài Á Châu Tự Do phát thanh về Việt Nam. Khoảng hai tháng sau, tác giả tình cờ nhận được một thơ gởi từ Việt Nam, nhờ Đài VOA tìm chuyển đến tác giả. Trong các cuộc trao đổi thơ tín về sau, người gởi ( tác giả xin miễn đề cập đến tên, nơi sinh sống hiện nay…) cho biết anh là đồ đệ và bạn tù của Hồ Hữu Tường ở trại giam Hàm Tân. H.H. Tường lúc ấy sức khỏe rất suy giảm, đã nhờ anh nếu ra khỏi tù, hãy tìm tác giả để nhắn những chuyện phải làm nếu H.H. Tường qua đời. Vì vậy nên tác giả còn mang nhiều nợ với ông Tường !
Chánh quyền Cộng sản đã bắt H.H. Tường vào năm 1977. Sau bao nhiêu năm bị giam cầm ở Sài Gòn, các bạn tù đều cho biết là sức khỏe H.H. Tường khá tốt. Lúc nào ông cũng ngậm một lát gừng tươi trong miệng. Có thể việc ngậm gừng này là việc áp dụng những bàn cãi giữa ông Tường và tác giả. Tác giả có cho ông Tường biết về việc các đồng nghiệp quân y sĩ Pháp của tác giả đã báo cáo trong một hồ sơ ở Trường Quân Y Hải Quân Bordeaux: những tù binh Pháp bị bắt sau trận Điện Biên Phủ được sống sót trở về, phần đông là những người thích tìm ớt rừng để ăn hoặc hay ăn gừng để chống lạnh và sốt rét. Tác giả và các bạn đồng nghiệp cho rằng các tù nhân đã sống nhờ sinh tố A (màu đỏ của ớt). Ông Tường góp ý là nên thử nghiên cứu kỹ thêm, vì các thức ăn có chất cay, nhất là thảo mộc, ngoài nhiệt năng (énergie calorifique) hiện được đo lường bằng đơn vị calories, có thể còn chứa chấp loại năng lượng về sức sống (énergie vitale) mà khoa học hiện tại chưa tìm được cách thức dò xét ? Các bạn tù của ông Tường còn cho biết thêm, là mỗi đêm khuya, ông Tường thường ngồi đánh cờ một mình, tay trái đi cờ đối thủ với tay mặt! Ngoài ra, chắc chắn thế nào ông cũng có viết trong đầu, một “tiểu thuyết ngẫm” mà tiếc thay, ông đã đem theo ông, ngày 26 tháng 6 năm 1980, khi ông từ giã để qua một thế giới khác! Bốn năm sau, cuối mùa Đông 1984, tác phẩm cuối cùng của ông, “41 năm làm báo, Hồi Ký ” được Đông Nam Á xuất bản ở Paris.

Một người đã có nhiều kinh nghiệm, biết thể thức giữ gìn sức khỏe và tinh thần qua bao nhiêu năm tháng trong các lao tù, thế mà chỉ trong vòng hai tháng bị đưa đi giam ở Hàm Tân, lại bị lần lần kiệt sức và chỉ được đưa về để gục chết trước thềm nhà mình (VIỆT NAM 1920-1945, Ngô Văn, Chuông Rè-L’Insomniaque, California 2000, trang 436) , là một việc lạ cần được các sử gia điều nghiên trong tương lai.

Tưởng cũng nên ghi lại là đã có một lần, xe chở Hồ Hữu Tường chuyển trại đã bị tai nạn (?) dọc đường và Hồ Hữu Tường đã được đưa trở về Sài gòn chữa trị. Dưới một chế độ nắm toàn quyền lực sinh sát trong tay, với một nghành Công An có nhiều kinh nghiệm học hỏi ở Nga Sô về các kỹ thuật tinh xảo, âm thầm giết người, thì việc thủ tiêu một đối phương đang bị tù, không có gì là khó khăn. Nhưng cũng nên hi vọng là với những cải tiến không ngừng của nền khoa học hiện đại, nhiều âm mưu ám hại, tưởng là bí mật, rồi cũng có ngày bị phát giác.

Texas, đầu Xuân 2003

Sách Tham Khảo:

1-Daniel Hémery, Révolutionnaires vietnamiens et pouvoir colonial en Indochine , Francois Maspero, Paris Vè, 1975
2- Đỗ Thái Nhiên, Hồ Hữu Tường: Người Chết U Uẩn, Tài liệu chép trên Internet, VMAFORUM, 2-18-02
3-Hồ Hữu Tường, 41 Năm Làm Báo, Hồi Ký, ISBN-2-85881-011-7, Đông Nam Á, Imprimerie Sudestasie, 17 rue Cardinal Lemoine-75005, Paris, 1984.
4-Ngô Văn, Việt Nam 1920-1945, ISBN: 2-908744-14-7, L’Insomniaque, Paris, juillet 1995.
5-Ngô Văn, VIỆT NAM 1920-1945, ISBN: 2-908744-40-06, Chuông Rè-L’Insomniaque, California, USA, 2000.

 

Về một kiệt tác của Hồ Hữu Tường

Thiện Hỷ

Thuở nhỏ, song song với những cuốn sách khác, tôi đọc sách của Hồ Hữu Tường. Cuốn đầu tiên, Phi Lạc Sang Tàu in tại Pháp, bìa nhiều màu, được tôi đọc đi dọc lại vài lần: tôi thích nghe anh chàng Phi Lạc “nói dóc” và cũng vì phần mở đầu rất hấp dẫn đối với tôi. Trong chương đầu, một người nào đó do theo sấm ký đi tìm “thánh nhơn” khởi từ Cầu Bông qua Lăng ông Bà Chiểu, mà nhà tôi ở Đakao, gần Cầu Bông, thật là một điều trùng hợp lý thú. Tôi rất ao ước được gặp anh chàng Phi Lạc bằng xương bằng thịt luẩn quẩn ở Đakao, Tân Định (1). Những cuốn sau đó gồm những chuyện ngụ ngôn, truyện Ngày Xuân: Con Ve và Con Kiến (2), sự tích con chim trích, sự tích bánh chưng bánh dày, ăn quả trả vàng, người anh tham lam, cũng được in tại Pháp, nhà xuất bản Kim Khánh vào khoảng năm 1950, mỗi trang đều có hình vẽ rất đẹp. Có người nói với tôi rằng những truyện ngụ ngôn và cổ tích nói trên do Hồ Hữu Tường kể nhưng ông không ký tên. Rồi đến hai cuốn sách mỏng: Nỗi Lòng Thằng Hiệp, Muốn Hiểu Chính Tri, hai cuốn tiểu thuyết: Thu Hương, Chị Tập trong bộ “Gái nước Nam làm gì?”

Vào khoảng 1952 tôi đọc những bài của Hồ Hữu Tường trên báo Mới xuất bản tại Sài Gòn, chủ nhiệm: Phạm Văn Tươi và đồng thời tôi đọc tập san Cảo Thơm do Hồ Hữu Tường làm chủ nhiệm, xuất bản tại Paris. Tập san Cảo Thơm đăng tiểu sử và công trình của nhà bác học Bửu Hội, Nguyễn Đạt Xường, nhà văn Phạm Duy Khiêm, Triều Sơn… (3). Năm 1953, tôi đọc hai cuốn có tính cách nghiên cứu của Hồ Hữu Tường: Kinh Tế Học, Xã Hội Học Nhập Môn (4). Cũng trong năm 1953 tôi đọc hai tờ nguyệt san Pacifc (xuất bản từ năm 1952) do Hồ Hữu Tường làm chủ nhiệm, xuất bản tại Paris, in nhiều màu, nhiều hình ảnh đẹp. Những cây viết trên báo đó ký những tên lạ hoắc. Họ viết về đất nước của họ. Họ không khoe vẻ đẹp của quốc gia họ, chỉ đề cập đến những vấn đề gai góc, hóc búa mà dân tộc của họ đang gặp phải. Tôi có cảm giác như tôi đang quan sát năm, bảy cái mụt nhọt, không có mụt nào chịu nung mủ, mà tôi không có tài mổ một mụt nào cả. Vài tháng sau tôi quên hết những vấn đề thời sự lẩm cẩm của đầu thập niên năm mươi trên Pacific, vì những vấn đề ấy không liên quan gì đến non sông đất nước của mình, vì đâu phải “chuyện ông chuyện cha” gì của mình mà mình phải lý tới cho mệt tim mệt óc. Nhưng tờ Pacific để lại trong tôi một ấn tượng tốt đẹp: kể từ ngày có chủ nghĩa thực dân, vấn đề Việt Nam không bao giờ được giải quyết cách riêng rẽ, vấn đề Việt Nam nằm trong toàn bộ Đông Dương, liên quan mật thiết với vấn đề của nhũng quốc gia Thái Bình Dương. Đầu óc của Hồ Hữu Tường khi cho ra đời nguyệt san Pacific là đầu óc của con chim đại bàng, còn đầu óc của tôi lúc bấy giờ là đầu óc của con chim sẻ. Hai khối Nga, Mỹ trong tương lai sẽ cùng nhau lo cho tất cả những quốc gia Thái Bình Dương trong thế “cộng tồn,” do đó nước Việt Nam sẽ là một nước trung lập.

Pacific ra được tám số thì dẹp tiệm vì Hồ Hữu Tường, năm 1954, khăn gói từ Paris trở về Việt Nam. Từ 1952 cho đến nay, trải qua hơn 40 năm, chưa có người Việt Nam nào tiếp tục công trình Pacific của ông.

Đầu năm 1954 tôi đọc tuần báo Phương Đông, rồi nhựt báo Phương Đông (không đọc liên tục vì không đủ tiền mua báo mỗi ngày) do Hồ Hữu Tường làm chủ nhiệm để lắng nghe ông trình bày chủ trương “trung lập chế.” Cũng vào đầu năm 1954 tình cờ tôi đọc “La seule bonne voie” của Hồ Hữu Tường. Bài viết này dày khoảng mười trang giấy, cỡ giấy đánh máy, giấy quý, in đẹp, không phải một cuốn sách, cũng không phải một bài báo, không đề giá bán, tôi gọi nó là một thứ truyền đơn. “La seule bonne voie” (Con đường tốt đẹp duy nhất) là bản tuyên ngôn về trung lập chế của Hồ Hữu Tường. Trong phần mở đầu ông cực lực phản đổi việc chia đôi đất nước, yêu cầu cựu Thủ tướng Bửu Lộc hoặc cựu hoàng Bảo Đại không ký tên vào Hiệp định Genève. Phần sau Hồ Hữu Tường đề nghị một giải pháp cho nước Việt Nam mà Hồ Hữu Tường gọi là “con đường tốt đẹp duy nhất”: Trung lập chế. Bản tuyên ngôn này với lời lẽ nghiêm túc, đoan chính khác hẳn với những câu nói bông đùa trào lộng của thằng mõ làng Cổ Nhuế khi nói chuyện “đánh cuội” với phái Hồng Môn.

Năm 1965 tôi đọc tuần báo Hòa Đồng do ông chủ trương cũng để nghe lại lập trường trung lập chế của ông. Vài năm sau báo Hòa Đồng chết ngủm vì lý do thời cuộc, báo không chuyên chở đến được miền Trung. Tôi lại theo dõi bài viết của ông trên nhật báo Ánh Sángdo Hoàng Hồ làm chủ nhiệm. Trên báo này ông hô hào chủ thuyết “siêu lập chế” hoặc “liên hiệp quốc hóa” hoặc “quốc tế hóa” nước Việt Nam. Năm 1967, trong hồi ký “41 Năm Làm Báo,” Hồ Hữu Tường viết: “Mà nếu trào lưu lịch sử khiến cho nước Việt Nam chảy xuôi theo dòng trung lập, ấy là thuận lòng trời, đẹp ý người” (5). Rồi đến Phi Lạc Bỡn Nga, Phi Lạc Náo Hoa Kỳ, Tiểu Phi Lạc Náo Sài Gòn (được đăng rải rác trên các nhật báo xuất bản tại Sài Gòn), Thằng Thuộc Con Nhà Nông, Trầm Tư Của Một Người Tội Tử Hình

Tại Mỹ, năm 1992, tôi đọc lại hồi ký “41 Năm Làm Báo.” Nói tóm lại, tôi đọc gần hết tác phẩm của Hồ Hữu Tường, từ những quyển tiểu thuyết (6), những cuốn khảo luận cho đến những bài viết trên nhật báo, tuần báo, bán nguyệt san, nguyệt san… Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Hồ Hữu Tường là cuốn Người Mỹ ưu Tư, phổ biến hạn chế, in tại Pháp vào cuối thập niên 60, tôi chưa được hân hạnh thưởng thức.

Trong số những tác phẩm của Hồ Hữu Tường có một cuốn tôi cho là sáng giá nhất, giá trị đáng được lưu lại mãi mãi đến ngàn sau: Tương Lai Văn Hóa Việt Nam in tại Hà Nội, năm 1946. Cuốn sách này rất mỏng, đồ chừng ba mươi trang giấy in, khổ nhỏ, mỏng như cuốnMuốn Hiểu Chính Tri và Nỗi Lòng Thằng Hiệp. Cuốn sách ấy chứa đựng những lời tâm huyết của Hồ Hữu Tường về văn hóa Việt Nam và nhất là về tương lai văn hóa Việt Nam. Trong Tương Lai Văn Hóa Việt Nam, Hồ Hữu Tường bảo rằng ông đã thấy được văn hóa Việt Nam là một kho tàng hết sức quý báu, một kho tàng tỏa đầy ánh sáng rực rỡ không những trong tương lai nó sẽ chói lọi khắp miền Đông Nam Á Châu mà còn sáng rực trên khắp thế giới (7). Ông nói rằng ông đã khám phá được cái kho tàng văn hóa Việt Nam giống như một người đã ôm được một rương vàng bạc, ngọc ngà, trân châu xà cừ, mã não… ông muốn la thật to, muốn hét thật lớn cho mọi người đều biết chứ ông không muốn ôm trọn kho tàng ấy làm của riêng. Nhưng rồi ông cho rằng có thể có nhiều người không tin. Nhưng riêng ông, ông tin lắm vì ông đã từng khám phá cái kho tàng ấy. Đặc biệt trong cuốn Tương Lai Văn Hóa Việt Nam, Hồ Hữu Tường không định nghĩa hai chữ văn hóa. Không cần phải hiểu văn là gì, hóa là gì, culture là gì, Khám là gì. Cũng không cần phải tìm hiểu nhà văn này định nghĩa văn hóa ra sao, triết gia kia định nghĩa văn hóa như thế nào. Cũng không cần tìm hiểu văn hóa khác văn minh ra sao. Ông không hề so sánh văn hóa giữa nước này với nước nọ, văn minh giữa nước nọ với nước kia. Hồ Hữu Tường rất mực có lý vì theo tôi định nghĩa một từ chuyên môn chỉ gây cho độc giả thêm nhức đầu, rối rắm. không bổ ích gì. Văn hóa đã là như vậy rồi, khi đề cập đến văn hóa trong trí mỗi người đã có sẵn ý niệm sơ khởi, căn bản, nền tảng về văn hóa thì cần chi phải định cho nó một nghĩa nữa (8).

Trở lại ý chính của cuốn Tương Lai Văn Hóa Việt Nam: Hồ Hữu Tường nói rằng dân tộc Việt Nam đã có một nền văn hóa lâu đời, và nền văn hóa Việt Nam là một kho tàng trong tương lai sẽ là một ngọn đuốc sáng rực cả thế giới. Thấy được kho tàng ấy ông hết sức vui mừng, ông muốn reo hò, nhảy múa, muốn la hét cho mọi người đều biết sự khám phá quí báu ấy của ông. Ông kỳ vọng trong tương lai con cháu của chúng ta sẽ làm cho nó rạng rỡ khắp năm châu.

Với bút pháp cực kỳ đơn giản, ngắn, gọn, với giọng văn hết sức bình dị, chân thành, lôi cuốn, Hồ Hữu Tường muốn cho mọi người cùng cảm nhận như ông đều nhận chân giá trị cao quý của nền văn hóa Việt Nam. Rất tiếc, hiện nay tôi không có cuốn Tương Lai Văn Hóa Việt Nam của Hồ Hữu Tường trong tay để trích dẫn vài đoạn văn chính yếu (l0).

Một ưu điểm nữa của cuốn Tương Lai Văn Hóa Việt Nam là Hồ Hữu Tường không hề nói rõ một số hay tất cả chi tiết về nền văn hóa Việt Nam. Việc khai triển phát huy ấy dành cho thế hệ tương lai. Mỗi người thò tay vào rương vàng đều có thể đem ra một thỏi vàng, một viên ngọc …

Như trên đã nói, cuốn Tương Lai Văn Hóa Việt Nam của Hồ Hữu Tường ra đời năm 1946. Mười mấy năm sau, 1967, trên tuần báo Hòa Đồng Hồ Hữu Tường minh chứng một cách mạnh mẽ rằng truyện cổ tích “Cô Bé Lọ Lem,” Cendrillon của Pháp, Cinderella của Anh, của Mỹ là do truyện cổ tích “Tấm Cám” của Việt Nam mà ra. Truyện Tấm Cám được người Tàu diễn ra bằng chữ Tàu rồi sau đó được người Âu Châu diễn lại thành truyện “Cô Bé Lọ Lem” và ngày nay nhiều nước có truyện cổ tích ấy. Minh chứng rằng truyện cổ tích Tấm Cám là nguồn gốc cổ tích Cô Bé Lọ Lem chủ đích của Hồ Hữu Tường muốn hé lộ cho chúng ta thấy một chút xíu ánh sáng lấp lánh từ cái rương vàng văn hóa Việt Nam. Rương vàng văn hóa Việt Nam đã từng bị khối văn hóa Tàuu che lấp, đè bẹp muốn nghẹt thở. Trong cuốn Phi Lạc Sang Tàu, mượn lờí trào lộng của Phi Lạc, Hồ Hữu Tường “chửi cha” vàn hóa Hán tộc đồng thời cực lực đề cao văn hóa Việt Nam. Hồ Hữu Tường chê từ kinh điển Tứ Thư, Ngũ Kinh cho đến y, lý, số tướng… Những thứ này tiêm nhiễm vào đầu óc người Việt Nam quá lâu khiến cho bọn hủ nho cứ nhai đi nhai lại cái bã của văn hóa Hán tộc. Lúc nào mở miệng ra cứ thuộc lòng Khổng Tử “viết,” Mạnh Tử “viết,” Tử “viết” mà tại sao không phải là một người Việt Nam nào đó “viết”?

Trong Phi Lạc Sang Tàu chúng ta thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm “viết,” La Sơn Phu Tử “viết,” đức Phật Thầy Tây An “viế” chứ không còn những triết gia Trung Hoa “viết” nữa. Hồ Hữu Tường rất giận và rất ghét văn hóa ngoại lai Hán tộc cho nên ông trói gô tất cả triết gia Trung Hoa vào một bó và gọi là “ông ba Tàu” (11). Phải đến lúc không còn ông ba Tàu nào “viết” nữa mà là người Việt Nam “viết” cho dẫu là những gì “viết” đó nằm trong ca dao, tục ngữ, truyện tiếu lâm, hoặc nơi cửa miệng của nhân vật tưởng tượng Cống Quỳnh. Tất cả đều “rặc ròi” Việt Nam không pha lẫn một chút chữ Tàu. Nguyễn Mạnh Côn trách cứ Hồ Hữu Tường rêu rao sấm ký mê tín dị đoan của Bửu Sơn Kỳ Hương. Thật không phải vậy, ngàn lần không phải vậy. Nguyễn Mạnh Côn không phải là tri kỷ của Hồ Hữu Tường. Trong Phi Lạc Sang Tàu chúng ta thấy tất cả nền văn hóa Hán tộc đều sụp đổ cách thê thảm dưới gót chân của Phi Lạc, thằng mõ làng Cổ Nhuế, làm nghề gánh phân, một tên hạng bét của nước Việt Nam. Đọc truyện Cống Quỳnh, Phi Lạc Sang Tàu tôi cảm thấy sảng khoái vì được giải tỏa mặc cảm tự ti của ngươi dân Việt bị Tàu cai trị quá lâu.

Cho nên dù Hồ Hữu Tường hoạt động trong lãnh vực nào ông cũng dùng “tinh thần dân tộc” làm nền tảng. Năm 1948 ông tuyên bố: “vấn đề lớn nhất là đường lối dân tộc” (12). Đến năm 1954, nước Việt Nam sắp sửa bị chia đôi ông cũng thốt ra một câu nghe rất xót xa và cảm động – xót xa vì có những kẻ đi ngược lại đường lối dân tộc, cảm động vì câu nói của ông rất mực bộc trực, chân thành và khẩn thiết – “mà không ai thương tình cho rằng mình đi đường lối dân tộc (13). Đường lối dân tộc chính là kim chỉ nam do Hồ Hữu Tường hoạt động trong lãnh vực chính trị lẫn văn hóa. Đường lối dân tộc, tinh thần dân tộc cuộn tròn trong di sản văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ mãi mãi tồn tại, không có áp lực nào, không có kẻ thù nào cũng không có chủ thuyết ngoại lai nào tiêu diệt nổi.

Đầu thập niên bảy mươi, Hồ Hữu Tường ra tận quận Bình Khê, Qui Nhơn để, với uy tín sẵn có của ông, mời toàn ban “Nhạc Võ Tầy Sơn” vào trình diễn tại Sài Gòn. Buổi trình diễn “Nhạc Võ Tây Sơn” được trình chiếu lại trên đài truyền hình Việt Nam để tất cả khán giả Việt Nam thưởng thức. Để thực hiện công trình văn hóa này dĩ nhiên Hồ Hữu Tường phải tốn khá nhiều thì giờ, khá nhiều công của. Ban “Nhạc Võ Tây Sơn” gồm từ mười lăm đến hai mươi tay trống, mặc quần áo võ thuật, đứng theo đội hình phức tạp, mỗi người đứng sau chiếc trống với chiếc dùi nhỏ . Trống có nhiều cỡ lớn nhỏ khác nhau. Ngoài trống ra không có một nhạc cụ nào khác. Tất cả tiếng trống nổi lên tạo thành một hòa tấu khúc. Người đánh trống vừa đánh vừa ra một ít điệu bộ giống như múa nhưng nghiêng về võ. Bản nhạc được trình diễn thuộc loại “tiếng trống thúc quân.” Đó là tiếng trống lệnh: khi nghe điệu trống này đoàn quân tiến về phía trái, khi nghe điệu trống kia đoàn quân tiến về phía phải, khí nghe điệu trống khác tiến lên hoặc dừng lại. Tôi không thể nào dùng văn tự để diễn tả chu đáo nhạc, càng không thế nào diễn tả rõ ràng võ trong “Nhạc Võ Tây Sơn.” Nếu tôi cố gắng e rằng tôi làm hư mất thực chất của Nhạc Võ Tây Sơn. Sau bản nhạc “trống thúc quân” một anh chàng ra sân khấu biểu diễn quyền Tây Sơn, sau đó một cô gái múa roi Bình Định theo điệu trống. Ngày nay chúng ta thưởng thức Nhạc Võ tây Sơn trên sân khấu, nhưng vào thời Hoàng đế Quang Trung, mỗi người đều phải học Nhạc Võ Tây Sơn để khi lâm trận biết nghe theo trống lệnh.

Đầu thập niên 1990 trong kỳ Đại Hội Văn Hóa Quốc Tế tổ chức tại Houston, Texas (14) ban tổ chức đã mời được ban nhạc Võ Nhựt Bổn trình diễn. Những tay trống trong ban nhạc gồm toàn những cô gái trẻ măng mặc đồng phục tuyệt đẹp cũng đứng thành đội hình phức tạp, cũng mỗi ngươi sử dụng một trống lớn nhỏ khác nhau, cũng vừa đánh trống vừa ra ít điệu bộ như vũ nhưng nghiêng về võ, nội dung bản nhạc cũng như “trống thúc quân.” Thi sĩ Huy Lực và tôi lấy làm ngạc nhiên vì Nhạc võ Nhựt Bổn tương tự như Nhạc Võ Tây Sơn. Tôi giả thuyết rằng khi xâm lăng Việt Nam trong đệ nhị thế chiến, người Nhựt đã học lấy Nhạc Võ ấy rồi đem về Nhựt thành lập ban Nhạc Võ Nhựt lưu truyền cho đến ngày nay. Tôi lặp lại trên đây chỉ là giả thuyết. Nếu giả thuyết ấy đúng chúng ta ghi thêm điểm son cho nền văn hóa Việt Nam, nếu giả thuyết ấy sai độc giả cứ xem như những lời bâng quơ của thằng mõ làng Cổ Nhuế!

Chẳng những giả sử vào thế kỷ XX Nhạc Võ Tây Sơn được truyền vào nước Nhựt mà thuở xa xưa cách nay một ngàn hai trăm năm nhạc vũ được truyền vào nước Nhựt do Thiền sư Phật Triệt.Thiền sư Thích Mãn Giác viết: “Theo học giả Hajime Nakamura, Vũ Nhạc Triều Đình Nhựt Bổn (tên Nhựt là Bungaku hoặc Gagaku) đã được du nhập vào Nhựt Bổn cách đây một ngàn hai trăm năm do một Thiền sư Việt Nam, tên là Phật Triệt. Đó thực là một kỳ quan của nhân loại (one of wonders of the world). Người Nhựt đã hãnh diện chí lý về nghệ thuật này mà họ đã gìn giữ được qua bao nhiêu thế kỷ (cf. Hajime Nakamura, Contribution of Eastern Thought and Buddhism to world culture, Vạn Hạnh Bulletin, Vol. V, Number 2, June, 1973, trang 157). Theo học giả Nhựt Kyòshò Hayashima thì Thiền sư Phật Triệt đã dạy nhạc Việt Nam ở Học Nnạc Viện Hoàng Gia Nhựt, vũ nhạc tên là Rinyùhachiraku, và Thiền sư Phật Triệt dạy chữ Phạn cho Tăng sĩ Nhựt” (cf. Encyclopedia of Buddhism, Vol. III, 1992). (Thiền sư Thích Mãn Giác, Kinh Pháp Bảo Đàn, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam xuất bản, 1990, trang 98).

Tôi đã đọc một ít sách về Hoàng đế Quang Trung. Những cuốn sách sau đây không nhắc đến Nhạc Võ Tây Sơn: Quang Trung Nguyễn Huệ của Hoa Bằng (15), Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Ngô Tất Tố dịch (16), Nguyễn Huệ, Giấc Mộng Lớn Chưa Thành của Nguyễn Ngu Í (17),Nguyễn Huệ của Huy Lực (18), Nước Non Bình Định của Quách Tấn (19), Một Vài Sử Liệu Về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ gồm những bài viết của Tạ Quang Phát, Tạ Chí Đại Trường, Nguyễn Nhã, Hoàng Xuân Hãn, Lý Văn Hùng, Đặng Phương Nghi (20), Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim (21). Trong cuốn Một Vài Sử Liệu Về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ những giáo sĩ người Pháp, người Tây Ban Nha: Lavoué, Diego de Jumilla, Girard, Labarette, Le Roy, Le Labousse, Barixzy … sống vào thời Tây Sơn, viết những điều tai nghe mắt thấy dưới triều đại Tây Sơn từ chính trị, quân sự, thuế khóa, thương mại, tiểu công nghệ, tập quán, cách ăn mặc, cách giải trí, các tuồng hát nhưng tuyệt nhiên không hề nhắc đến Nhạc Võ Tây Sơn, chỉ có Đào Đặng Quý trong cuốn Nhân Vật Bình Định (22) nhắc một cách sơ lược về Nhạc Võ Tây Sơn. “Nhạc Võ Tây Sơn,” một trong những thành tựu văn hóa quý báu, thuần tuý Việt Nam. Nếu như trong tương lai nó có cùng số phận với hát bài chòi, hát bội là một điều hết sức đáng tiếc.

Cho rằng truyện cổ tích Tấm Cám là nguồn cội của những truyện Cô Bé Lọ Lem trên toàn thế giới, mời toàn ban Nhạc Võ Tây Sơn từ Bình Khê, Bình Định trình diễn tại Sài Gòn, Hồ Hữu Tường đã hé lộ cho chúng ta một vài tia sáng lấp lánh thoát ra từ rương vàng Văn Hóa Việt Nam. Còn nhiều nữa, nhiều nữa, những dữ kiện văn hóa Việt Nam mà Hồ Hữu Tường đã ủy thác lại cho thế hệ mai sau đào xới khai triển, phát huy và phổ biến. Nhưng làm thế nào để mà đào xới, phát huy văn hóa Việt Nam? Đây là câu trả lời: Chúng ta phải nhìn lại cái quá khứ quý báu 4000 năm văn hiến để mà tiến tới. Đó là nguyên tắc mà Phạm Công Thiện đã nêu ra: “Tại sao nhìn lại? Càng nhìn lại đằng sau thì càng nhìm thấy đằng trước. Những gì đã xảy ra trong quá khứ là sức mạnh khủng khiếp xô đẩy mình phóng tới đằng trước tương lai rất rõ ràng dứt khoát. Tất cả tương lai đều nằm ở đằng sau lưng mình; tất cả mấy ngàn năm lịch sử Việt Nam đã là tương lai..” (23). Niềm tin mãnh liệt của Hồ Hữu Tường: Văn hóa Việt Nam sẽ chói lọi trên toàn thế giới trong tương lai, cái tương lai như được mang cõng trên lưng, trên vai quá khứ.

Nhân đây tưởng cũng nên nhắc lại ý kiến của Hồ Hữu Tường về công tác hay sinh hoạt văn hóa. Hồ Hữu Tường cho rằng làm văn hóa không phải dễ. ông nói: “… tôi mới thấy rằng làm văn hóa cực kỳ khó…(24) vì “muốn làm văn hóa phải có khả năng văn hóa (25). Đã có khả năng rồi phải có phương tiện. Chẳng hạn sau khi đã hoàn tất một cuốn sách rồi phải có tiền để in. Ông viết: “Viết xong rồi còn phải in ra… Chẳng có một vị Mạnh Thường Quân nâng đỡ thì đó là một ảo mộng” (26). Muốn in một cuốn sách, xuất bản một tờ báo, lập một phòng sinh hoạt văn hóa, xây cất một thư viện, khai quật những cổ vật, nghiên cứu một thổ ngữ, trước tiên phải có tài chánh. Hồ Hữu Tường kỳ vọng ở “đàn hậu tấn” đầy đủ tài năng và phương tiện để làm văn hóa (27).

Hồ Hữu Tường cho biết trong bức thư gởi Jean Paul Sartre, ông nhận giữ chức Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, Sài Gòn, mục đích chỉ để tham dự vào việc đào tạo “đàn hậu tấn,” những người trẻ trí thức tin tưởng vào sự luân hồi: … “j’ ai accepté le poste de vice-recteur de l’ Université bouddhique Vạn Hạnh pour participer à la formation intellectuelle des jeunes croyants de la transmigration.” (Dialogue, sđd, tr.3l).

Hồ Hữu Tường muốn đào tạo “những người trẻ tin tưởng vào sự luân hồi,” ý nói sinh viên trí thức Phật Tử Vạn Hạnh tin tưởng mãnh liệt vào Phật Pháp. Cho nên cuối bức thư ấy Hồ Hữu Tường nói với Sartre rằng, chúng tôi tin tưởng trong tương lai, theo lời huyền ký của đức Phật Thích Ca, đức Phật Di Lạc sẽ tái sánh để tái tạo cõi trần này: “Il me reste plus qu’à attendre, comme tous les paysans bouddhiques, l’arrivée du bodhisttva Maitreya sur cette terre, pour réaliser le miracle annoncé par Cakya-Mouni, dans un sermon, à la fin de ses jours: sauver le monde de la destrucion totale…” (Dialogue, sđd, trang 35 và 36). Cho nên chính trong bức thư gửi Sartre, Hồ Hữu Tường nói rằng ông không bao giờ tin tưởng vào bất cứ chủ nghĩa (isme) nào của Tây phương: “Tôi chống lại tất cả những chủ nghĩa, chúng làm táng thất nhân loại. (…) Cho nên tôi sợ tất cả chủ nghĩa, chúng đưa dẫn đến Chiến tranh Thế Giới.” (Je suis contre tous les ismes qui ra vagent l’humatiné (…) C’est pourquoi j’ai peur des ismes qui amènent la Guerre Mondiale). (Dialogue, sđđ, trang 29 và 30).

Nhắc lại cuối bức thư ấy, Hồ Hữu Tường tin tưởng mãnh liệt vào sự tái sanh của đức Phật Di Lạc. Đức Phật Di Lạc sẽ tái sanh. Ấy là sự kiện sẽ xảy đến trong tương lai xa. Trong hiện tại và trong tương lai gần, Hồ Hữu Tường trông cậy vào đàn “hậu tấn” đang có hoặc sẽ có những công trình sáng chói, rực rỡ làm vẻ vang văn hóa Việt Nam.

Trở lại cuốn sách Tương Lai Văn Hóa Việt Nam, tuy là một cuốn sách mỏng – mỏng như một xấp giấy truyền đơn khiến tôi nghĩ rằng nó rất khó được lưu giữ tại các thư viện hoặc trong tủ sách gia đình – nhưng đầy ắp những câu văn bốc lửa, nóng bỏng, cháy hừng hực tựa hồ như ngọn đuốc soi sáng cho thế hệ Việt Nam mai sau. Hơn hai mươi năm sau, kể từ khi cuốn Tương Lai Văn Hóa Việt Nam ra đời, 1967, cũng như Hồ Hữu Tường, Phạm Công Thiện cũng có niềm tin cực kỳ mạnh mẻ về tính cách sáng rực của văn hóa Việt Nam: “… tất cả những khám phá vĩ đại nhất của văn hóa loài người mấy ngàn năm nay bỗng nhiên và tự nhiên được thể nhận tựu hình tại Việt Nam” (28). Nói cách khác, theo Phạm Công Thiện, tất cả văn hóa của loài người sẽ được kết tụ lại tại Việt Nam.

Hồ Hữu Tường đã từng hoạt động trong nhiều địa hạt (29), nhưng không bao giờ ông quên hoạt động văn hóa. Ông tin tưởng mãnh liệt rằng ông thành công rực rỡ trong lãnh vực này:“Hơn ai hết, tôi nhận thức rằng tôi chắc chắn sẽ thành công vĩ đại trong địa hạt văn hóa…”(30). Trong thực tế, Hồ Hữu Tường đã thành công vĩ đại trong lãnh vực văn hóa: ông đã để lại cho chúng ta cả ngàn bài báo bằng tiếng Pháp, tiếng Việt trên cả chục tờ báo trong suốt 41 năm, từ báo lậu, báo bí mật, báo viết tay, báo in trên xương xoa, báo công khai… cho đến những cuốn tiểu thuyết, khảo luận, hồi ký.

Tương Lai Văn Hóa Việt Nam, một cuốn sách mỏng, là gốc của một cây cổ thụ, còn những cuốn sách khác như Phi Lạc Sang Tàu Phi Lạc Náo Huê Kỳ, Phi Lạc Bỡn Nga, Tiểu Phi Lạc Náo Sài Gòn, Thu Hương, Chị Tập… chỉ là những cành, những lá của cây cổ thụ ấy. Ông nói: “Các tác phẩm khác chỉ là đem những tư tưởng đã nói rồi trong quyển này (Tương Lai Văn Hóa Việt Nam) đem ra mà mở rộng về bề mặt hay nói sâu hơn mà thôi” (3l). Cho đến năm 1967, sau khi đã viết xong hàng ngàn bài báo, xuất bản hơn chục cuốn sách, Hồ Hữu Tường kết luận về cuốn Tương Lai Văn Hóa Việt Nam như sau: “Đến nay (1967), tôi chưa viết quyển sách nào đắc ý hơn” (32).

Carrollton, Texas tháng 6-1993

(Thế Kỷ 21 số 170, June 2003)

Chú Thích:

* Bài này trích từ cuốn Trở Về Cố Hương của Thiện Hỷ, Viên Thông xuất bản California 1999.

(1) Năm 1935, Hồ Hữu Tường cư ngụ tại Đakao, sau đó ông dời đi nơi khác. Đến đầu thập niên 1970, ông cư ngụ tại đường Trần Quang Khải, Đakao gần Cầu Bông.

(2) “Con Ve và Con Kiến” là một vở kịch gồm ba hay bốn màn. Những màn đầu giống y như truyện ngụ ngôn La Cigale et La Fourmi của La Fontaine. Màn cuối như sau: giữa mùa đông dông bão nổi lên ì ầm rồi lụt lội khắp nơi. Kiến ta bị dòng nước cuốn phăng giữa dòng, tình thế rất nguy kịch. Đứng trên cây thấy kiến sắp chết đuối, ve đưa chân đạp chiếc lá vàng. Chiếc lá từ từ rơi trước mặt kiến. Kiến bám lấy. Ve lặng lẽ bay đi. Ấy luân lý của Hồ Hữu Tường như thế, cao hơn La Fontaine một bực.

Tại Mỹ, những phim ngắn hoạt họa trên TV phần nhiều chỉ là những đòn “ăn miếng trả miếng.”

(3) Những bài viết này có tính cách kích thích thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ xuất dương sang Pháp du học. Du học để mà “nên” chứ không phải du học để mà “hư.”

(4) Hồ Hữu Tường ký bút hiệu Khổng Cưu, hai cuốn sách ấy do Tân Việt xuất bản, năm 1946.

(5) Hồi ký 41 Năm Làm Báo, trang 173, Trí Đăng xuất bản 1968, Đông Nam Á, Paris tái bản năm 1984.

(6) Hồ Hữu Tường nói rằng ông không có khả năng viết tiểu thuyết. Tiểu thuyết của ông nhằm triển khai sấm ký của Đức Phật Thầy Tây An, người sáng lập Bưu Sơn Kỳ Hương, Phi Lạc và Tiểu Phi Lạc đi đến đâu “nói dóc” đến đó cho nên tiểu thuyết của ông thuộc loại tiểu thuyết trào phúng. Vạn bất đắc dĩ ông mới viết được hai cuốn tiểu thuyết tình, tình cách mạng, do thi sĩ Đông Hồ khuyến khích: Thu Hương, Chị Tập (41 Năm Làm Báo, sđd, trang 136-137).

(7) Trong bản nhạc Việt Nam! Việt Nam! Phạm Duy viết: “Lửa thiêng soi toàn thế giới!”

(8) Trong chữ définition (định nghĩa) của Pháp có chữ finir nghĩa là chấm dứt. Như vậy tất cả mọi câu định nghĩa về một ý niệm đều có tính cách hạn hẹp, khô cằn, cái ý niệm ấy bị đóng chết trong một khuôn khổ chật hẹp do đó định nghĩa một ý niệm không thể dạt được thể tính của ý niệm ấy. Chẳng hạn chúng ta không thể định nghĩa “tình yêu” là gì. Nhưng nói đến tình yêu thì ai ai cũng đều cảm nhận.

(9) Im Lặng Hố Thẳm của Phạm Công Thiện, xuất bản tại Sài Gòn, 1967, Trần Thi tái bản tại Hoa Kỳ 1987.

(10) Bạn đọc nào còn giữ cuốn Tương Lai Văn Hóa Việt Nam của Hồ Hữu Tường, nhà xuất bản Minh Đức Hà Nội, 1946, xịn copy cho tôi trọn cuốn. Thành thật đa tạ trước. Năm 1965, nhà xuất bản Đồ Chiểu tái bản quyển này, nhưng không đúng nguyên văn, đã bị “tam sao thất bản” nhiều.

(11) 41 Năm Làm Báo, sđd, trang 156

(12) Sđd, trang 143

(13) Sđd, trang 173

(14) lnternational Festival’s Houston

(15) Bốn Phương, Sài Gòn xuất bản, 1956

(16) Nhà Xuất Bản Tự Do, Sài Gòn 1958

(17) Không nhớ tên nhà xuất bản và năm in

(18) Tác giả xuất bản, in tại Houston, 1990

(19) Không nhớ tên nhà xuất bản và năm in

(20) Đại Nam, California xuất bản, 1992

(21) Đại Nam, Callfornia tái bản, không rõ năm in

(22) Không nhớ tên nhà xuất bản và năm in

(23) Trang 10, bài tự cuốn Rèn Luyện Tâm Thuật Huyền Linh của Phạm Công Thiện dịch Ascèse Spirittual Excercise của Nikos Kazantzakis, Đại Nam, California xuất bản, 1991.

(24) (25) 41 Năm Làm Báo, sđd, trang 165

(26) (27) 41 Năm Làm Báo, sđd, trang 169

(28) Im Lặng Hố Thẳm, sđd, trang 20. Trong bài viết Trở Về Cố Hương, tôi diễn giảng đoạn văn trên đây một cách sâu thẳm hơn nữa.

(29) Hồ Hữu Tường nói về chính ông như sau: “Nào là nhà cách mạng, nào là nhà nghệ sĩ, nào là nhà khoa học, nào là nhà văn, nào là kẻ đam mê tình ái, nào là tâm hồn tu sĩ, và nào là nhà báo” (41 Năm Làm Báo, trang 46).

(30) 41 Năm Làm Báo, trang 164. Nhưng ông thú thực ông không thành công trong lãnh vực chính trị: “… mà có thể ‘thân bại danh liệt’ trong địa hạt chính trị.” “Hơn ai hết, tôi muốn làm văn hóa hơn là muốn làm chính trị” (sđđ, trang 164).

(31) (32) (33) 41 Năm Làm Báo, trang 145.

Nhớ về Hồ Hữu Tường

Ngô Văn

Ngô Văn, nhà biên khảo, nhà hoạt động cách mạng trong nhóm Đệ Tứ, sinh năm 1912 ở xóm Tân Lộ, gần Thủ Đức. Đi làm từ 14 tuổi. Gia nhập xu hướng Cộng Sản tả đối lập năm 1932. Sau 45 sang Pháp, làm việc trong các xí nghiệp, và tích lũy những tài liệu để biên khảo. Các tác phẩm chính: Vụ án Moscou (Nxb Chống trào lưu, Sài Gòn, 1937), Divination, magie et politique dans la Chine ancienne (PUF, Paris, 1976), Revolutionaries They Could Not Break (Index Book Centre, London, 1995), Vietnam 1920-1945, révolution et contre-révolution sous la domination coloniale (L’insomniaque, 1996; Nautilus, 2000), Việt Nam 1920-1945, cách mạng và phản cách mạng thời đô hộ thực dân (L’insomniaque, Paris, 2000), Avec Maximilien Rubel, une amitié, une lutte 1954-1996 (L’insomniaque, 1997), Au pays de la cloche félée (L’insomniaque, 2000) …

Thụy Khê

***
Tôi gặp Hồ Hữu Tường năm 1932 (ông ở Pháp về năm 1931), lúc ấy ông đang làm tờ Phụ Nữ Giới Chung ở Sài Gòn. Tôi vừa dịch xong bản Tuyên ngôn Cộng Sản của Marx, có người bạn tôi đem lại trình với ông để đăng báo Phụ Nữ Giới Chung. Đọc xong, Hồ Hữu Tường cho biết muốn gặp tôi. Đó là lý do tại sao tôi gặp Hồ Hữu Tường.

Ông là một người thông minh, hiền hậu và duyên dáng lắm. Lúc đó Hồ Hữu Tường đã có một tổ chức bí mật, kêu bằng nhóm Tháng Mười, xuất bản tạp chí bí mật Tháng Mười, theo xu hướng Trotsky để chỉ trích hoạt động của đảng Cộng Sản Đông Dương lúc ấy. Ông không trực tiếp giới thiệu tôi vào nhóm của ông, mà ông đưa Đào Hưng Long, một chiến hữu trong nhóm, giao thiệp với tôi. Tới cuối năm 32, Hồ Hữu Tường bị bắt, năm 33 bị kết án ba năm tù treo.

Năùm 33, dù bị tù treo nhưng ông vẫn nhập vào nhóm tranh đấu do Nguyễn An Ninh thành lập tháng 4 năm 1933, nhân dịp có cuộc bầu Hội Đồng Quản Hạt, lợi dụng tuyên truyền chống chánh phủ thuộc địa một cách công khai.

Nguyễn An Ninh là một nhà cách mạng đàn anh mà những người Cộng Sản Đệ Tam lẫn Đệ Tứ, và cả quốc gia nữa, đều là đàn em, cho nên ông rất có uy tín đối với họ; ông lập nhóm La lutte, quy tụ tất cả những khuynh hướng chính trị chống Pháp lúc đó, và Hồ Hữu Tường tham gia tờ La lutte.
Tới năm 1936, nhóm La lutte chia hai. Nhưng muốn hiểu sự chia rẽ đó, phải trở lại tình hình chính trị ở Pháp năm 1935.

Năm 1935, Pháp-Nga ký hiệp ước Laval-Staline: Pháp và Nga liên kết quân lực. Do đó, đảng Cộng Sản Pháp không còn chống chính sách quân phiệt nữa, mà cổ võ cho chính sách quân sự, chống lại sự đòi độc lập của Cộng sản Đông Dương và ủng hộ việc giữ vững các thuộc địa. Đảng Cộng Sản Đông Dương, vẫn theo đảng Cộng Sản Pháp cho nên không còn theo con đường chống Pháp để giải phóng dân tộc nữa, mà dần dần họ chọn con đường chống Nhật.

Nhóm La lutte lúc ấy có hai khuynh hướng:

– Một khuynh hướng ủng hộ Mặt Trận Bình Dân (Front Populaire), đảng cầm quyền ở Pháp, tức là ủng hộ chính sách thuộc địa, trong đó có những người Cộng Sản Đệ Tam.
– Một khuynh hướng chống Mặt Trận Bình Dân trong đó có những người Đệ Tứ.

Nhưng khi thành lập nhóm La lutte đã có lời giao ước là Đệ Tam và Đệ Tứ không gây chuyện với nhau, cho nên nhóm Đệ Tứ phải ngậm miệng.
Hồ Hữu Tường mới lập một nhóm bí mật mà ông làm cố vấn, gọi tên là Chánh Đoàn Cộng Sản Quốc Tế Chủ Nghĩa, phái tán thành Đệ Tứ Quốc Tế, và tôi là một thành viên, mục đích chỉ trích đảng Cộng Sản Đông Dương đi theo đường lối của chính phủ thuộc địa và tách ra khỏi nhóm La lutte.
Giữa năm 1936, ở Pháp có tổng đình công. Nhóm Chánh Đoàn Cộng Sản Quốc Tế Chủ Nghĩa bí mật cổ động tổng đình công, tháng 6 năm 1936 tại Sài Gòn. Cả nhóm bị bắt, cả Hồ Hữu Tường, nhưng vì là “cố vấn” nên ông không bị truy tố.

Ra khỏi nhóm La lutte, Hồ Hữu Tường công khai xuất bản tờ Militant (lúc đó các đảng đối lập không được quyền ra báo tiếng Việt), để tự do đả kích đảng Cộng Sản, theo tinh thần Trotsky, nhưng trong vòng bán bí mật vẫn tiếp tục hoạt động cho nhóm Chánh Đoàn Cộng Sản Quốc Tế Chủ Nghĩa vừa bị tiêu hủy, đồng thời tiếp tục phong trào tranh đấu bán công khai. Hai năm 36-37 là những năm phong trào thợ thuyền và nông dân nổi lên cực độ.

Nhưng đến tháng 5 năm 1937, nhóm La lutte tan rã vì đảng Cộng Sản Pháp theo lệnh của Moscou, ra lệnh cho đảng Cộng Sản Đông Dương không được cộng tác với Đệ Tứ nữa. Các phong trào thợ thuyền đình công do Đệ Tứ tổ chức, bên Đệ Tam không tham gia, chỉ lập những hội ái hữu thôi. Đệ Tam chỉ huy ở nông thôn, vừa ủng hộ Mặt Trận Bình Dân, vừa chống đối những áp bức ở nông thôn.

Hồ Hữu Tường vẫn tiếp tục tổ chức và chỉ huy Đệ Tứ trong vòng bí mật. Nguyễn An Ninh theo phái Đệ Tam. Tạ Thu Thâu tiếp tục La lutte, làm cho tờ La lutte trở nên cơ quan có khuynh hướng quốc tế. Sau khi tờ La lutte trở thành xu hướng Đệ Tứ quốc tế, Hồ Hữu Tường ngưng tờ Militant. Đến năm 1938, khi chính phủ Mặt Trận Bình dân đổ ở Pháp, chính phủ cấp tiến Doladier cho phép các đảng đối lập ra báo quốc ngữ, tờ La lutte trở thành tờ Tranh Đấu và Hồ Hữu Tường ra báo Tháng Mười.

Đến tháng 9 năm 1939, khởi đầu thế chiến, chính phủ thuộc địa mở phong trào tổng đàn áp, bắt hết những đảng phái đối lập, giam trong các trại giam rồi đầy đi Côn Lôn, 5 năm. Nguyễn An Ninh, Hồ Hữu Tường, Tạ Thu Thâu … đều bị bắt hết. Lúc ấy tôi ở trên Nam Vang nên chỉ bị bắt và bị tù 8 tháng.

Đến năm 1945, Hồ Hữu Tường được trở về, bị quản thúc ở Cần Thơ. Tôi gặp ông vì lúc ấy tôi đang làm việc ở Cần Thơ. Tôi có giúp đỡ vợ con ông. Ông bảo năm năm ở Côn Lôn, ông đã suy nghĩ kỹ rồi, ông không theo Đệ Tứ nữa, ông quay trở lại con đường quốc gia, quay về với tổ quốc.

Trong cuốn Un fétu de paille dans la tourmente, đánh máy ở Paris năm 1969, có một sai lầm mà tôi muốn đánh chánh sau đây: Ông cho rằng năm 1945, trong sự thanh trừng những người Đệ Tứ, Việt Minh vẫn còn một chút cảm tình (quelques sentiments). Cho nên thay vì giết hết trước khi bỏ Sài Gòn để lên chiến khu, họ đem giam tất cả vào tù, và cảnh sát Pháp đã thả tất cả. Sự thật thì Dương Bạch Mai hạ ngục những người Đệ Tứ cốt là để sẽ đưa họ ra tòa án nhân dân. Nhưng binh lính Anh-Ấn thình lình chiếm khám lớn, trước khi giúp binh Pháp tái chiếm Sài Gòn ngày 23/9/1945. Sau đó, binh Anh-Ấn giao mấy người Đệ Tứ lại cho mật thám Pháp. Một thời gian sau những người Đệ Tứ mới được thả ra. Cho nên việcï khỏi bị Đệ Tam tàn sát là một sự tình cờ chớ không phải vì lòng tốt của phái Đệ Tam.

Hồ Hữu Tường and the Origins of the Vietnamese Nation(ality)

Tôi mới bắt gặp bài viết dưới đây của Hồ Hữu Tường, “Đi tìm nguồn gốc của dân tộc” [Searching for the origins of the nation(ality)], Bách Khoa 206 (165): 42-45.

Bài viết này vốn được in trên một tờ tạp chí có tên là Tiếng Việt vào năm 1948 ở Hà Nội. Đây là một bài viết tuyệt vời bởi vì nó đã hé lộ về những quá trình tư duy của một trí thức Việt Nam vào những thập kỉ 40 của thế kỉ XX, ngay khi quá trình giải thực dân hóa (decolonization) đang bắt đầu.

Tôi sẽ cung cấp một vài thông tin cơ bản trong bài viết này cho những ai không thể đọc được bản tiếng Việt gốc. Có rất nhiều điều để nói về bài viết ngắn này, nhưng tôi không có thời gian để viết ra những diễn giải (interpretation) của tôi về bài viết này. Nhưng tôi nên ghi chú rằng tôi sử dụng thuật ngữ “nation(ality)” [chữ “nation” thêm đuôi “ality” trong đóng mở ngoặc –NS] dưới đây để dịch từdân tộc bởi vì thuật ngữ “nation(ality)” kết hợp được cả nét nghĩa “nationality” [tính dân tộc] và “nation(-state)” [dân tộc-quốc gia]. Thay vì chọn một thuật ngữ tiếng Anh phụ thuộc vào việc cái nào thích hợp với ngữ cảnh nào, tôi nghĩ tốt hơn là tạo ra một thuật ngữ mới – tức “nation(ality)” – để bắt được cái trạng thái mơ hồ của từ dân tộc [trong tiếng Việt].

Hồ Hữu Tường ghi rằng vào năm 1946 cuốn Nguồn gốc của dân tộc Việt Nam của Đào Duy Anh đã được hoàn thành và được in, nhưng Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954, – ở Việt Nam đến nay thì vẫn gọi là “Thời kì kháng chiến chống Pháp” – NS) sau đó bùng nổ và cuốn sách này đã chưa từng được phổ biến. Hồ Hữu Tường nói rằng ông đã muốn đọc cuốn sách này, bởi vì ông cho biết có một nhu cầu rằng mọi người phải có một hiểu biết rõ ràng về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam

Cuối thập kỉ 40 của thế kỉ XX, theo Hồ Hữu Tường, là một thời kì khó khăn. Khi người Việt Nam đang đấu tranh để tạo nên một tương lai tươi sáng hơn cho họ có thể thoát khỏi sự kiểm soát của người Pháp, đã có những người tranh luận rằng mảnh đất này cần được chia cắt ra bởi vì sự khác biệt về con người là rất lớn. Cho dù Hồ Hữu Tường không nêu lên điểm này một cách trực tiếp, ông ấy đã có hàm ý rằng ông mong rằng nghiên cứu của Đào Duy Anh sẽ cung cấp những cứ liệu lịch sử cho sự tồn tại của một dân tộc Việt Nam thống nhất, và do đó củng cố những quan điểm của những người đã mong muốn nhìn thấy một quốc gia như thế lớn lên trong thời kì hậu thực dân (the postcolonial era). Trên thực tế, cuốn sách của Đào Duy Anh đã không cung cấp những căn cứ để ủng hộ quan điểm này, cho nên có lẽ tốt hơn hết là Hồ Hữu Tường đã không đọc nó.

Trong bài viết này, Hồ Hữu Tường nói rằng vào thập kỉ 40 của thế kỉ XX, đã có hai giả thuyết được lưu hành về nguồn gốc của người Việt Nam. Một giả thuyết biện luận rằng người Việt Nam di cư xuống từ thung lũng Tây Tạng (the Tibetan plateau) và sau đó đã  men theo sông Hồng. Còn giả thuyết khác thì tranh luận rằng người Việt Nam là một [nhóm] trong Bách Việt – những người đã định cư ở khu vực miền Nam Trung Quốc từ xa xưa và đã di cư từ vùng này xuống khu vực Việt Nam.

Hồ Hữu Tường bác bỏ hai giả thuyết nói trên vì sự không có “tính cách khoa học.” Ông tranh luận rằng các giả thuyết này dựa trên truyền thuyết của những người gần với Trung Quốc để đưa ra một luận điểm có tính “chủng tộc” về sự gắn kết giữa người Việt Nam và người Trung Quốc [Hồ Hữu Tường gọi là “người Tàu” – NS]. Tuy nhiên, như Hồ Hữu Tường viết, chủng tộc là một khái niệm mà các nhà khoa học xã hội đã chứng minh rằng nó rất có vấn đề, như “ngay đến Hitler cũng không dám binh vực nó đến triệt để.” Và về những người Việt Nam, Hồ Hữu Trường tranh luận rằng rõ ràng là không có chủng tộc Việt Nam thuần túy. Thay vào đó, ở miền bắc người ta có thể nhìn thấy những đặc điểm về dân số của người Tàu, trong khi ở miền trung có những ảnh hưởng mang tính Chàm và ở miền Nam có Khmer. Chủng tộc người Việt, vì thế, là một thứ không thuần nhất, mà là một “xáo trộn của nhiều giống người” [từ của Hồ Hữu Tường- NS].

Sau đó Hồ Hữu tường cung cấp thêm bằng chứng rằng người Việt Nam không thể di cư từ Trung Quốc theo hướng Nam tiến bằng việc đối sánh “tư tưởng” (the thought patterns) của người Tàu và người Việt Nam. Nếu một người Trung Quốc nhìn một con ngựa trắng, ý nghĩ đầu tiên mà người Trung Quốc có là nó màu trắng, và sau đó ý nghĩa tiếp theo đến mới là nó là một con ngựa. Vì thế, họ gọi nó là một “bạch mã” (tức yếu tố “trắng” [bạch] đứng trước rồi mới đến yếu tố “ngựa” [mã] – NS). Hồ Hữu Tường giải thích diễn trình này là sự dịch chuyển từ ý nghĩ chủ quan (trắng) đến một vật thể khách quan (ngựa). Ngược lại, người Việt Nam sẽ nhận thức đối tượng trên theo chiều ngược lại. Trước hết họ sẽ chú ý đến một ý nghĩ khách quan, đó là có một con ngựa, và sau đó theo sau mới đến một quan sát mang tính chủ quan, tức là nó màu trắng. Vì thế, họ gọi là “ngựa trắng.” Có một số thông tin nữa tương tự về âm nhạc và ngôn ngữ mà tôi bỏ qua vì không có đủ thời gian.

Hồ Hữu Tường nói rằng các nhà sử học sẽ nói rằng trong khoảng thời gian từ nhà Trần đến nhà Nguyễn, người Việt Nam đã “diệt dân tộc Chàm đánh đuổi Cao Miên mà nam tiến.” Nhưng Hồ Hữu Tường tranh luận rằng điều đó chỉ là một phần của vấn đề. Ông viết rằng mọi dân tộc có cùng trải nghiệm khi trải qua thời kì phong kiến, tức là việc cố gắng thống nhất dân tộc – một việc đòi hỏi các nhóm người phải đánh lẫn nhau. Hồ Hữu Tường tranh biện rằng Việt Nam không phải là ngoại lệ với qui tắc đó. Ông viết, trong quá khứ người Việt và người Chàm nói những thứ tiếng khác nhau và có những tổ chức quốc gia (national institutions) khác nhau, đó là một tình huống không khác gì [sự khác biệt] giữa nước Wu (Ngô) và Yue (Việt) thời Xuân thu Chiến quốc ở Trung Quốc, và thậm chí giống với Pháp- nơi mà trong quá khứ, như ông nói, người ta đã nói nhiều thứ tiếng khác nhau.

Người Việt Nam do đó không tiêu diệt người Chàm. Họ tiêu hủy quốc gia Chàm (the Cham kingdom), nhưng người Chàm, cũng như người Khmer sau này, sau đó đã bị đồng hóa để tạo nên cái mà Hồ Hữu Tường đặt thành thuật ngữ “dân tộc ta.” Cho nên lịch sử người Việt không phải là một cuộc Nam Tiến.

Hồ Hữu Tường sau đó đã đi đến một giả thuyết về sự tạo thành của dân tộc Việt Nam. Ông biện luận rằng vốn dĩ có những người mà ông gọi là “thổ dân” sống trên đất Việt Nam. Tất cả những người thổ dân này sau đó bị chinh phục bởi người từ bên ngoài đến. Bộ lạc Lạc Việt chinh phục khu vực miền bắc, người Chàm chinh phục miền trung, và người Khmer chinh phục miền nam. Tuy nhiên, tất cả những người này đã bị đồng hóa bởi người thổ dân, vì thế nên người Lạc Việt chẳng hạn đã chuyển sang nói “ngựa trắng” thay vì nói “trắng ngựa.” Vì vậy, người Lạc Việt, người Chàm, người Khmer đã không tiêu diệt “bản chất” của người thổ dân.

Tiếp nối giai đoạn mở đầu trong đó những người đến từ bên ngoài đã chinh phục vùng đất nhưng lại bị đồng hóa bởi những người thổ dân là giai đoạn thứ hai khi sự thống nhất hóa diễn ra. Một lần nữa, đây là một quá trình mà Hồ Hữu Tường tranh luận rằng nó phổ biến cho mọi xã hội ở giai đoạn phong kiến. Trong trường hợp Việt Nam, Hồ Hữu Tường nói rằng quá trình thống nhất này đã hoàn thành vào cuối thế kỉ XVIII bởi nhà Tây Sơn, nhưng cho đến thời điểm ông ấy viết bài viết này, tức năm 1948, thì quá trình này vẫn đang được diễn tiến, nhưng với một “hình thức mới.”

Ông sau đó kết luận bằng việc viết rằng một lịch sử nếu quan tâm đến những quá trình này sẽ là đáng kể bởi vì nó sẽ chứng tỏ được “sự cấu tạo và trưởng thành” của dân tộc Việt Nam.

Hồ Hữu Tường không trình bày những ý kiến của ông theo một cách logic. Để phát hiện ra chính xác ông ấy đang nói gì và tại sao như thế, người ta phải mất công sức; nhưng công sức phải bỏ ra đó là xứng đáng. Đối với những ai không đọc được tiếng Việt, tôi đã đính kèm dưới đây bản ảnh chụp văn bản nói trên.

clip_image003

clip_image005clip_image007

clip_image009

Nhà Văn Hồ Hữu Tường

Nguyễn Văn Sâm

Được dịp nói chuyện với Hồ Hữu Tường nhiều lần, vậy mà tôi vẫn thấy con người ông bí ẩn, có nhiều mặt, có nhiều điều mình không thể nào theo kịp được, hiểu được …

Khoảng năm 1952, các nhà sách Sống Chung, Nam Cường, Nam Việt, Tân Việt Nam đưa ra bán hết số sách còn chứa trong kho của mình. Đó là những sách in ở Saigon những năm 1948 – 1949 – 1950 mà tôi gọi chung là “những tác phẩm của nền văn chương Nam Bộ Kháng Pháp giai đoạn 1945 – 1950 “. Các sách này traước đó tôi có nhưng không đủ, nhờ sự tháo khoán sách tồn kho này tôi đã sưu tập đầy đủ tất cả những tác phẩm thời này.

Tôi quen với THU HƯƠNG, CHỊ TẬP của bộ GÁI NƯỚC NAM LÀM GÌ? và bộ NGÀN NĂM MỘT THUỞ (tức Phi Lạc Sang Tàu) từ đó.

Hai bộ này do nhà Sống Chung của nhà văn Sơn Khanh Nguyễn Văn Lộc(*) xuất bản 1949 . Rồi Hồ Hữu Tường dính dáng với Bình Xuyên 1954 – tôi vẫn tiếc vụ này nhưng chưa dịp hỏi tường tận thì không kịp nữa. Rồi ông bị tuyên xử tử hình 1957, nhưng bị giam và được thả ra sau vụ 1963, đảo chánh ông Diệm.

Tôi được hân hạnh giao tiếp với ông sau đó không lâu. Câu ông thường nói với tôi “… tôi không làm văn chương, tôi làm siêu văn chương, tôi không làm chính trị, tôi làm siêu chính trị”. Nghĩa là kiểu văn chương, chính trị thông thường không phải là mục tiêu của ông. Mục tiêu ông vượt cao hơn, một thứ văn chương không ai làm được: một thứ ẩn dụ chính trị. Còn chính trị, không phải mục tiêu kiếm chức, quyền mà là tùy thời cơ xoay lại cơ đồ, đỡ chống lúc khuynh nguy…

Tôi công nhận hai ý này cao và lần nói chuyện sau cùng giữa tháng 5/1995 có mặt G.S Nguyễn Văn Trung tôi vẫn nghe ông nhắc lại ý hướng đó với một niềm tha thiết của hoài bão, cũng như một chút ngậm ngùi tiếc rằng có thể mình sẽ không làm được nữa .

Tiếc rằng chưa mấy ai viết một tác phẩm thật quan trọng về Hồ Hữu Tường một công trình nghiên của công phu – gần đây có một vài bài, Đỗ Thái Nhiên nói về cái chết, một tác giả khác, trong Thế Kỷ 21, nói về quyển TƯƠNG LAI VĂN HÓA VIỆT NAM; rất đáng mừng nhưng cũng còn cần thật nhiều, nhiều nữa…

Từ khoảng 1945 đến 1950 sách của Hồ Hữu Tường gây sôi nổi nhất, in đi in lại nhiều lần, từ Bắc vô Nam, từ Nam ra Bắc, từ Saigon sang Paris, gây thành những cuộc bút chiến thú vị (với nhóm Chân Trời Mới về Hồ Hữu Tường bỏ hay vượt Marx, về vấn đề văn hóa nhân bản, về vấn đề Tân Xuân Thu, về vấn đề hoài nghi trong quyển Thu Hương, về cái nghiệp của con thằn lằn…)

Đại khái ta có thể kể tác phẩm của Hồ Hữu Tường: TƯƠNG LAI KINH TẾ VIỆT NAM (Hàn Thuyên) KINH TẾ HỌC NHẬP MÔN (Tân Việt) XÃ HỘI HỌC NHẬP MÔN (Minh Đức) MUỐN HIỂU CHÍNH TRỊ (Minh Đức) VẤN ĐỀ DÂN TỘC (Minh Đức) TƯƠNG LAI VĂN HÓA VIỆT NAM (Minh Đức) NỖI LÒNG CỦA THẰNG HIỆP (Lê Lợi) THU HƯƠNG (Sống Chung) CHỊ TẬP (Sống Chung) NGÀN NĂM MỘT THUỞ (PHI LẠC SANG TÀU) (Sống Chung) LỊCH SỬ VĂN CHUƠNG VIỆT NAM quyển I (Lê Lợi)

Về văn chương của Hồ Hữu Tường chúng tôi để ý đến hai tác phẩm tiêu biểu: Chị TậpThu Hương.

Với hai quyển này họ Hồ đã trình bày được vai trò của người Phụ Nữ Việt Nam trong giai đoạn đầu của cách mạng. Họ là những người ý thức và hoạt động hữu hiệu. Chị Tập tượng trưng cho phụ nữ bình dân lao động (nói theo nhóm Chân Trời Mới, đó là người của quần chúng) và Thu Hương đại diện cho phụ nữ trí thức thành thị. Họ có điểm chung là theo kịp phong trào, đã hoạt động mạnh mẽ và để rồi cuối cùng đều tự loại ra ngoài vì giai đoạn của họ đã xong.

Người đàn bà xuất hiện trong tác phẩm văn nghệ không phải là điểm mới, trong thơ văn chúng ta không thiếu những nàng tiên kiều diễm với tình cảm phong phú. Người phụ nữ ý thức cũng có nữa, một Ngôn của Sơn Khanh, một Phượng của Thẩm Thệ Hà, nhưng những cô gái này cuối cùng đều bị thất bại, thất bại vì chính thời thế (hay tác giả) bắt họ phải chịu cảnh thua thiệt. Còn Thu Hương hay Chị Tập ở đây bóng dáng tha thướt bị che lấp; tình cảm nhỏ nhặt, đặc biệt của đàn bà không còn, họ sống bằng lý trí sáng suốt, lành mạnh và cuối cùng họ không bị thất bại, mà bằng lòng rút lui vì cảm thấy giai đoạn mình đã bị vượt qua, không còn có thể đảm nhiệm vai trò lịch sử nữa, ở lại là thất bại là cản bước tiến của quốc gia.

Đại khái hai quyển này bố cục vững chắc, văn sắc, gọn, ý tưởng được trình bày minh bạch lý luận khá chặt chẽ.

Ngoài ra mỗi tác phẩm nhằm đặt ra một số vấn đề liên hệ trực tiếp với thời cuộc biến chuyển dồn dập lúc đó.

Tác giả không có mục đích làm văn nghệ để khêu gợi cảm quan người đọc (l) nên chúng tôi chú ý đến các vấn đề chánh hơn là cốt truyện và những tình tiết của nó.

Thu Hương, Người con gái trí thức tư sản

Thu Hương là một sinh viên trường thuốc Hà Nội, đảng viên của một đảng cách mạng bí mật.

Khác với những người trang lứa, cùng giai cấp nàng đã thức tỉnh, giác ngộ, mặc dù rằng nàng bị ràng buộc bởi bao nhiêu liên hệ chằng chịt. Nhưng với hành động có ý thức của nàng, những nghi ngờ ngộ nhận của người khác giai cấp đều biến mất. Ta hãy nghe Tập người thuộc giai cấp đối lập với nàng nói: “Hồi nào đến bây giờ, tôi cứ tưởng rằng người dám hy sinh và có can đảm chỉ có bọn lao khổ chúng tôi. Không dè, cô là người trưởng giả mà …” (trang 12).

Thật vậy , Thu Hương là một cô gái tuy rất đẹp nhưng liều lĩnh (hợp tác với đoàn khất thực để gây ảnh hưởng trong quần chúng (chương IV), gan dạ (dám ám sát giữa thành phố, ban ngày cướp sân khấu để tuyên truyền cho cách mạng giữa lúc đồng bọn của nàng quá ít oi (chương IV), và không chịu ép mình trong khuôn sáo cũ kỹ, lỗi thời (dùng lý, dùng cảnh để cảm hóa, thuyết phục mẹ (chương II).

Tuy nhiên không phải nàng liều lĩnh, gan dạ mù quáng để đến nỗi không tính toán gì hết mà trái lại rất thận trọng trong hành động, mỗi khi hoạt động đều vạch ra một kế hoạch chu đáo (kế hoạch ám sát nữ gián điệp (chương I), kế hoạch cướp sân khấu (chương IV).

Chị Tập, người con gái bình dân, lao động

Cuộc đời của Thu Hương dễ dàng, ít xáo trộn bao nhiêu thì cuộc đời Chị Tập phi thường và thay đổi bấy nhiêu.

Tập bị đem bán, vì nhà nghèo cực lại gặp năm đói kém. Năm mười sáu tuổi, lớn lớn một chút xém bị chủ nhà hiếp dâm. Bị vu oan, Tập bị tù.

Nhà tù là nhà trường của Tập, Tập “làm quen” với trùm móc túi, với mẹ mìn, với tụi buôn lậu, với đảng viên cách mạng.

Ra tù. Tập học buôn bán, học tổ chức tuyên truyền, xách động bãi thị chống đối, theo phường xiếc, học nghề cưỡi ngựa quăng dây, giao thiệp rộng với bọn nhà văn, nhà báo, tổ chức buôn á phiện lậu, khí giới lậu, làm luôn nghề thổ phỉ, rồi lập chiến khu, cướp khí giới Nhật, xây dựng lực lượng thành một vùng độc lập to lớn.

Không phải thời thế đưa chị Tập lên, chị là người có thực tài học mau biết, mau thành tài, có trí xét đoán, có tổ chức, có khả năng điều khiển, biết hoạch định chương trình và liều lĩnh, nếu cần để thực hiện chương trình đó (2).

Hồ Hữu Tường là cây bút phong phú, ông đặt ra rất nhiều vấn đề cho người đọc, đại khái ta có thể kể sơ lược:

1. ĐÁNH THỨC LƯƠNG TÂM CON NGƯỜI

Ông trình bày những thảm trạng do tình trạng bị thống trị đem lại để kêu gọi mọi người thức tỉnh.

Điển hình là nạn đói năm 1945 ở Bắc. Hàng triệu người là nạn nhân. Ai gây ra những thảm cảnh đó? Chắc chắn không phải là do sự lười biếng hay ngu dốt của dân tộc nạn nhân. Tác giả trút hết tội trạng cho bọn phát xít Nhật. Tranh đấu là chống Nhật. Tác giả trình bày những thảm trạng cho chúng ta nhận diện rõ rệt bộ mặt của kẻ thù chính của dân tộc. Đoạn văn tả nạn đói, ngắn nhưng cực kỳ cảm động, bi đát. Đọc xong, chúng ta thấy cần phải có một phản ứng, một thái độ, chớ không thể dửng dưng. Chúng ta phải làm một cái gì? Độc giả đặt được câu hỏi như vậy tức là tác giả đã thành công trong việc thức tỉnh mọi người:

“Bây giờ phố nào cũng đầy dẫy người đi xin ăn. Người? Không phải. Đó là những bộ xương có một lớp da vừa mốc, vừa nhăn, bọc lấy, không thể phân biệt đàn ông hay đàn bà. Họ không có quần áo để che thân, chỉ có hoặc một manh vải rách, hoặc một miếng bố vụn, hoặc một miếng lá to, để che một chút.

Kẻ còn sức sống, thì gượng gạo bước run run, bu quanh người làm phước. Kẻ yếu hơn thì lết, giương cặp mắt tròn xoe mà không sáng, với giọng khàn khàn, kêu gọi lòng nhân từ của người đi đường. Xa xa, có một cái xác không lết nổi, không ngồi nổi, không kêu nổi, cũng không mở mắt nổi, chỉ có thể lắc lắc bàn tay, để tỏ rằng mình còn chút hơi sống trong mình… và ai đã sẵn lòng cứu thì may ra, hãy còn mong cứu được.

Thỉnh thoảng có xe lượm xác chết đẩy qua. Ké đẩy xe cũng là những bộ xương, như mấy bộ xương nằm trên xe. Nhưng còn một chút sinh lực, nên người ta cho ăn khá hơn, để làm cái công việc khó mướn người làm được.

Đã trưa rồi, mà nhiều phố chưa được xe lượm xác đi ngang qua đây. Thây vẫn còn nằm nơi vỉa hè. Một vài bà mẹ đã trút linh hồn hồi nào, mà đứa con đói hãy còn mút chùn chụt cái vú teo nhách và lạnh ngắt.” (Thu Hương trang 17-18)

Bởi vậy, ngồi yên rồi mai mốt cũng tới lượt mình, thà vùng dậy còn hơn.

Người Nhật tàn ác không nề hà gì mà chẳng giết chóc: “Trong trí nàng hiện ra hình ảnh của mấy chục chiến sĩ bị bắt, cột thúc ké vào những cây nọc, đàng kia có một tốp lính nạp súng nhắm bắn” (Chị Tập, trang 31). Ngoài ra còn khủng bố, đàn áp. Những chiến sĩ lọt vào tay họ thì thế nào cũng bị bắn hay bị khổ sai chung thân (Chị Tập, trang 30).

2. GÂY DỰNG LỰC LƯỢNG

Trong Thu HươngChị Tập, Hồ Hữu Tường đều cho rằng có thể vận dụng mọi phương tiện, miễn đạt được kết quả thì thôi, “dùng phương tiện nào cũng được hết, miễn là đoạt được mục đích mà thôi” (Chị Tập, trang 28). Muốn lực lượng lớn mạnh phải liều lĩnh. Nhiều lúc, Thu Hương vượt ra khỏi khuôn khổ và bị các bạn đồng hành xử khiếm diện. Nhưng nhờ liều lĩnh, nhiều sáng kiến tân kỳ, Thu Hương đã thành công rực rỡ và đã đem về cho đoàn thể nhiều ảnh hưởng trong quần chúng. (Thu Hương, trang 32 (3)

Đoàn thể của Chị Tập càng ngày càng đông, phải trang bị súng ống cho họ, vì đó là chuyện cần thiết để thúc đẩy lòng hăng say của mọi người. Cho nên Chị Tập khổ công lập kế và đích thân điều khiển công việc cướp khí giới của bọn Nhật, cướp được rồi thì chỉ riêng về mặt khí giới các chiến sĩ rất hài lòng mà thấy mình đã được làm chủ mấy liên thanh và một cây cao xạ nữa (Chị Tập, trang 60).

Súng ống không đủ, phải tìm thêm người đồng tâm đồng chí với mình, và Tập đánh liều về Hà Nội, giả làm một chị buôn bán ở chợ Đồng Xuân để tuyên truyền và tổ chức một mớ đông chí mới (trang 90).

Có lực lượng rồi những vấn đề khác cũng đặt ra. Phân công là việc cần (Chị Tập trang 88) nhưng cần phải biết đường lối chung để hòa nhịp với việc làm của đoàn thể (trang 88) do đó ta thấy công việc tổ chức Tập giao cho những người trắng trẻo ở thành xuống, còn nàng, nàng cho lo việc của một nữ tướng…

[Tác giả Nguyễn Văn Sâm còn phân tích một vài vấn đề khác nữa như:

3. TỔ CHỨC ĐÁNH DU KÍCH LÀM TIÊU HAO LỰC LƯỢNG ĐỊCH.

4. CẢI CÁCH NHỮNG GÌ ĐÁNG SỬA ĐỔI.

5. KẾT HỢP CÁC ĐẢNG PHÁI QUỐC GIA ĐỂ THỐNG NHẤT HÀNH ĐỘNG.

6. KHUYẾT ĐIỂM CĂN BẢN CỦA TRÍ THỨC THÀNH THỊ (xem từ trang 382 đến 393 trong VĂN CHƯƠNG TRANH ĐẤU MIỀN NAM)]

Hồ Hữu Tường là một tấm kiếng đắt tiền, người phụ nữ soi vào thấy mình lộng lẫy hơn, khám phá những nét đặc biệt từ lâu tưởng rằng mình không có. Ta có thể nghĩ tác giả đã giản lược sự có mặt của thanh niên tới mức tối đa, để nhường tác phẩm cho phụ nữ giữ vai trò chủ động.

Nếu nhân vật đàn ông có mặt, thì rất tầm thường, không có khả năng đặc biệt nào cả. Đặt Chương bên cạnh chị Tập, để cho thấy chị Tập đẹp hơn, cao quí hơn nhiều. Tác giả dùng tác phẩm để khích động tâm lý phụ nữ. Hơn nữa, người phụ nữ cổ điển, nhất là người đàn bà quê mùa, bị bỏ rơi, không ai ngó ngàng gì tới. Tác giả chứng minh rằng họ vốn có thật tài, có tấm lòng, có tinh thần, có thể biểu dương được truyền thống Trưng Triệu vàng son. Và họ cần thiết phải có mặt trong những cuộc vận động lịch sử, những lúc làm cho lịch sử chuyển mình.

Nhằm mục đích trên, nên Hồ Hữu Tường trình bày Chương (nhân vật đàn ông duy nhất trong Chị Tập) là một thanh niên hết sức tầm thường (4). Chị Tập, có thể có được trong giai đoạn đó, nhưng là một con người quá phi thường. Mặc dầu tác giả đã khéo léo tạo hoàn cảnh để giải thích rằng những khả năng thật sự của chị Tập, những lối suy tư của chị, không phải là ảo tưởng.

Hồ Hữu Tường đã thổi phồng Chị Tập. Chị Tập là cô gái quê hiền lành, vì hoàn cảnh, thời cuộc đưa đẩy trở thành một người ngang tàng, lắm bản lĩnh. Đồng ý Chị Tập thuộc thành phần giác ngộ, nhưng Chị Tập là mẫu người đặc biệt, không thể tiêu biểu cho chị em quê mùa.

Ngoài ra, vì ông viết với chủ đích đề cao phụ nữ trong vai trò giai đoạn, đề cao thì ông đề cao, nhưng thâm tâm vẫn thấy có gì bất ổn nên nhiều khi ông mâu thuẫn.

Ta hãy nghe một nhân vật của ông lý luận: “Hễ gặp thối trào cách mạng, gái chỉ là những cái gì làm cho vướng víu, làm cho sa ngã. Thì cũng không trách chi văn nhân của thời phản cách mạng đã nhìn họ với cặp mắt trách móc, và đem rắn độc mà tượng trưng cho họ. Nhưng đến lúc phong trào lên, chính bạn gái là một thứ men làm sôi nổi mãnh liệt những tình cảm của mình mà giục mình vào đường phận sự.” (THU HƯƠNG, trang 59-60).

Nói như Khuê trên đây, thì nữ giới chỉ đứng bên lề, hoặc dõi mắt trông theo, hoặc reo hò cổ võ, chứ không trục tiếp tham gia vào cách mạng. Như vậy làm sao giải thích được hành động của một chị Tập, một chị Phan, một cô Thu Hương, một cô Châu. Nói như vậy là phủ nhận công lao của họ mà Hồ Hữu Tường đã coi như dầy công trong buổi đầu. Cũng không thể bảo đó là ý kiến cá nhân của Khuê. Vì Khuê chỉ là một nhân vật trong Thu Hương do chính Hồ Hữu Tường sáng tạo với một giọng văn có vẻ chấp nhận lý luận của anh ta – một Khuê phần nào là Hồ Hữu Tường.

Gái Nước Nam Làm Gì? Làm rắn độc? Làm men? Chính vì vậy tôi nói rằng mình chưa hiểu cặn kẽ Hồ Hữu Tường.

Hồ Hữu Tường mất đã hơn mười năm rồi, thời gian tạm đủ để ta xét về công nghiệp một nhà văn. Ông, về mặt tư tưởng trong tác phẩm, rất đa dạng. Có những vấn đề ông đặt ra lúc nào khơi lại vẫn còn nóng hổi, vẫn còn là ngòi cho những cuộc tranh luận sôi nổi (l. văn học sử Việt Nam phải loại bỏ tác phẩm chữ Hán ra ngoài, 2. tiếng Việt Nam không có tự loại, 3. tiếng Việt Nam không là tiếng đơn âm, tuy rằng nó không thuộc loại đa âm theo lối các tiếng ở Âu Châu. 4. Văn hóa là gì? 5. Tương lai văn hóa Việt Nam như thế nào? 6. Cái nghiệp của nhà văn, làm sao trả, tại sao phải trả? và biết bao nhiêu ý nữa trong bộ NGÀN NĂM MỘT THUỞ …)

Ông xứng đáng để có được một sự khảo sát nghiêm túc công phu về mọi mặt. Tiếc thay chúng ta ít ai có đầy đủ tài liệu và thì giờ. Sửa lại một bài viết cách nay ba mươi năm cho tập “Chiêu Niệm Văn Chương” chúng tôi muốn thắp một nén hương cho người quá cố, nhưng trong thâm tâm vẫn thấy rằng chưa đủ.

6/95
(Khởi Hành số 21, Tháng 7 năm 1998)

Ghi chú:

(*) Sơn Khanh Nguyễn Văn Lộc, sau là thủ tướng, sanh năm 1922 tại Vĩnh Long, vượt biên được tàu Pháp vớt đêm 11.5.1983, định cư tại Mỹ rồi Pháp, mất tại Pháp năm 1991.

(1) Trong Trương Lai Văn Hóa Việt Nam, ông đã viết “Nếu tôi là văn sĩ, tôi sẽ hổ thẹn vì phải dài dòng kể lể cái hình ảnh tượng trưng ở trên. Nhưng tôi không phải là văn sĩ” (trang 5, nhà xuất bản Đồ Chiểu Saigon, 1949, in lần II).

(2) Lúc xuất bản ở nhà Sống Chung, cũng như ở nhà Đông Phong, tác giả đặt tựa chung cho hai quyển Thu Hương và Chị Tập là “Gái Nước Nam Làm Gì?” Khoảng 1966 thấy ông nói bộ này sẽ gồm 4 quyển nhưng không thấy quyển Chị Tập có lẽ ông muốn đổi tựa khác?

Ở đây Hồ Hữu Tường chấp nhận cứu cánh biện minh cho phương tiện (Chị Tập làm thổ phỉ lấy tiền nuôi quân, buôn á phiện lậu để kinh tài…) Chúng tôi chỉ ghi lại tư tưởng giai đoạn của tác giả mà không thảo luận.

(4) Chương là một thứ đàn ông rú rườn, ít hoạt động lại rất mau đói: “Hơi núi lạnh làm cho Chương càng thấy đói” (trang 7).

Chương không làm gì hết, ngay cả việc chạy kiếm đồ ăn, chỉ ở ru rú trong nhà nấu cơm và rất dễ bảo:

“Anh Chương ơi! Hỏa đầu quân ơi! Chương vội vã chạy ra lôi vào một con nai to tướng” (trang 8)

Theo chị Tập vào chiến khu đã lâu, Chương vẫn chưa lập được một chiến công nào hết, chưa làm chuyện nào coi được hết, ngay cả chuyện bóp cò, bắn súng. Chương là một thứ đàn bà ở trong đám đàn bà đàn ông. Chương bị chê bai đủ điều:

– Thực là Lý Toét trăm phần trăm (Chị Tập, trang 9).

– Chúng ta đi mai phục, chận tốp lính Nhật này đánh cho tan đi mà giựt thêm một mớ súng. Anh chưa biết bắn, chịu khó “rú rườn” vậy (trang 145)

“Lần thứ nhất, Chương được ôm súng mà “hay công tác”. Tuy rằng khi về nhà, chàng cũng nhiều lần mân mê nó cho quen, song chàng chưa được lãy cò lần nào… Nay chàng mới được làm chủ một cây súng mình đeo rất nhiều bì” (trang 47).

Ngay cả thành tích rực rỡ nhứt của “đoàn thể” Chương cũng chỉ có bứt dây cho nhiều, nối dây cho chặt chiến sĩ hữu công nhứt trong cuộc chủ mưu chận cướp ghe vũ khí của địch cũng là một đứa bé gái (cùng phái với Chị Tập) độ mười bốn tuổi.

Sống và viết với Hồ Hữu Tường

Nguyễn Ngu Í – Sài Gòn, 1966

LTS. Sau đây là một số đoạn chứng tôi trích từ cuốn “Sống và viết với Hồ Hữu Tường,”

do Nguyễn Ngu Í viết lại những cuộc trò chuyện với Hồ Hữu Tường, bắt đầu từ năm

1946 ỏ Hà Nội, kết thúc vào 1966 ở Sài Gòn. Nguyễn Ngu Í viết quyển này theo lối chữ

quốc ngữ cải cách của ông, chúng tôi đánh máy lại sửa thành chữ thường để độc giả

dễ đọc.

***

clip_image010(…)

Một đêm mùa hạ, năm l954. Anh sắp sửa lên đường sang Pháp để rồi đi Genève vận động cho “trung lập chế,” tôi ở lại chơi với anh có hơi khuya, và bởi căn phố anh ở hẻm Frère Louis ấy tối đến muỗi khá nhiều, nên chúng tôi chui vô mùng trò chuyện. Bỗng anh hỏi tôi có đọc Phong Kiếm Xuân Thu?

Tôi gật đầu.

– Thế anh phục ai?

– Tôi đọc lúc lên mười. Đúng hơn là đọc cho bà chủ trọ nghe trong những ngày nghỉ học lúc ở Phú Lâm. Không nhớ mình phục ai, song thương ai thì lại nhớ rõ!

– Ai vậy?

– Tôn Tẩn.

– Chắc vì Tôn Tẩn bị chặt cụt chân.

– Vì nạn ấy thì ít mà vì Tôn Tẩn quá thương mẹ, quá yêu Tổ quốc mình mà đem hết sức chống lại nhà Tần, tuy biết rằng “số Trời” đã định, Tần Thỉ Hoàng sẽ gồm thâu Lục quốc.

Anh im lặng một hồi, rồi chậm rãi:

– Trường hợp bi đát của Tôn Tẩn ám ảnh tôi từ thuở nhỏ. Và bây giờ, tôi càng thông cảm cái nỗi bi đát ấy của họ Tôn. Tâm sự với anh một chút trước khi đi. Từ cuối năm ngoái, tôi được biết Pháp và Việt cộng đã bí mật điều đình với nhau: chia hai đất nước mình. Như thế là một đại họa cho dân tộc. Miền Bắc Cộng sản sẽ bị áp bức và bóc lột nặng nề; miền Nam Quốc gia sẽ bị Cộng sản dùng sách thuật “thả sâu vào quả” mà chịu cảnh nội chiến triền miên. Thế là sau mười năm máu lửa, nước mình không được thống nhút, dân mình còn bị lầm than và chết hại, “số Trời” định thế đó, tôi nghĩ ra biện pháp “Trung lập chế” thuyết trình trước một số thính giả chọn lựa, đăng trên báo Phương Đông (l) rồi sắp đích thân đi vận động ở Genève, là tôi muốn “cãi số Trời” như Tôn Tẩn thuở xưa.

Im lặng một chặp.

– Tôi có khi đâm ra lẩn quẩn. Không tin rằng dân tộc ta đã dùng sắt máu để tiêu diệt dân Chàm, mà đã đồng hóa họ nhờ văn hóa cao hơn, thế mà sao đôi lúc tôi nghĩ rằng tổ tiên ta đã “làm sao ấy” đối với họ cho nên con cháu ngày nay phải trả cái “nợ” nặng nề kia. Có vùng vẫy đến đâu, rốt cuộc rồi bi đát cũng hoàn bi đát!

Và tôi nghe một tiếng thở dài. Nhưng liền sau đó:

– Nhưng đã là con thằn lằn đã chọn nghiệp (2) thì “cãi số Trời” cứ cãi cho đến hơi thở cuối cùng xem sao!

***

Một trưa mùa thu năm 1946, ở thủ đô Hà Nội. Tôi ngừng ở lại đầu thang gác. Anh đang chăm chú sửa ấn cảo một cuốn sách, trông anh có vẻ một học giả lừ đừ hơn là một chiến sĩ say sưa, hay một công nhân lanh lẹ, hai hình ảnh quen thuộc của anh lúc ở trong Nam. Tôi ngừng lại ở đầu thang gác, vì lần đầu bắt gặp ở anh hiện thân của sự đau buồn: cái lưng khom khom như mang gánh nặng vô hình, đầu tóc dài kém trật tự như không hề làm bạn với cái lược cái gương, đôi mắt có vẻ mệt mỏi, có dáng nặng nề, gương mặt hằn nỗi lo âu của sự luôn luôn phải đối phó, ở trong căn gác im lìm bày biện sơ sài, cạnh chiếc nôi mà thỉnh thoảng anh với tay đẩy nhẹ. Mấy người bạn đường cũ, nay cỏ đã xanh mồ, riêng anh ngồi đây, giỡn chữ, đưa con.

– Người chưa chết đang làm gì đó?

Anh quay lại, tròn đôi mắt, mỉm cười:

– Đang sửa di chúc đây.

Tôi bước lại gần anh:

– Di chúc để lại cho ai?

– Chịu khó đọc vậy.

Tương lai văn hóa Việt Nam. “Tặng X. T. độc giả vị lai của quyển này …”

Tôi nhìn “đứa con đỏ” đang nằm ngủ trong nôi, rồi nhìn anh:

– Để cho hai chục năm về sau?

– Ba chục năm.

– Tam thập nhị lập… À, anh khinh người đồng thời mà trọng kẻ đến sau. Anh “làm phách,” thế mà “thiên hạ” chưa cho anh mò tôm nhá!

Anh không đáp, chỉ cười, một cái cười buồn, rất buồn.

***

( … )

Xét lại đời anh trong hai mười lăm năm nay, hết thất bại này đến thất bại khác. Anh thì chắc sau những phen mệt mỏi, chán ngán không tránh khỏi, sẽ liên tục con đường “cãi số Trời” của mình đến hơi thở cuối cùng “để xem sao.” Nhưng còn người bạn đời mà tù đày đã giành hết phân nửa thời gian chung sống với chồng?

– Chị có thất vọng về anh không?

Chị nhìn tôi, như chưa hiểu câu tôi hỏi.

– Anh cứ đuổi theo những mộng mà thiên hạ cho là khó thành, để mình chị gánh vác bao nhiêu là bổn phận, hẳn chị có lúc cũng thấy ông chồng “kỳ khôi” của mình làm mình thất vọng phần nào.

– Tôi hiểu chú muốn gì rồi. Tôi có những lúc khổ vì nhà tôi thật, mà không thất vọng. Vì ba mươi năm về trước, khi nhận lời làm vợ nhà tôi, thì nhà tôi là một anh chàng công nhân, mà tôi không biết tên thật là gì.

– Sao lạ vậy chị?

– Lúc đó chúng tôi là đồng chí, hoạt động trong bí mật.

– Việc cũng ly kỳ. Nếu chẳng có gì bí mật, chị có thể cho biết sơ qua cái thuở ban đầu gặp gỡ ấy …

– Năm ấy, tôi hoạt động trong một chi bộ ở Cà Mau, thì được lệnh lên Sài Gòn. Bắt được liên lạc với người đồng chí cao cấp ấy rồi, tôi kín đáo theo anh xuống dưới gầm cầu Móng. Gặp một đồng chí lạ, mặc áo công nhân. Đó là đồng chí Năm, mà tôi phải sống chung làm một cặp “vợ chồng đối phó” để tiện bề hoạt động.

– Vậy anh chị đóng vai vợ chồng giả trong bao lâu thì thành “vợ chồng thật”?

– Ba tháng sau, chú à.

***

Năm đã hầu tàn. Anh có phần rỗi rãi. Tôi lợi dụng khoảng thời gian anh hết bận rộn vì chức vụ Phó viện trưởng và Giáo sư viện Đại học Vạn Hạnh mà quấy rối anh.

– Nhờ anh cho biết anh bắt đầu viết lúc nào.

– Lúc tôi mười sáu tuổi, đang theo học Đệ nhị trường Trung học Cần Thơ. Tôi viết báo, báo tay với anh em cùng lớp. Chủ bút là người anh biết, Trúc Hà Trần Thiêm Thới, sau này sẽ đi xa trong báo giới và học giới; trong bộ biên tập, có hai anh này sau sẽ đi xa về Quân sự và Chánh trị, là Nguyễn Văn Tây và Ung Văn Khiêm. Lâu quá, tôi quên tên tờ báo học trò ấy. Nhưng tôi không quên việc tréo cẳng ngỗng này: báo Quốc ngữ, mà anh em giao tôi mỗi kỳ cố “rặn” cho ra một bài xã thuyết bằng tiếng Tây. Đố anh biết để chi? Để rủi báo có bị tịch thâu thì ông đốc Tây biết ngay đại ý tờ báo muốn nói gì.

– Chắc bài này không ký tên.

– Có chớ. Ký biệt hiệu Tây đàng hoàng: Vu-Tren!

– Vu-Tren?

– Nói lái là Ventru. Ventru nghĩa là “Bụng bự.” Lúc đó bụng tôi to hơn mức bình thường, anh em gọi đùa tôi là “Tường bụng.”

– Hồi đó, mà anh đã tỏ ra “rắc rối” rồi! May mà anh chưa biết biện chứng pháp… phổ thông! Không thì bạn học còn “ngán” anh đến đâu!

– Tờ báo tay ấy có thọ không, anh?

Anh lắc đầu:

– Nhân vụ án Nguyễn An Ninh, bọn chúng tôi tham gia phong trào bãi khóa, và bị đuổi. Sang Pháp, tôi lại viết báo… bằng tiếng Pháp lần nữa, và ở một trường hợp đặc biệt. Anh Thâu đang viết loạt bài “Après Yên-Bái, que faire?” (3) trong tờ La Vérité, thì bị trục xuất vì dự cuộc biểu tình trước điện Élysée phản đối việc xử tử Nguyễn Thái Học với 12 liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng. Tôi và anh Hùm nhờ lẹ chân trốn sang Bỉ nên khỏi bị đuổi về nước. Tôi thay anh Thâu viết tiếp loạt bài bỏ dở.

– Après Yên-bái, que faire? Ký tên ai?

– Ký: Un émigré indochinois (4).

– Thế bao giờ anh mới bắt tình với báo Việt?

– Năm 1931. Khi ở Pháp về. Anh Thâu có người thày cũ rất thương anh, anh Nguyễn Văn Bá, lúc ấy nghỉ dạy và trông nom tờ Công Luận. Anh Thâu đưa tôi lại thăm thầy cũ, và trổ tài hùng biện để kéo thầy cũ theo chủ nghĩa của mình. Ảnh nói nhiều, không để thày nói bao nhiêu. Làm ông Bá bực. Còn tôi vốn trầm lặng, ít nói, nên ngồi làm thinh mà nghe. Ông Bá hỏi, tôi mới trả lời; ông có cảm tình với tôi ngay và mời tôi cộng tác. Tôi nhận lời, và bút hiệu Bửu Liên của tôi xuất hiện từ đó.

– Báo Tây, báo Ta, báo công khai … giờ anh cho biết về báo … bí mật, thứ báo chẳng thấy trưng bày trong cuộc triển lãm 100 năm Báo chí vừa qua ở nhà Văn hóa.

– Tôi chắc anh em bây giờ không ai còn giữ được số nào. Có trên ba chục năm rồi, và biết bao nhiêu phen máu lửa xảy ra! Họa may Công an còn giữ số nào chăng, nếu được thực dân Pháp không chở về Tây để làm của quý! Anh nhờ nói đến việc này, là anh làm tôi trẻ lại như hồi mới hai mươi! Viết bài, thì tôi viết. Anh Đào Hưng Long, chữ tốt, đóng vai trò “thợ sắp chữ,” nghĩa là ảnh chép lại những bài của tôi bằng mực tím đậm rồi giao cho “nhà in,” tức là những nữ đồng chí có nhiệm vụ “in” ra trên xu xoa. Anh chắc cũng biết qua lối “in” này. Úp bản cái lên mặt khuôn xu xoa, vuốt cho đều tờ giấy, để đó mười lăm phút cho mực thấm vô xu xoa, vuốt cho giấy sát. Rồi gỡ bản cái ấy lên, mình có bản chánh “in” ngược lên xu xoa. Giờ chỉ còn lấy giấy để lên mặt xu xoa, vuốt giấy cho sát, để chừng một phút, gỡ ra. “In” độ năm mươi bản thì chữ mờ. Tôi có nghĩ ra một cách có lợi cho việc “in xu xoa” này. Thói thường là nấu xu xoa, đổ vô một cái khuôn, và chỉ dùng được có mặt xu xoa ở trên mà thôi. Tôi cho cắt những tấm kiếng bằng nhau để trong khuôn, tấm này cách tấm kia độ một phân (giữa hai tấm kiếng ở hai đầu, có cây cạnh cao chừng một phân), đổ xu xoa vô, thì mỗi lớp xu xoa có hai mặt, mặt trên in cũng được, mà lật lại mặt dưới, in cũng được. Ví như ta có năm tấm kiếng thì ta có sáu miếng xu xoa, tức là mười một mặt xu xoa in được.

– Chẳng khác nào trước ta có một máy in, mà giờ ta có mười một máy in vậy. Thế mà anh chẳng làm đơn xin bằng phát minh cũng uổng!

Chúng tôi cùng cười. Rồi anh tiếp:

– Đến khoảng 1935, chúng tôi có ý chẳng ngu này: làm sao báo bí mật của đoàn thể mình “in” bằng chữ nhà in, mà gạt được bọn mật thám Tây. Nghĩa là làm sao cho chúng nó bảo nhau báo này không thể in ở Việt Nam được, mà in ở bên Pháp; được thế, chúng không tìm ở bên này, mà lo kiếm ở bên Pháp để làm cho ướt ngòi từ Mẫu quốc.

“Chúng tôi tổ chức một cuộc ăn cắp. (Anh mỉm cười). Chuyện đã xưa rồi, bây giờ khai ra đây, chắc không ai bắt thường bắt tội mình đâu. Chúng tôi tổ chức một đám trẻ em, xin vô làm nhà in Ardin, học nghề sắp chữ. Anh còn nhớ nhà in Pháp này ở đường Catinat chớ? Nhà in lớn, có chú hạch gác cửa, giờ về, chú khám thợ thuyền, sợ ăn cắp chữ. Thế mà không khỏi tay … các “tiểu đồng chí” của chúng tôi. Mò túi, rờ lưng, chú hạch chẳng bắt được gì. Thế mà về đến cơ quan, các em nộp “chiến lợi phẩm” cho chúng tôi: trung bình mỗi ngày bốn gói, mỗi gói độ vài chục chữ. Đố anh biết các em làm sao qua mặt chú Chà-và gác dan kia không? Chữ ăn cắp, các em giấu trong… ghi đông xe đạp. Kiến tha lâu đầy ổ. Rồi một ngày nào đó, chúng tôi “đủ sức” dựng một cái “nhà in” bí mật. Nói dựng nhà in cho oai, chớ thật ra là cất một cái

chòi, để clip_image011các em ở đó. Ban ngày lại nhà in thực dân, học; ban đêm, về nhà in của mình, thực hành. Tôi còn nhớ anh bạn phụ trách “nhà in” này, anh tên X hiện ở Paris. Sắp chữ xong xuôi, “mi” rồi, là vỗ. Công phu nhất là phần việc chót này. Vỗ cho cẩn thận, cho khéo léo, thì tờ báo xem i hệt như là in máy thật. Tờ Thường Trực Cách Mạng “in” bí mật theo lối này, làm bọn mật thám bứt đầu bút cổ. Số in à? Thường thì vài trăm. Gặp trường hợp đặc biệt, tới mấy ngàn.

Và mắt anh như mơ màng. Chẳng biết anh nhớ đến một thời hay những bóng hình ai.

Tôi thì nhớ dịp kỷ niệm trăm năm Báo chí, nên chưa muốn rời địa hạt này. Huống hồ chi lại định hỏi anh về tờ báo đã từng đóng một vai trò lịch sử trong công cuộc chống thực dân và phong kiến, mà đời hoạt động cách mạng của anh lúc đầu “ăn chịu” nhiều với báo.

– Anh bật mí báo chí bí mật do anh điều khiển, bao nhiêu đó cũng tạm đủ. Nhờ anh cho biết về tờ báo công khai La Lutte. Mấy anh dính líu mật thiết với nó đã bị Đệ tam sát hại cả, chỉ còn có mình anh. Gợi kỷ niệm xưa, chắc anh buồn, nhớ những bạn đồng hành xấu số, nhưng anh lại giúp cho anh em đến sau một số tài liệu sống của người trong cuộc.

Anh hơi mỉm cười:

– Nói ra, thì khó tin, nhưng nguyên nhân ra báo là một trò “giỡn chơi.” Mà giỡn chơi với nhà cầm quyền Pháp. Số là sắp có cuộc tranh cử Hội đồng thành phố. Anh em có ý đưa ra một sổ đối lập với các sổ tay sai thực dân. Lấy tên là sổ Lao động, gồm có mười hai người. Tôi chỉ nhớ tên sáu người là Nguyễn Ván Tạo, Trần Văn Thạch, Lê Văn Thử, Lê Văn Lưỡng, Huỳnh Văn Tài. Đứng trong sổ Lao động nên nghề nghiệp anh em đưa ra đều có màu sắc Lao động cả, trái lại với các ông điền chủ nhà giàu. Tạo làm nghề viết báo, Thạch làm nghề dạy học. Thử với “chức”: thợ nhà in, Lưỡng: thợ máy, Tài: lon ton. Có sổ rồi, phải có báo, vì có báo ai mà dám cổ động cho bọn tay làm hàm nhai này. Ra báo chữ Tây cho khỏi phải chịu chế độ kiểm duyệt. Chúng tôi nhờ ông Ganofsky làm quản lý. Ông là một nhà báo, có tinh thần cấp tiến, nên vui lòng tham gia “trò chơi” này. Anh em thì nghèo mà số đầu cần ra gấp, tiền chạy chưa đủ. May thay, ông huyện Của, chủ nhà in Union và cũng là chủ tờ báo kỳ cựu Lục tỉnh tân văn, vui lòng cho in chịu. Báo chạy. Trả nợ nhà in và lo tiền cho số kế. La Lutte đợt đầu chỉ bán ra có bốn số, trong thời vận động tranh cử. Đến số bốn, mới có tôi.

– Thế lúc ấy, anh ở đâu?

– Tôi bị kẹt trong tù. Kẹt sáu tháng. Về tội… “báo bí mật.” Và lãnh ba năm tù treo. Sẵn đây, tôi kể anh nghe vì sao tôi từ bí mật ra hoạt động công khai. Cũng do một người bạn “giỡn chơi.” Vừa ra tù, tôi đi dự một cuộc họp ở rạp hát Thầy đội Có ở Tân Định, do các ứng cử viên đối lập với sổ Lao động tổ chức để vận động cử tri. Những cuộc họp như thế, có chất vấn, có tranh luân, nên mở đầu là giới thiệu người vào chủ tọa đoàn. Anh Nguyễn Bá Tường (giờ là một nhà triệu triệu phú, một trụ cột của xưởng thuốc điếu Bastos) muốn phá tôi chơi, bèn giới thiệu tôi làm thị sự (ascesseur). Tôi đành phải bước lên diễn đàn. Thính giả cười ồ. Vì tôi mới ở khám ra, “cái đầu trọc lóc như trái dừa khô.” Anh bạn nhân đó bồi thêm một chưởng: “Đây là một nhà chánh trị thứ thiệt. Thành tích chống thực dân ở ngay trên đầu. Để đồng bào tiện bề kiểm soát!” Cả rạp vỗ tay. Từ trước, tôi hoạt động trong bí mật, có viết bài ở báo công khai, thì đều ký biệt hiệu, nên đại chúng chẳng biết tôi làm chánh trị. Lần này vì bạn phá chơi, tôi kẹt, mà phải ra công khai từ đó. À, tôi quên nói là việc xảy ra năm 1933. Còn có điều đáng nói là trong những buổi tổ chức như thế, anh em trong sổ Lao động thường “cướp diễn đàn.” Nhờ kinh nghiệm quần chúng, nhờ tài hùng biện, nhờ tài xoay xở. Người ta tốn của mướn rạp, tốn công mời công chúng, mình chỉ có chờ cơ hội là nhảy ra bắt bí diễn giả đối lập, làm họ tắc tị, hay khiến họ làm trò cười cho thính giả, rồi mình lôi cuốn công chúng về phe mình, và tha hồ tuyên truyền, cổ động cho “gà” nhà. Người ta dọn cỗ sẵn để mình ăn !

Anh như toan nói gì thêm, nhưng lại dừng. Sao tôi lại đoán rằng anh định nói: “Sân khấu Chánh tri ba mươi năm về trước coi vui nhộn hơn bây giờ nhiều.”

– Theo anh, thì ra La Lutte đợt đầu là để “giỡn chơi” trong mùa tranh cử Hội đồng thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn, nhưng còn qua năm sau, các anh cho ra lại La Lutte, cơ quan binh vực quyền lợi cho giới lao động, thì lần này là “làm thiệt” chớ?

Anh gật đầu.

– Vậy vì nguyên do nào?

– Hơi dài dòng đó. Năm 1934, phái đoàn Cộng sản Pháp đo Gabriel Péri cầm đầu qua xem xét tình hình, thấy hàng ngũ Đệ tam tan rã gần hết, Péri mới tìm Nguyễn An Ninh để bàn bạc(Anh Ninh vốn là một chiến sĩ thuần túy quốc gia, nhưng anh không ngần ngại gì bắt tay với các tổ chức quốc tế để chống thực dân, nên có cuộc đối thoại mà tôi rút gọn như sau:)

Péri – Thất bại trong bí mật, sao Đệ tam không tìm ra công khai?

Ninh – Vì không đủ tài.

Péri – Không đủ tài thì bước đầu hợp tác với những ngươi có tài. Rồi sau sẽ tủy cơ ứng biến. Nhóm nào có năng lực?

Ninh – Nhóm Tờ rôt kít.

Péri – Có đông không?

Ninh – Năm, sáu đứa

Pérl – Họ bằng lòng hợp tác?

Ninh – Tụi nó dễ chịu lắm.

Thế là Péri chuyển đề nghị qua Moscou. Moscou chấp nhận. Paris mới đưa ra chỉ thị cho Sài Gòn; anh Ninh làm mối lái. Anh em chúng tôi bằng lòng: nhóm La Lutte thật sự ra đời sau đó. Nó gồm có những phần tử Đệ tam, Đệ tứ và những phần tử chân chánh quốc gia như Nguyễn An Ninh, Trịnh Hưng Ngẫu. Tờ La Lutte lại ra đời, đánh số 5 ngày 4-l0-1934. Qua tháng hai năm sau, nhóm quyết định đưa người ra tranh cử Hội đồng Quản hạt. Bản tuyên ngôn của nhóm (Aux électeurs des classes moyennes: Gởi cử tri các giai cấp trung lưu), Thâu và tôi thảo. Anh em bảo tôi ra, tôi không chịu, vì không thích, mà cũng vì tôi trẻ nhất trong đám anh em, thiếu hai tuổi để làm ứng cử viên. Nhưng anh em cứ biên đại tên tôi, đứng cùng sổ với Phan Văn Hùm, Nguyễn Văn Nguyễn, ra quận 1, gồm những tỉnh Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một. À, chút nữa quên, còn Côn Nôn nữa!

Tôi cười:

– Quả là tiền định. Ba anh ra ứng cử cái quận có Côn Nôn, nên về sau, anh nào cũng nếm mùi Côn Đảo. Con anh thì thiếu hai tuổi… nên duyên nợ với nó đến hai lần! Mà này, như thế, thì hai Đệ tứ và một Đệ tam ra ứng cử. Đệ tam chịu lép vế sao?

– Đâu có, còn sổ thứ nhì: Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Thạch ra ứng cử quận nhì (tức Sài Gòn, Chợ Lớn, Tân An, Mỹ Tho). Nam kỳ lúc đó chia ra làm năm quận bầu cử.

– Nhưng chuyến “xuất quân” đầu tiên ấy thắng hay bại?

– Bại. Chúng tôi thất cử vì bị ăn gian thăm.

– Trong thời làm báo La Lutte, có gì vui không anh? Tranh đấu, thì có lúc bại, lúc thắng, khi buồn, khi vui …

– Tôi còn nhớ hai cái khoái. Một là ủng hộ Trần Văn Thạch trong việc mở mục Petits clous (Đinh cúc), và góp ý với ảnh để ảnh dùng giọng văn trào phúng mà viết mục bài phong kiến, đả thực dân này. Anh Thạch viết Pháp văn rất cừ và có duyên, nên mục Đinh Cúc được độc giả hoan nghênh. Anh biết hạng độc giả nào đọc mục châm biếm này nhiều nhất không? Ba phần tư là… người Pháp. Thực dân Pháp ghét cay ghét đắng tờ La Lutte. Nhưng lại thích đọc mục Petits clous (có những người mua La Lutte để chỉ đọc có mỗi mục này), và buồn cười, là họ lại cho chúng tôi tuy dô để viết bài “hạ” đồng bào họ nữa chớ. Đó là cái khoái thứ nhất. Cái khoái thứ nhì là việc hạ uy tín Nguyễn Phan Long ở phe Lập hiến. Bọn chúng tôi biết được hiện tượng kỳ cục này: thiên hạ phục Nguyễn Phan Long, chẳng phải vì đường lối chính trị của ông, mà vì ông viết tiếng Tây hay. Vậy muốn hạ con “Rồng” có uy tin với đồng bào này, thì tìm cách chứng minh rằng ông ta viết tiếng Pháp… sai mẹo. Anh em đọc thật kỹ các bài của ông Long, hễ thấy lỗi là mách cho anh Thạch. Anh Thạch bèn viết bài bắt bẻ Gờ ram me ông Long. Vài lần, là ông Long mất mặt với độc giả. Uy tín riêng của ông – và cả uy tín của đảng Lập hiến – sút đi vì vụ này. Các bạn trẻ bây giờ hẳn không tin đó là sự thật. Phải sống vào thời kỳ ấy, mới thấy có lúc không thể lấy cái “lô gíc” (logique) mà giải thích một hiện tượng xã hội.

“Lại còn một điều tức cười này. Tòa soạn La Lutte ở 99 đường Lagrandière, giờ là đường Gia Long. Chắc chắn đó là toà soạn nhỏ hẹp nhất của báo… công khai. Nửa căn phố thôi vì phân nửa đầu bị cái thang lầu chiếm gần hết. Nhỏ, hẹp lại bất tiện, nên chẳng ai thèm mướn. Phố của chú Hỏa. Chúng tôi chỉ phải trả tiền phố tháng đầu. Những tháng sau – mà chúng tôi ở đó tới hai năm – chú Hỏa không dám thâu tiền phố chúng tôi.

– Không dám? Anh chủ quan rồi đó. Chú Hỏa cũng thuộc về đám… thực dân da vàng, thì có sợ gì đám dân lao động bị trị các anh. Chẳng qua là chú Hỏa biết các anh nghèo, nên… thương tình, không nỡ thâu tiền phố đó thôi. Vả lại người Tàu vốn thấy xa, nên chú tư bản này bắt đầu thực hiện khẩu hiệu: “lao tư hợp tác”‘ mà các anh vì say cái thuyết tranh đấu nên chẳng hiểu cái “lo- gíc” ấy!

Chúng tôi cùng cười.

– Bây giờ, hỏi anh đôi cái bí mật trong nghề đây. Tuần báo La Lutte mỗi kỳ in bao nhiêu số?

– Một ngàn.

– Cái vốn để ra báo …

– Anh em chúng tôi góp tiền kẻ ít người nhiều. Rồi các nhà trí thức hảo tâm giúp đỡ, nên phần tài chánh cũng nhẹ lo. Hơn nữa, lần lần tờ báo tự túc được.

– Làm báo mà khỏi lo “chạy tiền” là các anh thành công trên mặt thương mãi rồi đó.

– Nhưng làm báo để tranh đấu, thành ra vẫn cứ “chạy tiền” như thường. Cần tổ chức những cuộc đình công, bãi thị để chống thực dân, thì phải sẵn tiền để giúp đỡ anh chị em cơm nước hoặc thuốc men trong suốt thời gian tranh đấu.

– Anh còn nhớ mỗi lần tổ chức một cuộc tranh đấu như thế, cần bao nhiêu tiền?

– Một ngàn. Nhưng ngàn đồng lúc đó lớn hơn ngàn đồng bây giờ nhiều. Anh muốn hỏi “chạy” đâu ra một số tiền lớn thế? Thì đi quyên. Những người bạn hay quen biết giầu có mà ghét thực dân, không phải ít. Họ luôn luôn sẵn lòng. Kẻ công người của!

– Có chút thắc mắc nầy, vừa dính đến báo lại dính đến sách. Có vài người nói quyển “Phong kiến là gì?” của anh ký Duy Minh, do nhà Minh Đức xuất bản năm 1946 ở Hà Nội là gồm những bài báo trước đăng ở Công luận, ký Phan Văn Hùm. Chẳng hay chị Hùm – Mai Huỳnh Hoa (5) – có tìm anh để hỏi đầu đuôi câu chuyện chưa?

Anh “à” lên một tiếng.

– Chị Hùm – Mai Huỳnh Hoa (để nói theo anh) tới nay chưa làm “khó dễ” gì tôi về vụ “sang đoạt” này. Chắc là chỉ chưa hay. Số là dạo ấy, năm 1935, nếu tôi nhớ không lầm, “ông già” Phan Khôi có viết một bài dài, cho rằng nước Việt ta không có gì là phong kiến cả, và những kẻ nào nói có, là những kẻ dốt. Rồi ông lại kêu đích danh Phan Văn Hùm ra bút chiến với ông. Anh Hùm không thể làm thinh. Nhưng khổ nỗi là ảnh chuyên về Triết học, mà không chuyên về Xã hội học. Trong anh em, tôi là người đã nghiên cứu chút ít về môn này, nên lãnh cái “nợ viết những bài trả lời lão tướng Phan Khôi. Anh Hùm sửa lại cho có “giọng” của anh và ký tên ảnh. Tuy thế, vốn là người cẩn trọng, ảnh chú rằng tài liệu vốn mượn của tôi.

– À ra thế!

– Trong những phong trào chính trị, thường thì người này viết tài bệu, rồi để người khác ký tên. Các sử gia về sau nếu chỉ căn cứ theo những gì nằm trên giấy trắng mực đen, thì làm sao tìm cho ra sự thật! Tôi xin đưa ra một trường hợp của tôi: chính tôi là người điều khiển tạp chí bí mật Thường trực Cách Mạng, nhưng khi đổ vỡ, thì một đồng chí đứng ra “chịu tội” trước pháp luật. Mai sau, có sử gia nào đó tìm tòi trong hồ sơ của tòa án, thấy tên người đồng chí nọ, vội bằng lòng với kết quả đó, rồi công bố trong sách vở mình, trong khi “chánh danh thủ phạm tên là thằng tôi!” Và nếu lúc ấy, những người trong cuộc không còn, thì sự sai lầm kia được truyền mãi về sau, như là một chân lý!

Nhân trường hợp của tôi mà suy ra, tôi mong những ai muốn viết về lịch sử nước nhà trong thời Pháp thuộc – nhất là về những đảng Cách mạng – phải hết sức cẩn trọng và chớ có bằng lòng những tài liệu đã có trong sách, trong báo. Khảo cứu mà làm như Nguyễn Văn Tố trước kia, tôi cho là hẹp hòi, máy móc, khó tiìm ra sự thật.

– Tôi nhớ anh có đem “ông cụ” Ứng Hòe nhà ta mà ngạo trong Phi Lạc sang Tàu, với bốn câu hỏi đặt vào miệng ông ấy: “Ngài dựa vào sách nào? Trang mấy? Tờ a hay tờ b? Dòng thứ mấy?”

– Tôi dụng ý công kích cái tinh thần “nệ sách” của một hạng người khảo cứu mà điển hình là “Tố tiên sinh!”

– Thế là anh đả kích phương pháp sử học của Âu – Mỹ mà các “sử gia” của ta tốt nghiệp tại các trường Sorbonne, Harvard, Columbia đang áp dụng trong khi nghiên cứu sử nước nhà hoặc đang truyền lại cho sinh viên “bản xứ.”

– Tôi đâu dám phê bình phương pháp sử học Tây phương, vì tôi không phải là một sử gia, mà cũng không phải là người rành sử. Chẳng qua là tôi muốn góp chút ý mọn của mình, là hoàn cảnh nước nhà nó có khác, vậy nên uyển chuyển trong việc nghiên cứu sử của dân tộc, chớ còn một mực áp dụng phương pháp học ở phương trời Tây, thì e kết quả thâu thập có phần thiếu sót, không sống động, đôi khi còn có thể sai lạc. Bởi vì nước ta thường sống trong cảnh loạn ly, tài liệu chép, in mất đã nhiều, mà còn tệ một nỗi là triều đại sau có cái thói hủy diệt dấu tích triều đại trước nếu triều đại này vốn là thù nghịch; lại còn ngàn năm thuộc Tàu, trăm năm thuộc Pháp. Viết sử nước nhà trong hai thời này, mà chỉ căn cứ vào tài liệu của sử gia Tàu, Tây (hoặc sử gia người mình mà mất gốc), thì hẳn là khó mà đầy đủ, khó mà chính xác. Tôi tưởng ta không thể bỏ qua loại văn chương truyền khẩu thời Bắc thuộc, văn chương “quốc cấm” thời Pháp thuộc ở trường hợp này.

“Tôi mong sao các sử gia của ta xuất thân từ các trường dạy sử danh tiếng Âu – Mỹ, ngoài các phương pháp của Seignobos, còn cố tìm phương pháp của văn chương sử liệu.”

– Tác phẩm mà tôi mong được dịch ra tiếng Pháp, Anh… va xuất bản ở Âu Mỹ để làm bức thơ cám ơn chung cho những ai ở ngoại quốc và ở trong nước đã ký tên xin ân xá cho tôi, là bộ Thuốc trường Sanh.

Tôi viết nó ở trong tù Côn Đảo, tháng 4 và tháng 5-1958. Đó là một quyển khảo cứu về Triết học, trình bày dưới hình thức tiểu thuyết, có tánh chất thời đại. Nó khảo cứu về thuyết nhân quả, về hành động, về đức tin. Các nhà văn Âu châu tả sự cô đơn của cá nhân; trong Thuốc Trường Sanh, tôi tả sự cô đơn tập thể, sự cô đơn của nhóm Tuyết-Lê, trong thế giới hai phe đương chống đối nhau kịch liệt bằng máu lửa, mà không theo một bên nào được, nên đuổi theo mộng “lập cái hố của đấu tranh, của hận thù.” Và nhân vật chánh trong tiểu thuyết tượng trưng này, tôi dành cho loài cọp, mà tôi thấy hơn loài người: cọp giết người vì bản tánh tự nhiên, còn người giết người lắm khi vì một cớ không đâu.

– Anh viết nó chắc là không giống như mấy lần trước: bị anh em giao cho trách nhiệm viết tuyên ngôn, thuyết trình, khảo cứu, bị vợ hụt tiền chợ xúi anh bán văn, bị ở vào cảnh không còn sanh kế nào khác, như có lần ở Côn Đảo anh viết thơ cho tôi, khi tôi phỏng vấn anh về truyện ngắn hay cho Bách Khoa.

– Đúng vậy. Lần này, không bị ai hay bị gì bắt mình phải viết. Mà chính mình buộc mình phải viết. Và viết có chương trình hẳn hoi. Để quên cái ám ảnh bị chết mòn. Vì rời khám Chí Hòa, vô ngục Côn Nôn, chúng tôi thấy ngay anh em họ Ngô Đình quyết tình giết chúng tôi một cách từ từ mà chắc chắn: chân bị còng, đồ ăn nuốt chẳng vô: mắm chưng thì mục nát, cơm đỏ thì hẩm, lộn dầy thóc sạn. Tôi cắm đầu cắm cổ viết, trừ giờ ngủ và giờ ăn.

– Hẳn lúc ấy, anh viết một cách say sưa?

– Không đâu. Tôi say sưa hành động thì có, còn say sưa viết thì không. Tôi viết đều đều, chậm chậm. Anh đã thấy bản thảo mấy tác phẩm tôi viết ở Côn Dào thì rõ: tuồng chữ đều đều, chẳng có vẻ gì là “chuếnh choáng hơi men” cả, thỉnh thoảng mới bôi hay thêm đôi chữ.

– Với bộ Thuốc Trưòng Sanh, hẳn là anh phải làm một cái dàn trước?

– Làm sơ trong đầu thì có, chớ làm trên giấy thì không. Mà quyển nào cũng thế, trước kia cũng như bây giờ. Nuôi đề tài trong trí, rồi cầm viết lên là viết. Chỉ trừ một lần. Mà lần này, chẳng phải tôi làm cho tôi, mà cho anh Khái Hưng. Việc xảy ra ở Hà Nội, năm 1946. Tôi có bàn với anh Khái Hưng nên đưa hình thức tiểu thuyết mới, vì từ 1945, quần chúng bước ra sân khấu lịch sử, vai trò của cá nhân phải lu mờ trước vai trò của đoàn thể. Vậy, nội dung và thể tài của tiểu thuyết này phải khác. Anh Khái Hưng đồng ý, và chúng tôi hợp tác với nhau để viết chung một bộ tràng giang tiểu thuyết. Tôi chọn đề tài dựng sườn, phác họa nhân vật; anh Khái Hưng viết. Tên bộ tiểu thuyết: Gái nước Nam làm gì? Quyển đầu có tên: Nổi cơn gió bụi, mượn ở câu đầu “Chinh phụ ngâm”: Thuở Trời Đất …

– Chớ không phải Thu Hương?

– Không. Thu Hương, Chị Tập là hai phần trong bộ Gái nước Nam làm gì? cũng như Jean Valjean, Fantine, Cosette, Mrius, trong bộ Les Misérables của Victo Hugo.

– Nhưng sao lại chọn đề tài Gái nước Nam làm gì? mà không Trai nước Nam làm gì? như một cuốn sách viết về thanh niên của anh Hoàng Đạo Thúy?

– Vì người con gái hành động do tình cảm, theo bản năng, mà rất nhẹ về lý trí. Tôi thấy lúc ấy lịch sử sắp lật qua trang mới, nên tôi muốn đặt lại vấn đề: “Hành động phải làm sao?” trong bộ Gái nước Nam làm gì? Anh Khái Hưng sửa soạn bắt tay vào việc, thì chiến tranh toàn quốc bùng nổ. Anh tản cư rồi bị hại. Tôi bị quân Pháp bắt về Hà Nội, rồi tôi về Sài Gòn. Tôi mới viết hai phần giữa rút ra trong bộ ấy. Thu Hương, rồi Chị Tập ra đời trên nhật báo Ánh sáng, rồi sau in thành sách. Đây chỉ là hai phác họa trong cái bích họa dự định để đánh dấu sự chỗi dậy của dân tộc khởi từ 1945, mà sự chỗi dậy này chẳng những đánh dấu lịch sử nước mình, mà cũng đánh dấu lịch sử nhân loại, vì do đó mà khơi mào cuộc chiến tranh nguội giữa hai khối Cộng sản và Tư bản. Tôi vẫn luyến tiếc cái dự định văn chương này, nên ra ngoài ngày tôi sẽ khởi đầu viết để đăng trên Hòa đồng.

– Trước Thu Hương, Chị Tập, có Phi Lạc sang Tàu sáng tác dài đầu tay này hẳn làm anh mệt, như phần đông sáng tác đầu lòng?

Anh xác nhận rằng anh rất mệt vì cái quyển tiểu thuyết trào phúng này. Bởi anh phải giải quyết một bài toán hết sức khó, gồm năm phương trình:

1) Làm sao mà trình một văn kiện chánh trị vạch rõ được tiền đồ, chiến lược và triển vọng của dân tộc Việt?

2) Làm sao mà văn kiện này lọt qua lưới kiểm duyệt của Việt Minh cũng như của Pháp?

3) Làm sao mà văn kiện này, tuy lọt qua lưới kiểm duyệt, mà vẫn để cho quần chúng hiểu được nó nói gì?

4) Làm sao mà nó thâm nhập được trong nhân gian mau lẹ và có thể ảnh hưởng được thời cuộc nước nhà?

5) Làm sao mà độc giả xem qua một lần, không ném nó một bên lại đành để mà đọc đi đọc lại, và nhờ ánh sáng của thời cuộc rọi, mỗi lần đọc lại thấy phong phú và xác đáng hơn?

Do đó mà nói chuyện nước Tàu (Quốc, Cộng đánh nhau) để nói chuyện nước nhà sẽ phải chia hai, và chọn hình thức tiểu thuyết với thể tài trào phúng vốn được dân gian thích, rồi đến dùng sấm kí của Tàu và của Ta (dân ta thích nghe sấm, bàn sấm và suy nghĩ về sấm); họ của nhân vật chánh nhắc lại Quang Trung với chiến lược trước thành công ở Nam, sau thu công ở Bắc (nhưng không dùng biện pháp quân sự, mà phải dùng biện pháp chánh trị và đạo đức, tức là Minh đạo) và tên là tượng trưng cho đường lối dân tộc.

– Anh mà bạc đầu sớm cũng vì “mang nặng” đứa con so nầy. Như thế, hẳn khi đẻ nó cũng đau chớ?

– Mang nặng thì có, mà đẻ không đau. Lúc bấy giờ – năm 1948 – cả ngày lo chạy sống, gặp bạn bè xa gần, rồi khoảng bốn giờ chiều, ngồi lại, viết một mạch. Báo Sài gòn mới cho tùy phái đến, viết được trang nào họ lấy trang nấy, tôi không thì giờ để đọc lại nữa.

– Anh tạo nhân vật chánh của bộ Ngàn năm một thuở ấy, cái anh chàng Phi Lạc chỉ đem cái miệng tài mà chọc Tàu, phá Mỹ, bỡn Nga, chắc cũng do một nhân vật thật nào đó…

– Do một nhân vật tưởng tượng mà người Việt nào cũng biết và cũng thích: đó là Cống Quỳnh.

– Còn nàng Thu Hương, cô sinh viên xinh đẹp và khả ái, tham gia phong trào cách mạng năm 45, và đi buôn lậu cho đoàn thể?

– Không có Thu Hương sinh viên, nhưng có Thu Hương buôn lậu mà tôi và anh Thâu đi nhờ xe từ Huế ra Hà Nội, sau khi tôi xoay cho cổ một cái giấy phép của ông bộ trưởng Tiếp tế, như trong sách đã kể.

– Việc cũ rồi qua việc mới. Một số anh em bực mình vì những gì anh viết sau này thường hay nói đến cái “tôi.” Mà cái “tôi” của anh lại là cái “tôi” đặc biệt: anh thông minh, anh nhớ giỏi, anh có dính dấp đến những người, những việc lịch sử…

Anh cười.

– Thì tôi xin các anh em ấy đừng đọc những gì tôi viết nữa.

Rồi anh chau mày:

– Nghĩ cũng buồn: ta học thầy Pháp rồi đem cái câu “cái tôi đáng ghét” (Le moi est haissable) của Pascal nói từ thế kỷ XVII mà áp dụng cho ngày nay. Ngày nay, các nhà tư tưởng trên thế giới đều nhận cái học nó minh mông vô cùng, không ai dám nhận rằng mình nắm được chân lý, mình thấu hiểu tất cả, không ai dám nói với cái giọng tuyệt đối. Cho nên phải nói đến kinh nghiệm cá nhân của mình. Vì lẽ đó mà các nhà tư tưởng lớn hiện đại đều nói đến cái “tôi” của họ cả. Tôi đem cái “tôi” của tôi ra, chẳng phải để cho mình là một nhà tu tưởng lớn, mà để chịu trách nhiệm những gì mình nói. Kinh nghiệm bản thân tôi là thế. Tôi đã nghe như thế, tôi đã thấy như vầy, tôi đã nghĩ như vậy, tôi đã làm như ri, tôi đã là thế đó. Trong không gian nào, trong hoàn cảnh nào. Tôi thành thật với chính tôi. Tôi cho những ai hành động như thế mới đích thị là khiêm tốn. Tôi thẳng thắn: tôi không dùng ngôi thứ ba, tôi không nhờ một ai khác vỉết. Còn những anh em nào đó lại cho như thế là thiếu khiêm tốn, là tự đề cao, là khoe khoang khoác lác, thì tôi còn biết nói sao.

Ngừng một chặp anh tiếp:

– Tôi viết tự truyện Thằng Thuộc, con nhà nông là để tôi tìm hiểu lại tôi, cái tôi thật ẩn náu tận đáy lòng, ở trong tiềm thức sau này tô lên một lớp sơn dày. Mà Thằng Thuộc, con nhà nông cũng là quyển đầu của bộ Một kinh nghiệm sống. Quyển kế sẽ là Căm hờn, tả nỗi lòng của tôi từ khi ý thức được thân phận của mình, thân phận của con một nhà nông nghèo bị đè đầu, bị hiếp đáp, bị bóc lột; phải phục thù, tôi chụp lấy cái khí giới Mác-Lê. Quyển ba là Mê li đồ: người tín đồ cuồng tín của chủ nghĩa Mác-Lê là tôi đã hành động, rồi băn khoăn để tỉnh ngộ ra sao, đó là đại ý quyển này.

– À, tôi muốn biết anh em, ngoài “cái tôi của tôi” còn thắc mắc gì nữa?

– Còn ba điều. Anh em muốn biết rõ vì sao anh công khai rời bỏ chủ nghĩa Mác-Lê mà anh đã phụng sự hết mình?

– Có nhiều nguyên do. Nhưng tựu trung có hai nguyên do chánh. Sau 1936, phong trào thợ thuyền ở Pháp xẹp, cuộc cách mạng bình dân ở I-pha-nho bị bỏ rơi, tôi thấy cuộc Cách mạng vô sản thế giới mà chủ nghĩa hứa hẹn sẽ không bao giờ có , tôi mất đức tin từ đó. Rồi tính năng nguyên tử xuất hiện, loài ngươi mà cứ theo thuyết tranh đấu, sẽ tận diệt lẫn nhau. Tôi thấy chủ nghĩa Mác- Lê lỗi thời nên tìm một ý thức hệ khác cao đẹp hơn (6).

– Điều thứ hai: anh em thắc mắc sao khi đọc hai tiểu thuyết trào phúng mới cửa anh đăng trên Hòa đồng: Tiểu Phi Lạc náo Sài GònDiễm Hồng xuất giá. Họ thấy trong đó, anh “nói xuôi cũng ngược, nói ngược cũng xuôi.” Chẳng biết đâu mà rờ!

Anh cười:

– Đó là tôi cố ý chứng minh rằng “biện chứng pháp” chỉ là một… luật sư. Luật sư ăn tiền thì dầu biết thân chủ mình có tội cũng cãi xuôi rót. Với biện chứng pháp, hễ “ở đâu” muốn nó “trắng” thì nó biện luận ra cho trắng, mà ở đâu muốn nó đen, thì nó làm ra cho đen. Không thể nhờ nó mà tìm ra Chân lý được. Thế là tôi đã giải hai điều anh em thắc mắc. Còn điều thứ ba?

– Điều thứ ba … còn khuya! Để bao giờ thế chiến thứ … ba nổ, tôi sẽ cho anh biết. À này, anh ở tù nhiều lần, lại nhiều năm, hẳn lắm kỷ niệm. Anh kể cho đôi cái làm quà cho bạn đọc.

– Cha! người ta khó dễ với nhau để làm tiền, anh khó dễ với tôi để làm kỷ niệm. Thì tôi kể cho anh một kỷ niệm có tánh chất… lưu manh vậy.

“Lần tôi ở Côn Lôn kỳ nhất, có hai anh bạn trẻ rất mến tôi. Anh L. và anh N. Sau này, một anh làm khu trưởng, một anh làm bộ trưởng. Hai anh mến tôi đến đỗi học nghề ăn cắp để ăn cắp đồ ăn chia cho tôi! Ở tù, lúc nào mà no được, nên được một miếng khi đói trong hoàn cảnh ấy, bằng mấy gói khi no.

“Coi bộ anh muốn ‘làm’ một kỷ niệm nữa. Thì đây: lần này trong đất liền. khám Ca-Ti-Na, năm 1932. Tôi bị nhốt vào xà lim. Một lần nọ, người nhân viên gác khám trao qua cái lỗ vuông ở cửa một cái hộp quẹt, bảo nhỏ rằng trong đó có một bức thơ, của một cô ‘rất ngộ’ bị nhốt ở xà lim đằng kia nhờ gởi cho tôi, dặn tôi coi rồi thì nhai cho nhỏ rồi bỏ lỗ cầu tiêu.

Tôi mở hộp quẹt ra, bức thơ là một bài thơ tứ tuyệt:

Thương người tình nghĩa nặng oằn vai,

Hồ hải tang bồng cả chí trai.

Hữu chí vô phần thân phải lụy,

Tường cao ngăn đón bực anh tài!

“Năm qua, có lúc buồn chán quá, tôi lại nhớ đến người-rất-ngộ-nạn mà mình không biết mặt, cũng chẳng biết tên. Và buồn cười, là tôi có lúc bắt gặp mình như chờ đợi một bà già tóc bạc đến tìm mình, mở đầu: “Ba mươi năm về trước, một đêm vừa…”

***

Anh tỏ ý muốn tôi kết thúc bài này bằng một chuyện ngụ ngôn do anh đặt từ Côn Đảo, nhưng tôi không đồng ý với anh, mà lại chấm dứt bằng bốn câu của một bài thơ do anh làm ở Hà Nội (và anh đặt vào miệng một nhân vật đứng vào hạng chót trong xã hội nước nhà) nhưng lại đổi đi một dấu chấm câu: Việc đời may rủi hỡi này ai, Thành bại nào do một chữ Taì? Lắm lúc không mong mà lại được, Cho hay chờ đợi hóa ra sai?

Thủ đô nước Việt, đầu năm Ngựa (1966)

clip_image013

Chú thích:

(1) Số 12, ngày 13-3-1964

(2) Con Thằn lằn chọn nghiệp, tên một truyện ngắn triết lý của anh đăng ỏ tuần báo Mới, số 28, ngày 16-5-1956, sau đăng trong quyển “Nợ tinh thần,” 1965. Bạn thân thường gọi đùa anh là “Thằn lằn chưa chọn nghiệp”

(3) “Sau Yên-Bái, làm gì đây?”

(4) Một người dân Đông Pháp kiều cư.

(5) Gọi dài dòng thế) vì có tới hai chị Phan Văn Hùm; chị Hùm trên đây vừa là bạn đời vừa là bạn văn của tác giả “Nỗi Lòng Đồ Chiểu.”

(6) Tôi nghĩ đến hai câu ca này của Phạm Duy ờ bài hát Kẻ thù ta trong “Mười bài Tâm ca” vừa xuất bản: Kẻ thù ta đâu có phải là người

Đọc văn Hồ Hữu Tường

Làm báo trong tù

Lời giới thiệu: Nhà văn hóa Hồ Hữu Tường suốt đời tù tội. Cái đau đớn nhất là lần đi tù cuối cùng: Khi CS thả ông ra vào ngày 26 tháng 6, 1980, xe chở ông chưa về tới nhà, chỉ mới tới đầu ngõ, thì ông trút hơi thở cuối cùng. Ðể tưởng nhớ ông, xin mời đọc hai đoạn ông viết trong Hồi Ký “41 Năm Làm Báo.”

Tôi bị mật thám đến xét nhà sơ sịa, trình lịnh của biện lý, rồi bắt dẫn về bót Catinat vào chín giờ ngày 11 Novembre 1932. Tôi nhớ vậy, vì ngày đó là ngày Lễ Ðình Chiến. Tất cả những người trọng yếu đã bị vào khám từ đầu tháng Auot, Ðào Hưng Long và Huệ Minh ngày 20 Septembre. Tôi chắc không còn giấu gì được nên hỏi câu nào, mà tôi thấy không còn chối được thì tôi nhận cả. Lời khai làm xong và ký tên đúng mười hai giờ trưa. Và tôi vào khám.

Ðây là một cái khám hẹp, vuông vức hai thước mỗi bề. Có một cái bục xi măng cao độ hai tấc khỏi mặt đất. Một góc có chỗ tiểu đại tiện. Một góc có xây một cái chậu xi măng, để thỉnh thoảng, người ta mở nước cho dùng. Phía trên có một lỗ nhỏ tròn chừng bằng một cái rổ nhỏ, đóng bằng một tấm tôn có khoét lỗ tròn bằng ngón chơn cái, để cho thoáng khí vào. Cửa bằng gỗ dày, có một tấm kéo vuông chừng hai tấc để lính gác, thỉnh thoảng rình xem tù làm cái gì ở trong. Mỗi ngày, cửa này mở ra hai lần để đưa cơm vào và một chập sau, lấy bát ra. Trừ khi tù bị gọi đi điều tra.

Ban đầu, trí óc tôi chờ bị gọi, nên không tính gì khác. Ðến khi nhận giấy tống giam của dự thẩm, không thấy hỏi gì thêm, và chẳng biết ở một mình thế này bao lâu, tôi mới quyết định “làm báo.” Ðây là một cái thuật để tránh bị điên, nếu bị nhốt một mình. Và tôi học cái thuật này với vị lãnh tụ của phái “vô chánh phủ” (anarchriste) là Bakounine.

Bakounine sống giữa thế kỷ XIX, người Nga, và chủ trương còn cực đoan và bạo động hơn cộng sản nữa, Nga Hoàng ghét, kêu án nặng. Và hình phạt nặng nề nhứt là nhốt một mình. Phải bị nhốt một mình, mới thấy đó là hình phạt gớm ghê. Bị nhốt với người khác, còn trò chuyện mà trí khuây khỏa. Ðược sống giữa thiên nhiên còn dễ chịu hơn một bực. Còn bị nhốt hoài từ sáng đến tối thì bực bội vô cùng. Có người nói chuyện, trí còn hướng ra ngoài được. Chớ bị nhốt một mình, thì mình luôn luôn nói chuyện với mình mệt trí không thể tưởng tượng nổi. Có khi câu chuyện mình nói với mình khuya rồi mà chưa dứt, thì tiếp tục nói hoài, sanh ra bịnh mất ngủ. Mà hễ mất ngủ luôn, thì dễ sang qua điên. Nên chi, việc nhốt riêng một mình là cực hình độc ác nhất.

Và để tránh ảnh hưởng tai hại của việc nhốt riêng này, Bakounine có bày ra một lối để tự dùng. Và có kết quả. Là mỗi ngày, xuất bản một tờ báo nhẩm. Và sáng ra, Bakounine lo việc ra tờ báo hàng ngày của mình, y như ngoài đời. Cũng có bài xã thuyết, cũng có thiên phóng sự, cũng có tin thế giới (tự nhiên là bịa, vì trong tù làm gì lượm tin tức được?), có bình luận thời cuộc. Cũng có đoản thiên và trường thiên tiểu thuyết, có mục kịch nghệ, văn chương, có trang khôi hài.
Tôi bị nhốt vào cái khám nhỏ này không biết ngày nào được dời đi chỗ kkhác. Buồn ơi là buồn! Hồi nhớ lại cảnh mình, không thấy có gì hay ho. Nếu e sợ cái buồn nó làm hư bản chất. Tôi bèn bắt chước Bakounine mà sáng lập một tờ báo nhẩm. Tờ nhật báo của tôi đặt tên là Thiên Thu do câu sáo ngữ “Nhứt nhựt tại tù, thiên thu tại ngoại.” Ðếm chung, đã xuất bản nhẩm đúng bảy chục số. Tức là tờ báo tôi cũng dài được hai mươi lăm ngàn năm trăm năm chục cái thiên thu.

Nhưng có một truyện rất thật, là tờ báo Thiên Thu lại có một bài do người khác gửi đến, và được đăng. Số là một buổi sáng kia, tiếng động nơi cửa. Miếng sắt chận kéo trịch một bên. Khuôn mặt của một thám tử liếc vào như thường lệ. Rồi một tiếng độp vang trong phòng, nối theo lời: “Ðọc rồi thủ tiêu.” Tôi lật đật lượm cái vỏ hộp quẹt, mở ra, thấy một mảnh giấy xếp. Thì ra là một bài thơ bốn câu khoán thủ như sau:

Thương người tình nghĩa nặng (h)oằn vai

Hồ hải tang bồng cả chí trai

Hữu chỉ vô phần thân phải lụy

Tường cao ngăn đón bực anh tài

Tất nhiên bài thơ bốn câu này được đăng ngay vào mục văn uyển. Nhưng vị chủ nhiệm kiêm chủ bút của tờ Thiên Thu thắc mắc. Tác giả của nó là ai?
Một giờ sau anh lính mật thám trở lại, giỏ miệng hỏi:

-Thủ tiêu chưa?
-Ðọc xong, tôi nhai nát, ném xác giấy và cái vỏ hộp quẹt vào lỗ cầu tiêu rồi. Thơ này của ai vậy?
-Muốn biết, tối nay đúng tám giờ, hễ nghe tiếng nước chảy ào ào, thì leo lên, ghé mắt vào lỗ sắt mà dòm.
Rồi miếng sắt kéo đóng lại. Từ chín giờ sáng cho đến tám giờ tối, chỉ có mười một giờ, mà tôi tính dài như mười một cái thiên thu. Vì nóng biết ai gửi thơ “Thương Hồ Hữu Tường” này?
Chuông nhà thờ đổ tám giờ. Vài phút sau, tiếng nước chảy ào ào. Tôi bám chơn lên bục, nhìn vào lỗ sắt. Cách khoảng một cái sân xi măng, thì có một cái mái tôn, đèn đốt sáng trưng, dưới những giọt nước của một gương sen chảy xối xả như mưa to một thiếu phụ đương tắm. Tôi không biết là ai. Chỉ biết là nàng rất đẹp. Tôi nghi là một người phụ nữ đang bị giam trong bót lâu lâu, được đi tắm một lần. Mà tôi cũng nghi là một nữ thơ ký của Sở Mật Thám, hay một người đàn bà con gái nào trong sở này có tật tắm tối, nên anh thám tử hại cho tôi xem một bữa cho thấy là mình khổ. Bao nhiêu nghi vấn làm cho đêm ấy tôi trằn trọc. Mà trằn trọc có phải chỉ do nghi vấn mà có chăng?

Hôm sau, báo Thiên Thu có một bài “phóng sự” về cảnh “tắm đêm trong bót,” không có chút tưởng tượng xen vào. Và nơi mục văn uyển, có bài “trích lục cổ văn” như sau:

Dưới trăng, quyên đã gọi hè
Ðầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông
Buồng the phải buổi thong dong
Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa
Rõ màu trong ngọc trắng ngà
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.

Nhờ mỗi ngày lo xuất bản một số báo Thiên Thu, mà lật bật tới Ba Mươi Tết. Ngày ấy, tôi bị đưa về Khám Lớn, bốn tháng sau đưa ra tòa. Ðến Khám Lớn, ở chung chạ với anh em, cả ngày có chuyện để lo, nên tờ Thiên Thu đình bản.

Tương lai văn hóa Việt Nam

clip_image014

Một trong những cuốn sách được nhiều người chú ý nhất của Hồ Hữu Tường là cuốn Tương Lai Văn Hóa Việt Nam, một tập sách mỏng, viết năm 1946 tại Hà Nội. Dưới đây Thế Kỷ 21 (số 170 June 2003) xin trích đăng một số đoạn của cuốn sách ấy để giới thiệu cùng bạn đọc.

Tiếng gọi đàn

Tôi muốn cất tiếng mà kêu to. Kêu thực to để ai nấy cùng nghe. Tôi muốn có một giọng tha thiết. Thực tha thiết để ai nấy cùng cảm. Tôi muốn có những luận điệu đanh thép. Thực đanh thép để ai nấy cùng tin. Nghe, cảm, tin… để cùng tôi đem một cái vinh quang chưa hề có trên quả địa cầu về cho dân tộc ta, dân tộc Việt.

Đây là một gia đình nghèo nàn, khốn khổ. Mẹ bệnh la liệt, không tiền chạy thuốc. Gạo trong vò hết sạch. Em nhịn đói không nỗi kêu khóc vang tai. Tất cả anh, chị, em đều đuối sức, mệt hơi vì thời buổi làm ăn vất vả… Ngẫu nhiên, một đứa con trong gia đình này gặp ở giữa rừng một khối vàng to. Khối vàng quá to, thừa sức cung cấp để chạy thuốc cho mẹ, mua gạo nuôi cả nhà, trang trải các mối nợ và làm cho gia đình trở nên mấy ngàn lần triệu phú. Khối vàng quá to, nên sức mình ôm về, hay lăn về không nổi. Rồi hối hả, đứa con ấy chạy đi kêu anh, chị, em lên “tiếng gọi đàn,” để vào rừng cùng đem khối vàng về. Đem khối vàng về, có thể giải quyết tất cả sự khốn nạn của gia đình và có thể làm cho từ đây trở nên giàu sang không ai bì kịp.

Trong lòng của đứa con ấy, ồ ạt những nỗi vui mừng, sung sướng. Say mê, nó sống trước những khoái lạc. Khoái lạc vì thấy sắp cởi thoát được bao nhiêu cung cực đè nặng trĩu tự bao giờ. Khoái lạc vì đượm nhuần cái bầu không khí huy hoàng tráng lệ của một tương lai mà những chuyện thần tiên cũng chưa tả nổi.

Trong lòng của đứa con ấy, nhộn nhịp những sự tính toán, suy nghĩ. Khối vàng quá to, thì làm sao mà đem về? Để nguyên khối, rồi anh, chị, em ráng sức cùng lăn một lượt chăng? Hay là dùng đòn mà xéo, mà bắn nó đi tới? Hay là chia nó ra từng khối nhỏ lần lượt mà đem về ?

Trong lòng của đứa con ấy, bận rộn những mối lo âu: Khi về gọi đàn, phỏng có kẻ khác gặp khối vàng của mình chăng? Nếu họ có gặp, liệu tự họ có thể đem về một mình không? Hay là họ cũng phải như mình mà trở về gọi đàn, rồi trong khoảng thời giờ ấy, anh, chị, em mình đến kịp mà đem vàng về chăng? Hay là phải giành với họ, và nếu không đem cả khối về, thì cũng được lấy một phần. Một phần mà cũng đủ tạo ra cái hạnh phúc và vinh quang đã mộng thấy chăng?

Trong lòng của đứa con ấy, dồn dập những luồng thổn thức, e ngại. Làm sao mà có được những lý lẽ đanh thép để cho anh, chị, em tin? Cảm hóa, tin rằng mình đây không phải là điên rồ, không phải là mê mộng, lại sáng suốt mà báo tin mừng cho gia đình và lên tiếng gọi đàn, để cùng nhau chung sức, nắm ngay lấy hạnh phúc và vinh quang.

Nếu tôi là văn sĩ, tôi sẽ hổ thẹn vì phải dài dòng kể lể các hình ảnh tượng trưng ở trên. Nhưng tôi không phải là văn sĩ. Tôi không muốn cho người ta khen mến một vài nét chấm phá có tài hoa. Tôi chỉ tha thiết muốn cho ai ai cũng cảm thấy sự vui mừng, sung sướng, những sự tính toán, suy nghĩ, những nỗi lo âu, những điều thổn thức kia. Để rồi tôi mượn tình trạng ấy mà diễn tả tâm hồn của tôi trong lúc này. Thế mà tôi vẫn tiếc. Tiếc sao không đủ tài, đủ lời để tả cái tâm trạng ấy cho linh hoạt. Tiếc rằng, dù tả cái tâm trạng ấy cho linh hoạt đến bực nào, cũng khó thể làm cho người ta lĩnh hội được bao nhiêu ồ ạt trong lòng tôi.

Bởi vì sự nghèo nàn túng bấn của gia đình kia, đem so với những khốn nạn của dân tộc Việt, thì nào có ra cái gì? Bởi vì món nợ to mà nó phải trả, đem so sánh với món nợ mà dân tộc Việt phải trả với lịch sử nhân loại, thì nào có ra gì? Bởi vì khối vàng của đứa con kia tìm đuợc, đem cân với cái tôi thấy có thể đem hạnh phúc và vinh quang cho dân tộc Việt thì giá trị có bao nhiêu?

Nhưng mà tôi biết. Tiếng gọi đàn của đứa con kia còn có thể làm cho anh, chị, em của nó cảm, hóa, tin theo được. Còn tiếng gọi đàn của tôi dù có thét to đến bực nào, dù có một giọng tha thiết như thế nào, dù có những luận điệu đanh thép cho cách nào, tiếng gọi đàn của tôi cũng sẽ là tiếng kêu trong sa mạc. Tung lên trời, nó chạy thẳng, đuổi theo cái vô biên, không một tiếng vang, không lời đáp lại … Mà lòng thổn thức, không thể nào dằn. Phải cất giong to mà lên tiếng gọi đàn. Ấy là để cổi lòng nếu không đem lại tất cả những kết quả của tôí trông thấy.

Ngài không làm như lời tôi bày vẽ, thì ngài hãy tin giùm. Ngài không tin theo lời tôi bầy vẽ, thì ngài hãy cảm giùm. Ngài không cảm vì lời tôi bày vẽ, thì ngài hãy nghe giùm. Nghe cho nốt tiếng gọi đàn của tôi, để giúp cho tôi khỏi cái đau khổ của một kẻ phải thét to trong sa mạc.

Nhắn bạn…

Bạn đã lên đường. Bạn đi dự hội nghị Văn hóa toàn quốc. Bạn là Nguyễn. Bạn là Lê. Bạn là Lý. Bạn là Trần. Bạn là Đinh. Bạn là… một nhà văn hóa Việt Nam. Bạn là “anh” mà bạn cũng là “chị” nữa. Ủy ban vận động hội nghị đã vạch rõ sứ mạng lớn lao của bạn.

Này:

“Cuộc phấn đấu giải phóng dân tộc của chúng ta đang bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn giành độc lập hoàn toàn trên lập trường chính trị, kinh tế, văn hóa nhiều hơn là bằng võ lực, tuy rằng việc chuẩn bị võ lực không phút nào chúng ta xao lãng.”

Bạn tham gia vào công việc của hội nghị. Bạn say sưa với sứ mạng, cảm động vì thấy dân tộc sở cậy vào bạn, sung sướng vì lần thứ nhất bạn được trình bày tài ba riêng tư và hoài bão thầm kín của bạn, với một hi vọng nồng nàn rằng mộng bạn sắp được thực hiện! Bấy lâu, tinh thần thượng võ chỉ ca tụng những đấpng anh hùng sống dưới lằn tên mũi đạn, chết da ngựa bọc thây, lấy xương máu xây đắp vinh quang cho dân tộc. Bạn là nhà văn hóa. Bạn sống trong cảnh yên tịnh, bạn chết giữa thân thuộc vợ con, bạn chỉ đem cái văn hóa vô hình mà gom góp vào việc xây dựng xã hội. Trong những lúc ai nấy góp phần xương máu để xây dựng một tương lai khoáng đãng và rực rỡ, bạn muốn đem một cái mà, riêng bạn, bạn cho là cao quí hơn, có công hiệu hơn, để góp phần; cái ấy là trí óc của bạn, mà hiện thân là văn hóa. Điều này, chỉ có riêng bạn biết. Khổ nỗi! “Người ta” phỏng có chê bạn hèn nhát, không dám đem xương máu mà góp phần, lại bày đặt đem một cái vô hình là văn hóa mà thay thế vào chăng? Càng khó hơn nữa là “Người ta” ấy, chính là lương tâm của bạn! … Nay trong giai đoạn mới này, văn hóa của bạn được lãnh một sử mạng lớn lao, ngang hàng với chính trị và kinh tế. Chắc bạn đã khỏi phải phập phồng, e ngại như hồi xưa! Không còn băn khoăn riêng tây ở cõi lòng, bạn sẽ tham gia vào công việc của hội nghị với tát cả tâm lực.

Tôi không phải là một nhà văn hóa.

Vì lẽ ấy tôi cảm thấy Văn hóa có một cái gì thiêng liêng, có một sự sáng suốt toàn trị, có một sức lực toàn năng như Thượng Đế. Hơn nữa, Thượng Đế chỉ là một vật sáng tạo của những văn hóa cũ xưa, thì tôi tin rằng Văn hóa tương lai sẽ đến bực thiêng liêng, toàn tri và toàn năng! Phỏng có ai cắt nghĩa cho rằng tôi lầm, tôi sẽ không nghe. Tôi sẽ tin mãi nơi Văn hóa… cho đến chừng thành một nhà văn hóa, đạt đến tuyệt đỉnh của Văn hóa, xem đã cùng, đã khắp, đã thấu, đã triệt những đại thể, chi li và khả năng của Văn hóa, tôi lại phải đến kết luận rằng Văn hóa không có gì là thiêng liêng cả. Chừng đó tôi sẽ thay đổi tin tưởng của tôi. Nhưng bây giờ, tôi chưa phải là một nhà Văn hóa. Thì hãy để cho tôi tin vậy.

Đuổi theo một mục đích thực tiễn, bạn thấy “nghề văn hóa” nuôi sống bạn rất khỏe thân hơn là nghề cầm cầy, nghề phu mỏ. Bạn chọn một ngành hoạt động văn hóa nào đó làm sinh kế. Tôi nào có trách chi bạn về việc gán cho Văn hóa một giá trị quá ư thực tiễn. Tôi chỉ nhắm vào giá trị tinh thần của sự hoạt động của bạn. Tôi chỉ kể tính cách tu dưỡng của sự hoạt động ấy. Hễ thấy loài người được rèn, luyện, uốn, nắn, hun đúc, cho ngày càng tốt đẹp cao quí hơn nhờ cái “nghề văn hóa” thì tôi đã cảm thấy cái giá trị thiêng liêng của Văn hóa rồi. Tôi sẽ thay lời cho tất cả những kẻ như tôi mà cám ơn bạn, đinh ninh với nhau rằng: những sung sướng vật chất, hãy để cho nhà văn hóa riêng hưởng, còn cái Văn hóa tự thân, thì chúng ta, nhân loại đây, chúng ta hãy giành hưởng lấy tinh hoa!

Đuổi theo những hương vị riêng của thuật hành lạc, bạn thấy “chơi văn hóa” thích ý bạn hơn là uống rượu, hút thuốc phiên, đánh bạc. Bạn chọn một ngành văn hóa nào đó làm tháp ngà để riêng sống một đời thú vị. Tôi nào có trách chi bạn về việc gán cho Văn hóa một tính cách quá ư vị kỷ. Tôi chỉ nhắm vào giá trị nhân bản của sự hành lạc ấy. Hễ thấy loài người được rèn, luyện, uốn, nắn, hun đúc cho ngày càng tốt đẹp, cao quí hơn nhờ cái “chơi văn hóa” thì tôi đã cảm thấy cái giá trị thiêng liêng của văn hóa rồi. Tôi sẽ thay lời cho tất cả những kẻ như tôi mà cám ơn bạn, đinh ninh với nhau rằng: những vui thú ở tâm hồn, hãy để cho nhà văn hóa riêng hưởng, còn cái Văn hóa tự thân, thì chúng ta, nhân loại đây chúng ta hãy giành hưởng lấy tinh hoa!

Đuổi theo những phương tiện quảng cáo và tuyên truyền, bạn thấy ngón văn hóa khéo léo, hiệu quả hơn những phương tiện khác. Bạn chọn một ngành văn hóa nào đó làm phương tiện để theo đuổi một mục đích chính trị, kinh tế, quân sự. Tôi nào có trách chi bạn về việc lợi dụng Văn hóa để bước sang qua một địa hạt khác. Tôi chỉ kể năng lực tiềm ẩn của sự vận dụng tâm hồn quần chúng. Hễ thấy loài người được rèn, luyện, uốn, nắn, hun đúc cho ngày càng tết đẹp, cao quí hơn nhờ cái “ngón văn hóa,” thì tôi cảm thấy giá trị thiêng liêng của Văn hóa rồi. Tôi sẽ thay lời cho tất cả những kẻ như tôi mà cám ơn bạn.

Bạn là anh?

Bạn là chi?

Bạn là già?

Bạn là trẻ?

Bạn là ở tầng lớp xã hội nào đó, giai cấp nào đó, bạn co học lực nào đó, có sự nghiệp danh vọng nào đó.

Tôi nào có nghĩ đến những điều ấy bao glờ. Nhà văn hóa của tôi là kẻ gắng sức một cách thường xuyên để rèn, luyện, uốn nắn, hun, đúc loài người cho ngày càng tốt đẹp, cao quí hơn.

Bạn có cố gắng như thế, bất cứ ở một địa hạt nào, hoặc cải tạo hoàn cảnh sinh sống, hoặc cải tạo điều kiện xã hội, hoặc cải tạo thân thể, lý trí, tam hồn của loài người, mục đích tu dưỡng, bạn đạt bằng đường lối cá nhân hay đường lối tập thể, ý nghĩ cao quý, bạn đeo đuổi bằng ý thức hệ nầy, hay bằng ý thức hệ khác… bạn có cố gắng “người” trở nên NGƯỜI, bạn là nhà Văn hóa của tôi vậy.

Mà nếu là như thế, tất cả những ai không buông mình thả trôi theo cái chiều của sự sống lười biếng, trái lại cố gắng vận dụng tinh thần để đeo đuổi mục đích “người” trở nên NGƯỜI, tất cả những kẻ ấy đều nuôi nấng một tinh thần Văn hóa.

Thú thực với bạn,

Tôi vẫn hoài bão tinh thần nhân bản ấy.

Tôi vẫn muốn rèn, luyện, uốn, nắn, hun, đúc tôi, cho tôi ngày nay đẹp hơn ngây hôm qua, cho tôi ngày mai càng đẹp hơn tôi ngày nay, để rồi bây giờ tôi là “người” dần dần đuổi theo người, cái người ngày càng to lớn, đẹp đẽ, phát triển với thời gian. Tôi chưa ghi được một thành tích gì trong phong trào văn hóa, song lòng ham muốn tha thiết, tôi vẫn có thừa. Phỏng tôi bất tài không đủ sức lượm được kết quả gì, bạn có cho tôi nhập vào đại gia đình Văn hóa chăng?

Cao vọng ấy ngày nay tôi chưa đặt ra. Nhưng tôi xin bạn một điều: bạn hãy nghe những lời băn khoăn, những đòi hỏi tha thiết của một kẻ yêu mến Văn hóa và hãy nghe cuồng mộng của một kẻ, vì không phải là nhà Văn hóa Việt Nam.

Tây phương khoa học

 

Bạn là một nhà “văn hóa” Tây phương. Bạn là một nhà triết học. Bạn là một nhà khoa học. Bạn theo một thuyết nào đó. Bạn hoạt động theo một ngành văn hóa nào đó.

Bạn cảm thấy sức mạnh của Tây phương. Tôi không nói bạn mê say sức mạnh của tàu bay, tàu lặn, của đại bác, của bom… Không đâu! Bạn thấy văn chương cổ điển có cái gì phổ biến, văn chương lãng mạn có cái gì say sưa, ồ ạt. Bạn thấy nghệ thuật có cái gì sâu sắc, đậm đà, ủy mị. Bạn thấy triết học có cái gì uyển chuyển, tinh tế. Mà nhất là khoa học. Khoa học, cái quí báu độc nhất vô nhị của Tây phương!

Hiện nay, bạn thấy Tây phương đắc thắng, chiếm vị trí tối thượng, hãnh diện với thế giới. Về quân sự, về kinh tế, về chính trị, Tây phương là tất cả. Bạn cho Tây phương là cái gương duy nhất, rồi bạn toan nêu cái “văn hóa” Tây phương làm Văn hóa Việt Nam.

Tôi van bạn. Tôi ước mong bạn xây đắp riêng cho Việt Nam một nền Văn hóa rực rỡ, để trình trước Đại Hội đồng nhân loại làm sự nghiệp của mình.

Sao bạn nỡ vô tình, bảo tôi cúi đầu dưới “văn hóa” Tây phương? Sao bạn còn ác ý, bảo tôi đem cái văn hóa Tây phương mà cổ võ gọi là của mình?

Không đâu! Tôi không chịu đâu! Đã tủi nhục về mặt quân sự, đã thiệt thòi về mặt kinh tế, đã khổ sở về mặt chính trị tôi còn lòng nào đem tâm hồn mà rèn luyện, uốn nắn, hun đúc theo khuôn mẫu của nó.

Tôi đã như thế.

Mà dân tộc Việt có lẽ cũng như thế. Một nghìn năm bị Tàu đô hộ mà còn không bị đồng hóa, nay lại hăm hở đồng hóa với Tây phương sao?

***

Bạn thấy văn chương Tây phương đáng yêu?

Thì bạn cứ yêu!

Bạn thấy nghệ thuật Tây phương đáng thích?

Thì bạn cứ thích!

Bạn thấy triết học Tây phương đáng quí?

Thì bạn cứ quí!

Bạn thấy khoa học Tây phương đáng dùng?

Thì bạn cứ dùng!

Nhưng văn chương, nghệ thuật, triết học, khoa học của Tây phương là khác. Mà “văn hóa” Tây phương là khác. Bạn hãy phân biệt.

Tây phương không có Văn hóa. Tây phương chỉ có Quái hóa. Chính cái Quái hóa này chế ngự tâm hồn Tây phương, nó rèn luyện, uốn nắn, hun đúc con người ngày càng lánh xa nhân bản.

Văn chương tốt là đẹp, là đáng yêu. Cái Quái hóa này lại chi phối lấy, hướng dẫn lấy, làm một cái lợi khí ru ngủ, lường gạt để đặt lên đầu cổ loài người áp bức, đè nén, bóc lột.

Nghệ thuật vốn là khéo, là đáng thích. Cái Quái hóa này lại chi phối lấy, hướng dẫn lấy, làm một phương tiện mê ngủ, lường gạt để đặt lên đầu cổ loài người sự áp bức, đè nén, bóc lột. Đến những tư tưởng đẹp đẽ như tự do, bình đẳng, bác ái, cái Quái hóa này cũng đổi làm khí giới chinh phục.

Cái Quái hóa ấy rèn luyện, uốn nắn, hun đúc người Tây phương xảo trá, quỉ quyệt, nham hiểm vô cùng, làm cho họ không đeo đuổi mục đích phụng sự loài người, không theo nhân đạo, không lấy nguồn gốc ở nhân bản.

Ở thế kỷ XVI, đã có người thấy cái trạng thái ấy, giật mình mà cả tiếng kêu: “Khoa học mà không lương tâm chỉ tổ làm tiêu hủy tâm hồn.” Nhưng mà cái Quái hóa ấy đã thúc giục mãnh liệt hơn lời gọi kia. Quái hóa ấy nô lệ hóa khoa học nốt.

Quái hóa ấy đã xui khoa học chế ra đại bác, chiến xa, tàu chiến, phi cơ, hơi ngạt, vi trùng, bom nguyên tử, để giết người, để chinh phục kẻ yếu, để đè nén áp bức, dày xéo chúng ta.

Thỉnh thoảng, một hai cá nhân tự nhiên xướng một hai học thuyết cao siêu, một hai chủ nghĩa hùng vĩ. Nhưng không lâu, học thuyết ấy, chủ nghĩa ấy bị Quái hóa biến thành phương tiện ru ngủ và chinh phục.

Thỉnh thoảng, một hai nhóm quần chúng tự nhiên vùng vẫy nổi lên cách mạng. Nhưng không lâu, phong trào cách mạng ấy bị Quái hóa biến thành phương tiện để lập một bộ máy đè nén, áp bức và chinh phục.

Quái hóa ấy điều khiển, chế ngự, làm cho tình vi tất cả các ngành Văn hóa để đi ngược lại mục đích của Văn hóa.

Cũng đồng rèn luyện, uốn nắn, hun đúc loài người. Nhưng Văn hóa đuổi theo cái mục đích làm cho “người” trở nên NGƯỜI. Còn Quái hóa đuổi theo mục đích trái lại, làm cho người trở nên nô lệ.

Nô lệ tất cả. Người hèn yếu bị làm nô lệ cho kẻ giàu mạnh. Kẻ giàu mạnh bị làm nô lệ của tiền bạc. Tiền bạc bị làm nô lê của một lực lượng huyền bí, vô hình… của Quái hóa.

Tinh túy của Tây phương là rèn luyện, uốn nắn, hun đúc tất cả cái gì cũng thành phương tiện, bất cứ phương tiện nào cũng trở nên tinh xảo, để cho Quái hóa sai khiến, lợi dụng.

Văn chương, nghệ thuật, triết học, khoa học … tất cả đều là phương tiện. Thử cho Tây phương một cái văn hóa nào đó xem! Chẳng bao lâu, cái văn hóa ấy bị đổi thành phương tiện nốt.

Bạn hãy kiểm điểm lại xem. Có tư tưởng, học thuyết, chủ nghĩa nào không bị đổi làm phương tiện, không bị lợi dụng đâu?

Bạn cãi với tôi. Bạn nói rằng đó là thời cũ, người cũ, văn chương cũ. Bạn nói rằng thời mới, người mới, văn hóa mới, sẽ không còn trạng thái ấp nữa. Tôi cũng ráng tin theo bạn vậy.

Nhưng mà ít nữa cái Quái hóa phải bị tiêu diệt. Nó không còn chế ngự, hướng dẫn văn chương, nghệ thuật, triết học, khoa học. Tây phương không còn theo đuổi mục đích chính phục, đè nén, áp bức, bóc lột. Tây phương phải đi ngược dòng lại.

Người Tây phương theo đuổi tha thiết, cái mục đích rèn luyện, uốn nắn, hun đúc, cho người ngày càng tốt đẹp, cao quí hơn, cho “ngưòi” trở nên NGƯỜI.

Tây phương phải có Văn hóa.

Và cái văn hóa ấy chúng ta đây, dân tộc Việt chúng ta hãy xây đắp để cung cấp cho Tây phương, cho Đông phương: cho tất cả nhân loại.

Này bạn!

Ở Hội nghị Văn hóa toàn quốc, bạn có thể nêu lên khẩu hiệu: thu nạp các phương tiện của Tây phương. Trong văn chương cua Tây phương, bạn có thế chọn lọc những tinh hoa, những nguồn cảm hứng, nhũng thuật diễn tả để cung cấp cho văn chương Việt Nam. Trong nghệ thuật của Tây phương, bạn có thể chọn lọc những ưu điểm, những đề tài, những ngón tinh xảo để bồi bổ cho nghệ thuật Việt Nam. Trong triết học Tây phương, bạn có thể chọn lọc những siêu việt, những phương pháp, những tư biện, để gây dựng một nền triết học Việt Nam. Trong khoa học, nhất là trong khoa học, bạn có thể chọn lọc những thành tích, những nền nếp, những tinh thần để kết cấu một tòa khoa học Việt Nam.

Chọn lọc, chọn lọc!

Nhưng bạn phỏng theo cây thước đo nào mà chọn lọc?

Nhưng bạn phỏng theo tâm hồn nào mà chọn lọc?

Nhưng bạn phỏng theo mục đích nào mà chọn lọc?

Tất cả cái gì của Tây phương đã khoa học hóa, kỹ thuật hóa, nghĩa là đã thành những phương tiện. Bạn chọn ở Tây phương cái gì không phải là phương tiện để phỏng theo!

Không có cái gì không phải là phương tiện cả!

Bạn chỉ còn có một con đường. Ấy là phỏng theo Văn hóa, cái làm cho “ngươi” trở nên ngươi Bạn hãy tạo ra vậy!

Bạn hãy tạo ra để làm ý nghĩa sống cho dân tộc Việt, để làm vinh quang cho dân tộc Việt.. . Và tôi mượn nó hãnh diện cho tôi vậy!

(Trích từ tập Tương Lai Văn Hóa Việt Nam,
Huệ Minh xuất bản, in lần thứ ba, Saigon 1965.)

clip_image015

***

 

Phụ đính:

 

clip_image016

Trầm tư của một tên tội tử hình

 

Ngày 29 tháng 8 năm 1957, tôi bị Toà án Quân sự Sài Gòn lên án tử hình. Tôi có ký tên xin phá án, mà lòng không tin sẽ được, lại đã tự hẹn nếu không được phá án, thì âu để bị hành quyết cho rồi một đời, mà tôi muốn chấm dứt một cách khéo hơn là để bị giết mờ ám, nơi một chốn hẻo lánh nào đó, rồi tên tuổi thêm trầm luân trong một cái biển phỉ báng vô biên. Song lẽ, sự tự hẹn ấy được bè bạn ở nước ngoài hay được. Nên chi, sau ngày bác đơn xin phá án, ngày 31 tháng Chạp năm ấy, ông A. Camus, thay mặt cho bè bạn nói tiếng Pháp, bà R. Fischer, thay mặt cho bè bạn nói tiếng Anh, ông Nguyễn Ngọc Bích, thay mặt cho người Việt ở hải ngoại, đánh điện cho tôi, ân cần khuyên tôi nên ký tên xin ân xá để cho họ tiện bề vận động xin phóng thích cho tôi. Nể tình họ, tôi đã ký tên. Gần năm năm đã qua, mặc dầu các bè bạn này không ngớt kêu gào, tôi vẫn đội trên đầu bản án tử hình, và trong mấy năm này, trước khi đi ngủ, đêm nào tôi cũng tự hỏi: “Ngày mai phải chăng là mình phải đứng trước toán lính hành quyết?” Sống trong tâm trạng phập phồng nọ, những trầm tư của một tên tội tử hình, bị tử thần uốn nắn chiều hướng rất nhiều, chẳng khác nào tia sáng bị chạy gần một khối thu hút khổng lồ vậy. Phương chi, tôi còn mắc một cơn bệnh trầm kha, kéo dài từ tháng 4 năm 1959 đến tháng 9 năm 1961, mà đến nay, tháng 6 năm 1962, thời hồi xuân vẫn chưa dứt. Trong điều kiện ấy, những trang sau này phỏng có giá trị nào chăng?
Tuy vậy, tôi không ngại ngùng mà đăng chúng nó ra, trước để làm một bức thơ cảm ơn chung cho những ai, rải rác trong bốn phương trời, hoặc danh tiếng lẫy lừng như A. Camus hay Nehru, hoặc tên tuổi còn trong bóng như sinh viên và học sinh, sau để đặt một vấn đề mà tôi tin rằng là vấn đề trọng đại hơn hết của nửa thế kỷ sau của thế kỷ hai mươi. Tôi muốn nói đến sự đại nhất thống tôn giáo, triết học, khoa học và chánh trị.
Hơn hai ngàn năm trăm năm trước đây, khi khoa học chưa phát sanh và sự hiểu biết của loài người chỉ còn thô sơ, khi chánh trị còn là cái luân lý của các tiểu quốc vương đối với nhau và đối với thần dân, đã có người, tôi muốn nói đến Thích Ca Mâu Ni, đem tôn giáo và triết học mà thống nhất lại, thành ra Phật pháp còn truyền đến bây giờ. Hơn trăm năm trước đây, Marx đem triết học của nước Đức thời ấy, dung hoà với kinh tế học của Anh và xã hội chủ nghĩa của nước Pháp mà đắp nền cho một cái văn minh mới, văn minh chánh uỷ, hiện nay đang chi phối cả tỉ người. Rồi, do một sự ngẫu ngộ của lịch sử, sáu trăm triệu dân Trung Hoa, đương sùng bái đạo Phật đây, lại phải tôn thờ một lý tưởng mới, mà Thánh nhơn là Marx, Engels, Lénine, Staline và Mao Trạch Đông… Hai nguồn văn minh này, của đạo Phật và của chủ nghĩa cộng sản, cả hai đều có xu hướng xa thơ, sai khi gặp gỡ nhau trên đất Trung Hoa, sẽ ai thắng, ai bại, hay sẽ tổng hợp nhau thành ra một cái gì mới mẻ?
Về một mặt khác, khoa học, phát sanh ở Hy Lạp vài thế kỷ sau Phật pháp, từ đấy vạch một con đường càng lâu càng rộng thênh thang và ngày nay không biết biên giới nào cả. Vào những buổi đầu, nó còn phải tuỳ thuộc vào tôn giáo. Vài thế kỷ này, nó gỡ được cái ách ấy, nhưng lại bị trói vào những tuỳ thuộc mới của chánh trị. Nó sẽ cởi được những tuỳ thuộc mới này chăng, hay sẽ hạ mình làm cái máy cho kẻ mạnh thế vặn theo ý muốn? Vài mươi năm nay, Phật pháp vừa bỏ vòi bò qua các xứ Tây phương, Anh, Đức, Pháp, Mỹ, Úc… Đụng chạm với khoa học của các xứ này, tôn giáo ấy sẽ ra sao, hay cũng sẽ bị khoa học bài bác, cũng như các giáo điều khác, trước kia?
Nói đến sự đại nhất thống tôn giáo, triết học, khoa học và chánh trị, mà chỉ đề cập đến Phật pháp, ấy không phải là một sự thiên lệch. Các giáo điều khác không nhận chịu một sự sửa lại, vaincre ou périr 1. Hình như là giáo điều căn bản của các giáo điều. Đặt cái pháp của mình dưới sự dắt dẫn của trí tuệ. Phật pháp lấy sự sửa lại làm căn bản, và khi bảo rằng sau này Maitreya giáng thế làm vị Phật tương lai, để chỉnh lại cái pháp cũ, phải chăng là Thích Ca Mâu Ni dặn trước tín đồ mình nên dọn mình đón rước một cuộc sửa lại vĩ đại? Tôi bái phục cái tinh thần cải tiến canh tân ấy cũng như tôi bái phục điều mà trong khoa học, từ Copernic, Galilée, Képler, Newton và nhất là đầu thế kỷ XX, mỗi danh nhân đều đánh dấu cho một cuộc cách mạng trong tư tưởng. Cái tinh thần chung ấy phải chăng là miếng đất dung hoà Phật pháp và khoa học? Tôi tin rằng trong mấy năm gần đây sẽ có câu trả lời thoả đáng cho câu hỏi trên đây.
Một ngàn năm trăm năm trước Thích Ca Mâu Ni, triết học của Ấn Độ đã phồn thịnh lắm rồi và dọn đường cho sự thống nhất cái triết học ấy với sự hiểu biết, dưới dấu hiệu của trí tuệ, để thành Phật pháp. Cái triết học của Tây phương, lập ra từ thời Socrate, và bắt đầu phồn thịnh từ Bacon, sẽ nhờ một Maitreya mà thống nhất với khoa học, cũng dưới dấu hiệu của trí tuệ, ắt một tôn giáo mới ra đời, một tôn giáo không dựa vào tín ngưỡng và cuồng tín mà bắt nguồn nơi từ tâm, do trí tuệ soi sáng. Ba viên đá lớn, là tôn giáo, triết học và khoa học, đã nhờ trí tuệ mà xây liền với nhau được, thì cái mộng lớn kia, cái mộng đại nhất thống, gần thành vậy.
Chỉ còn viên đá chót: chánh trị. Từ muôn thuở, chánh trị thay đổi sát theo người làm và lịch sử đầy dẫy những cái xảy ra bất ngờ, cũng như những cái hiển nhiên tránh không nổi. Đầu thế kỷ này, có mấy ai đoán trước được sự trổi dậy của Á châu và Phi châu, cũng như những cố gắng đâu có thể ngăn nổi chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai nổ bùng ra? Và mặc dầu bắt nguồn nơi chung hệ thống của Marx, chánh trị của Lénine, của Trotsky, của Staline, của Khroutchev, của Mao Trạch Đông đâu có liên tục với nhau! Thuyết tiền định, thịnh hành ở phương Đông, phải chăng căn cứ nơi sự vô định của chánh trị? Và từ khi, trong sách Cộng hoà, Platon ước mong những hiền triết cầm quyền, hơn hai ngàn năm qua, trên khắp địa cầu, đã đếm được bao nhiêu người như thế ấy? Thế mà, lúc này hơn lúc nào cả, thế giới của chúng ta đòi hỏi những nhà cầm quyền hiền triết. Sự phân hoá thế giới thành hai khối tương phản nhau, cả đôi bên đều nắm những khí giới tàn sát rất kinh khủng, đang đe doạ nhân loại bằng sự phá hoại vô chừng, có thể kéo lùi lịch sử năm mươi thế kỷ là ít. Sự khôn ngoan của đôi bên liệu có thể ngăn nổi một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba chăng? Nhìn theo tầm mắt của cái mộng đại nhất thống, liệu chánh trị có chịu đem viên đá của mình mà xây chung, cùng với tôn giáo, triết học và khoa học, cái lầu đài của ngày mai soi sáng bởi trí tuệ chăng? Hay chánh trị vẫn kiêu căng, vẫn bắt tôn giáo, triết học và khoa học làm nô lệ cho mình, và vẫn chỉ nghe tiếng gọi của bản năng và nhiệt tình?
Trong năm năm, lúc bịnh cũng như lúc mạnh, đầu óc tôi bị mấy vấn đề ấy ám ảnh, tôi nghĩ cách viết ra mấy bài trầm tư này. Chính tôi lấy làm lạ hơn ai hết sao một tên tội tử hình, số phận đặt nằm bên cạnh cái chết, lại không nghĩ về cái chết, mà lại lo chuyện của người sống. Mà lo nghĩ về chuyện của người khác, không lúc nào lòng tôi được yên nghỉ, cho đến đỗi lắm khi, tôi tự ví là một damné 2. Đương đợi sự giải thoát của mình. Mà sự giải thoát này, tôi tin rằng khi đăng tập sách này để hỏi những ai suy nghĩ trong bốn phương trời, tôi sẽ đón rước được những lời chỉ giáo.
Côn Sơn, tháng Sáu năm 1962

***

 

Tái bút đúng ba năm sau
Khởi viết vào đầu tháng Sáu 1962, mỗi tháng được một bài, đến tháng Mười Hai năm ấy, tôi viết đến bài thứ năm. Nhưng tưởng có thể tiếp tục như vậy mãi, không dè cuối năm 1932, chúng tôi bị xét phòng.
Sách, mấy chục số Esprit của ông Domenach gởi cho, mấy chục số Preuves do bộ biên tập này tặng, ba bản thảo của ba bộ trường thiên tiểu thuyết đã viết xong, một quyển tự thuật, hai quyển tiểu luận, bị dồn vào một cần xé cất vào kho… để cúng dường cho bọn mối làm thực phẩm. Còn những cái viết lỡ dở, thì bị gom gởi lên ban quản đốc. Nhờ vậy mà, khi Ngô Đình Diệm bị hạ, mớ tài liệu này được trả lại. Những bài “Trầm tư”, nhờ vậy mà sống sót.
Gởi về nhà trước khi tôi bước chân ra khỏi Chí Hoà, tạp chí Bách Khoa lần lượt cho đăng ra. Tôi không hài lòng lắm. Những bài tôi viết, dựa vào mớ kiến thức tôi đã có năm 1954, vào tù có đọc chi thêm, chi cho khỏi là lỗi thời? Nay ông giám đốc nhà xuất bản Lá Bối ngỏ ý cho in ra thành tập, tôi càng không hài lòng hơn nữa.
Song nghĩ cho kỹ, tại sao có cái tự ái như vậy?
Công chúng muốn hiểu tâm trạng của một người tội tử hình, nằm trong bốn vách, chẳng biết chi xảy ra ngoài đời, bịnh hoạn liên miên, tử thần lảng vảng mãi bên cạnh. Thì thành thật cho công chúng hiểu.
Còn việc nói trúng hay trật, ai nỡ, mình là kẻ có đủ sách vở để học mỗi ngày, ai nỡ tranh hơn thua với một kẻ, chỉ có ký ức leo lét của tên tội tử hình ốm đau nhắc nhở?
Sài Gòn, tháng Sáu 1965

Trầm tư thứ nhứt – Cái nghiệp tiên thiên

Tôi sanh trưởng nơi một gia đình nông dân nghèo ở miền Hậu Giang. Cha tôi, mồ côi cha sớm từ mười hai tuổi đã phải đi ở đợ để nuôi thân và không được đi học. Nhờ tánh tình hiền hậu, ngay thẳng và siêng năng, ông được một nhà giàu gả cho đứa con nuôi, cho mướn ruộng và giúp vốn để cất nhà, làm mùa, rời thân phận ở đợ để trở nên một tá điền cho đến ngày lâm chung. Lúc ấy, cả hai đều không có học. Về mặt tư tưởng, cha tôi không theo đạo Phật, chẳng theo Lão giáo, mà cũng không biết Khổng giáo là gì, bình sanh rất ghét thầy chùa, thầy pháp, và chỉ biết thờ kính ông bà.
Làm mùa trúng luôn mấy năm, trong nhà dành dụm có dư chút đỉnh, cha tôi mới gởi anh cả tôi đến một ông đồ ở gần đó mà học chữ HÁN. Ngày thì đi làm ngoài đồng, tối lại quạt muỗi cho con học, ông học lóm được chữ Hán, chữ Nôm, đọc được truyện sách và bắt đầu giao thiệp rộng. Mỗi năm hễ hết mùa mưa, thì có ghe bầu từ những miền Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, chở những thổ sản ngoài ấy vào, thỉnh thoảng có một vài thầy thuốc bắc, một hai ông đó theo các ghe ấy vào mà đi tìm việc: đó là những mối giao du thích nhất của cha tôi. Tết năm 1910, lúc ấy tôi còn trong bụng mẹ, theo lời thuật lại, cha tôi giao thiệp được một người, không biết tên họ gì, mà thiên hạ sau này đều gọi là thầy Quảng, vì có giọng nói Quảng Nam đặc biệt. Không ai thấy ông này làm nghề gì, nhưng người ta đồn ông làm thợ mộc, rồi bởi ông giỏi bùa Lỗ Ban nên thiên hạ sợ ông ểm, mà không ai mướn cả. Ông say rượu cả ngày, ngồi trên một chiếc xuồng mà bơi đi hoài, ít ghé đâu cả. Thế mà ông thích ghé nhà tôi để thuyết đạo cho cha tôi. Ông thuyết cái gì? Sau này tôi chỉ nghe tóm tắt mà thôi. Thầy Quảng khuyên cha tôi nên theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương mà tin rằng Di Lặc sẽ giáng trần chỉnh lại pháp cũ, làm cho “minh đạo” sẽ tái sanh. Cha mẹ tôi bàn luận với nhau nhiều về sự này, nhưng rốt rồi không theo. Cha tôi đợi mãi đến năm 1930, vài chục tháng trước khi ông chết, mới thượng trần điều trên bàn thờ, để tỏ ra rằng bây giờ ông đã là tín đồ của đạo ấy. Nhưng đến lúc đó, toàn xứ Việt đếm không còn được vài ngàn tín đồ theo phái này.

***

Tôi lớn lên, đi học khoa học ở Âu châu, nhiễm thêm được một mớ chủ nghĩa Marx, về xứ rồi, thấy trần điều thượng lên bàn thờ, hỏi ra, mới biết nguồn căn của cái tôn giáo đã để hai mươi năm đặng thay đổi lòng của một nông dân thiếu học. Bây giờ đến phiên cha tôi đem những truyền thống mà ông và mẹ tôi đã nghe, lúc mà tôi chỉ là một cái thai vừa tượng, mà thuật lại cho tôi, đương đầy kiêu hãnh vì mớ khoa học và chủ nghĩa vừa nuốt được. Vì lòng kiêu hãnh của một tân đồ kia, tôi không chấp nhận lời truyền đạo ngay của người cha kính mến.
Hơn ba mươi năm đã qua. Nhiều sự thất bại trong cuộc vật lộn với đời làm cho tôi có nhiều kinh nghiệm hơn, và do đó, trở nên khiêm tốn. Vào nhà tù chuyến này, tôi lại chỉ thấy có một cửa ra: cái chết, vì mười hai viên đạn, hay vì bịnh, hoặc già. Càng gần cái chết, con người cần xét nét để ôn lại đời mình. Tôi mới thấy tôi đã vương lấy cái nghiệp của tôi, trước khi ra bụng mẹ: lúc ấy mẹ tôi đang nghe bàn đến sự sửa lại thường xuyên của đạo Phật mà tượng trưng là Maitreya, đức Phật đầu thai lại mãi để chỉnh lại cái pháp, nên chi bây giờ, mặc dầu tôi không phải là tín đồ của đạo Phật, tôi mãi lo âu về sự sửa lại ấy.
Tôi lo âu về sự này từ năm 1939, khi bắt đầu cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Hai, lúc ấy tôi cũng bắt đầu một kỳ tù năm năm. Năm ấy, tôi bắt đầu hoài nghi về mớ lý thuyết mà tôi đã học của Marx, và thấy rằng, ngày sau mà thế giới một nhà được, vai trò của luân lý và tôn giáo rất là hệ trọng. Trong năm năm ở tù, không có sách đọc, tôi cứ suy nghĩ mãi về sự tổng hợp chủ nghĩa xã hội và đạo Phật. Về mặt lý thuyết, sự tổng hợp ấy có thể làm được, nhưng về đường thực tế, trong hai cái đại gia đình, gia đình xã hội chủ nghĩa và gia đình Phật tử, chẳng có ai ươm thử việc này. Từ ấy, cái nghiệp nói trên càng quấn quít tâm hồn tôi. Nên chi tôi đặt cái trầm tư thứ nhất này dưới dấu hiệu của Maitreya, không phải bởi tôi tin rằng ngài sẽ đến bằng xương thịt, mà bởi tôn tán thưởng cái tượng trưng sự sửa lại.

° ° °

Với sự tấn triển của khoa học và nhất là của chủ nghĩa Marx, một tôn giáo nào, ở phương Đông hay ở phương Tây, mà muốn tồn tại, tất phải sửa lại giáo điều của mình. Đối với Phật pháp, sự sửa lại này gọi là chỉnh lại cái pháp. Và đạo Phật rất khoan dung đối với những sự chỉnh pháp như vậy. Năm trăm năm sau khi phát sanh, đạo Phật đã thay lốt một lần, do sự đụng chạm với các học phái Bà La Môn, mà phát xiển phần hình nhi thượng, mà sáng tạo lắm tượng trưng, đến đổi hoá ra hữu thần: ấy là buổi đầu của Phật giáo đại thặng. Cuối thế kỷ mười ba, dưới sự đô hộ của dân Mông Cổ, khắp nước Tàu tràn lan một chi phái mới, dưới tên là Bạch Liên giáo, truyền rằng Di Lặc giáng trần, để tổ chức tín đồ vào một giáo phái, nửa tôn giáo, nửa chánh trị Bạch Liên giáo này đã chủ động bao nhiêu cuộc khởi nghĩa làm rúng động cả nước Tàu, suốt mấy trăm năm, đến cuối thể kỷ mười tám mới dứt, mà dư ba hãy còn kéo dài đến cuối chiến tranh Quyền phỉ. Nay, trăm năm triệu tín đồ của Phật ở Trung Hoa lại lọt dưới sự chi phối của chủ nghĩa cộng sản, nếu không có một sự vươn mình thay lốt nào cả để tồn tại, thì chỉ còn một vài thế hệ thôi, đạo Phật sẽ rời bỏ xứ này. Còn lại gần trăm triệu người ở Nhật, gần trăm triệu người ở Đông Nam Á và các nơi: thì, ở đây, ngoài sự không an ninh về chánh trị, đạo Phật lại bị các tôn giáo khác và khoa học tấn công. Trong viễn đồ này, mấy năm chót của thế kỷ hai mươi hình như là những năm chót của đạo Phật trong thế giới. Muốn tồn tại, ở Tàu cũng như ở ngoài nước Tàu, đạo Phật cần phải chỉnh lại pháp mình.
Mà đạo Phật cùng các tôn giáo khác, cần phải tồn tại chăng? Nói một cách khác sự tiến bộ của loài người, về triết học, về khoa học và về chánh trị, đã đủ chưa để xây dựng một cái xã hội không cần đến tôn giáo và luân lý? Trả lời rằng đã đủ, ấy là một cái sự quá vội vã. Chánh trị chưa tìm tổ chức được một xã hội trong ấy chỉ cần luật pháp và quân đội để cai trị, mà chẳng nhờ đến luân lý và tôn giáo để đứa hoá đa số nhân dân. Khoa học chỉ khảo cứu được một phần các hiện tượng của vạn vật mà còn lưu lại vô số vấn đề đương đòi hỏi câu trả lời, mà triết học và khoa học chưa tìm được. Và lý lẽ quyết định hơn hết, là con người của thế kỷ hai mươi này vẫn còn những bản tính thô sơ, còn bị bản năng kích thích mạnh, còn bị nhiệt tình đốt nóng, thì còn cần có một cái văn mình mới để rèn luyện, uốn nắn, hun đúc cho ngày càng cao quí đẹp đẽ hơn, trong ít lắm là năm ba trăm năm. Tôi muốn nói đến cái văn minh tu sĩ. Thì đạo Phật, cũng như các tôn giáo khác, cần phải hoà mình vào các văn minh tu sĩ ấy, cho loài người dùng, chẳng khác nào những cái phao cho người tập lội ôm trong buổi đầu vậy.
Tuy các tôn giáo thảy cần tồn tại, để hoà mình vào cái văn minh tu sĩ ấy, song không phải cái nào cũng dễ trường tồn. Xét về bản chất của nó, đạo Phật có nhiều nội lực giúp cho nó vượt thời gian dài hơn hết, thế mà nó bị những yếu tố ngoại quan của lịch sử làm cho nó bị đe doạ nhiều hơn cả. Bị nguy cơ kế đó là Ấn giáo, bởi đạo này không chịu đựng nỗi một cuộc cách mạng chánh trị mà động cơ chính là thuyết bình đẳng. Kế đến là Hồi giáo ở Trung Đông và Bắc Phi. Trong viễn đồ Đông Tây cộng tồn, thì Kitô giáo được sự an ninh chánh trị đảm bảo cho vững vàng hơn hết. Song sự cộng tồn này kéo dài được bao lâu? Hay là rồi đây nhân loại phải dấn vào một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba? Mỗi lần có chiến tranh thế giới, là có những thay đổi vĩ đại. Trông gương chiến tranh thế giới thứ nhất: nó sanh đẻ ra cách mạng Nga làm cho gần một trăm năm mươi triệu tín đồ của Kitô giáo chánh thống lọt vào lưới của cộng sản. Trông gương Chiến tranh Thế giới thứ Hai: nó làm cho cả Trung Âu bị Hồng quân chiếm và nó sanh đẻ ra cách mạng Tàu, làm cho năm trăm triệu tín đồ của Phật giáo lọt vào lưới của chủ nghĩa Marx. Rồi ta thử nhìn cái cứu cánh của một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba, với khí giới nguyên tử và khinh khí, với khí giới hoá học và vi trùng và nhất là với khí giới lợi hại hơn tất cả là lý tưởng chiến tranh thế giới thứ ba, hơn cả thứ nhất và thứ hai, sẽ làm trúc đổ bao nhiêu đế quốc khổng lồ, làm tan nát lắm kiến trúc chánh trị cũng như tôn giáo, làm cho nhân loại trở lùi trên đường lịch sử năm ba trăm năm là ít. Nó sẽ là cái mạt pháp cho tất cả, chớ không phải riêng cho đại Phật, ở xứ thắng cũng như ở xứ bại, nối tiếp sự tàn phá và sợ hãi, là luồng gió bi quan, sau đó mới đến sự mong mỏi thuận lợi cho một tôn giáo bao trùm cả loài người.
Qua những đợi hãi hùng ấy, trong bốn tôn giáo lớn cũ, cái nào có thể thay lốt mấy lần, như con tằm từ trứng sang sâu, hoá nhộng để thành bướm bay đi được? Tôi không biết trong Ấn giáo, trong Hồi giáo, trong Kitô giáo có những lo âu như thế chăng? Riêng Phật giáo, với sự bá chiếm cộng sản của nước Tàu và sự không an ninh ở Đông Nam Á, thì vấn đề đã đặt ra hơn mười mấy năm nay rồi và đòi hỏi những giải quyết cấp bách. Thế mà tôi chưa nghe được một tiếng vang nào cả về một cái ướm thử chỉnh lại Phật pháp: năm 1959, tạp chí France-Asie, trong số đặc biệt về sự hiện diện của đạo Phật, mặc dầu có rất nhiều bài của các vị bác học và cao tăng, không có nói phớt qua đến vấn đề trọng đại này.
Tôi không phải là một nhà bác học hay một bực cao tăng. Nhưng, đứng trước sự bức bách này mà chẳng ai thốt lời nào, và bị cái nghiệp tiên thiên nói trên kia thúc đẩy, âu là tôi lên tiếng vậy.

***

Điều mà cần chỉnh lại hơn hết trong đại Phật, là xu hướng xuất thế. Trong Phật giáo tiểu thặng cũng như trong Phật giáo đại thặng, cái xu hướng này là của chung và Thích Ca Mâu Ni dạy người giải thoát cá nhân vào Niết Bàn, khi còn sống, cũng như sau khi tịch diệt. Có lẽ hồi thời của Phật, kinh tế còn là tự nhiên, con người ít bị đớn đau mỗi ngày vì sự bóc lột, chánh trị còn là đơn sơ, thần dân ít bị khổ sở vì sự thiếu tổ chức xã hội, nên chi nhìn nhận cái khổ, người thấy rõ chỉ có sanh, bịnh, lão, tử, không ưa mà hợp, ưa mà phải xa lìa, muốn mà không được, mất cái vinh lạc. Cái khổ này là cái khổ cá nhân, thì sự tìm giải thoát bằng phương pháp cá nhân là một việc giải thích được. Nhưng loài người càng tiến triển, liên hệ xã hội càng phức hoá, thì một cái khổ khác tràn lên, cái khổ tập thể bởi sự tiến triển này. Cái khổ tập thể này xảy ra thường xuyên, mà thỉnh thoảng dồn thành cơn ngặt nghèo là chiến tranh: là chiến tranh nội loạn và chiến tranh dân tộc, lần lần gom lại thành chiến tranh lý tưởng và chiến tranh thế giới. Đối với cái khổ mới và lớn này, nếu không có một lối diệt khổ thích đáng, thì quần chúng quên hẳn lối xuất thế của của đạo Phật, hay của bất cứ tôn giáo nào khác, nghe theo những khẩu hiệu tuyên truyền của các đảng phái chánh trị. Mà những người tu sĩ cũng không thể yên lòng được để nhập định.
Đối với một tối tiểu thiểu số, có thể duy trì cái xu hướng xuất thế, để an lòng họ trong khi họ bị vi trùng của bịnh hình nhi thượng đục khoét. Nhưng đối với tối đại đa số, cái pháp mới phải có một đại xu hướng xử thế. Làm thế nào để tránh chiến tranh và cách mạng? Nói một cách khác, tôn giáo phải đồng nhất với chánh trị. Sự đồng nhất này không thể quan niệm bằng cách lập những đảng chánh trị để bệnh vực cho những giáo điều sẵn có – cái mà ta thường thấy sau trận chiến tranh thế giới thứ hai – mà phải hiểu rằng đây là một sự cố gắng làm cho quần chúng đến một sự giải thoát đích thực, miễn cho loài người làm chánh trị cái trạng thái con tằm nhả tơ tự dệt cái ổ để nhốt mình vào. Chính cái xu hướng xuất thế xưa kia làm cho người ta lầm tưởng rằng đạo Phật dạy tín đồ nhẫn tùng, rồi cho rằng “tôn giáo là thuốc phiện của dân”. Maitreya của thời này phải đánh tan cái lầm ấy và đáp lại lời đòi hỏi của tín đồ Bạch Liên giáo suốt năm trăm năm, của tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương gần một trăm hai mươi năm, là lập thiên đàng trên cõi thế.

***

Đồng nhất với chánh trị để xử thế, không phải là tôn giáo chạy theo chánh trị để a dua theo kẻ có quyền thế và để ban phép lành cho họ. Kẻ làm chánh trị, hơn hẳn người thường, là những kẻ bản năng mạnh, nhiệt tình nồng, hay thiên về cực đoan, hay ngã về bạo lực. Để tránh những việc như đày hàng mấy chục triệu người vào trại giam, như đốt ngòi chiến tranh thế giới để củng cố địa vị cá nhân cha mình, thì không nên để cho sự ngẫu nhiên của tranh đấu, đưa kẻ tranh đấu lên dẫn đầu, mà phải tuyển trạch kẻ ấy trong hàng những người sáng suốt, bác ái và hiền lành hơn cả. Nếu không có cả một cái văn minh mới để rèn luyện, uốn nắn, hun đúc con người theo cái mẫu này, để rồi tuyến trạch những phần tử ưu tú hơn hết trong đó, đặng đưa lên làm người lãnh đạo, thì cái văn minh đương thịnh hành ngày nay, cái văn minh chánh uỷ, chỉ cung cấp cho ta những người cầm đầu bạo ngược và man trá.
Đồng nhất với chánh trị, cái tôn giáo đội lốt mới này mở màn cho cái văn minh mới ấy, gọi là văn minh tu sĩ. Từ ngàn xưa, hễ bắt đầu có tôn giáo, thì đã có người tu hành. Có lắm lúc, kẻ tu hành này lại nắm luôn quyền chánh trị. Nhưng, những hình thức đó chưa lập nên được cái văn minh tu sĩ. Nay là lúc phải nâng sự tu hành này lên bực văn minh để nó dìu dắt loài người, từ trạng thái ly tán từng dân tộc, từng giai cấp, đến cái thế giới đại đồng, điều mà chánh trị chỉ thấy thực hiện được bằng máu lửa của chiến tranh và cách mạng. Nếu mà cái văn minh tu sĩ này sớm xuất hiện được, hoạ may sẽ miễn cho nhân loại cuộc đại chiến thế giới thứ ba. Rủi mà chiến tranh thứ ba nổ ra trước rồi, thì quả địa cầu sẽ đầy dẫy tàn phá, tang tóc và căm hờn. Dẫu ai là chủ của mai sau, kẻ thống nhất được địa cầu bằng máu lửa sẽ chẳng hơn gì các Cásars xưa lập đế quốc La Mã lên để dọn cho Kitô giáo cũ: một văn minh tu sĩ sẽ rất cần để hàn vá những vết thương và dập tắt các căm hờn, để xây đắp sự thống nhất loài người trên những nền tảng vững chắc và vĩnh cửu hơn là quân đội và cảnh sát.
Từ mấy năm nay, nhiều nhà cách mạng cũ rời bỏ hàng ngũ của chủ nghĩa Marx, vì cái chánh trị của đảng này thiếu một cơ sở luân lý. Khroutchev, khi chỉ trích cái chánh trị của Staline, cũng đưa những lý lẽ thuộc nhơn luân. Kinh nghiệm của gần năm mươi năm cách mạng Nga chứng cho ta thấy rằng chánh trị mà buông lung, thì chẳng khác nào ngựa mạnh mà không cương, thêm bịt mắt, nó có thể đưa vào hố thẳm. Mà nếu không có một cái văn minh tu sĩ đặt những lignes de force3 cho kẻ làm chánh trị hướng theo, thì họ biết nghe vào đâu khác hơn là tiếng gọi của bản năng?
Kẻ chiến sĩ, người lãnh đạo đã cần có luân lý, thì đám quần chúng lại cần đến tôn giáo để biết đâu là nên, đâu là không, hầu xử sự. Những tôn giáo có giáo điều phản khoa học là những cái lần lần bị khoa học gạt bỏ. Nhưng những thị kiến của đạo Phật không trái với khoa học, thì đạo Phật có nội lực để trường tồn. Những học thuyết dựa vào sự “chúa sáng tạo” đụng chạm hẳn với thuyết duy vật vô thần, thì một bên thắng một bên tiêu đã đành. Mà thuyết vô thường vô ngã của đạo Phật có thể dung hoà với biện chứng pháp được.

***

Đồng nhất với chánh trị, vươn mình lên thành một cái văn minh mới, mà mỗi năm thêm lại bị một phát minh mới của khoa học kích bác, thì là một việc không thể dung thứ được. Đạo Phật xuất hiện trước khi khoa học phát sinh, nên thay vì một sự hiểu biết chính xác bằng vào thực nghiệm, chỉ có những thị kiến về vũ trụ, về vật lý, về sinh vật, về tâm lý. Đã đành rằng lắm thị kiến này thật là thiên tài và đến thế kỷ mười chín và hai mươi, sự hiểu biết của thời này nhận rằng Phật và các vị Bồ Tát đã thấy đúng. Nhưng không nên lấy đó mà bảo rằng giáo điều của Phật là hơn tất cả. Cái tương quan giữa Phật giáo và khoa học, cả hai đều căn cứ vào lý trí, không nên xây dựng trên sự dùng khoa học mà chứng minh tôn giáo, hoặc sự dùng tôn giáo mà thay thế cho khoa học.
Đạo Phật, và chỗ này nó khác hơn các tôn giáo khác, là một sự tu luyện, theo nghĩa tầm nguyên của danh từ này: tu là làm cho càng tốt đẹp thêm mãi, luyện là làm cho tinh ròng thêm mãi. Phật tử tu luyện để làm cho lý trí càng thuần thục hơn hầu đến cái giác. Nếu sự tu luyện ấy dùng để dự bị vấn đề, chuẩn bị các điều kiện, vạch lối trước bằng trực giác hay thị kiến cho các sự giải đáp các vấn đề này, thì tôn giáo sẽ là hướng đạo cho đại hội quân của khoa học. Chừng ấy Niết Bàn sẽ không còn là một cái chứa không có gì đựng ở trong và chỗ nhằm của các vị Bồ Tát, (tự giác nhi giác tha), mới đạt được. Trong hai mươi lăm thế kỷ đã qua, những thị kiến của đạo Phật đã làm khởi hứng cho văn chương và nghệ thuật của nhiều dân tộc ở Á châu. Nay, nếu làm khởi hứng được cho khoa học, những thị kiến của cái văn minh tu sĩ mới này sẽ làm cho văn minh này tràn lan khắp địa cầu, trở nên một cái chung của nhân loại.
Phần nào của những thị kiến này chứng minh bằng khoa học được, thì tài bồi cho miếng đất khoa học rộng lớn và phì nhiêu thêm, phần nào chưa thực nghiệm được, thì dùng trực giác để thẩm xét và phê phán. Như vậy các thị kiến mới này sẽ làm chất phân nuôi sống các loài câu triết học cho cành là sum sê, hoa quả vinh mậu. Chừng ấy cái gạch nối liền tôn giáo – triết học – khoa học – chánh trị sẽ thành được.

***

Nhưng chừng ấy, tôn giáo đó không còn là đạo Phật cũ xưa nữa. Sau mấy lần thay lốt đổi hình, nó không còn giữ vững nét dáng mà người ta thường thấy. Vậy, dưới cái sắc mới, ta hãy cho một cái danh mới, và gọi là minh đạo. Nhìn trong minh đạo, ta thấy có từ bi và bác ái, có công bình và thương người, có bình đẳng và tự do… tóm một lời là tất cả các cao vọng của các tôn giáo, kể cả xã hội chủ nghĩa hiện kim. Thế thì tuy bắt nguồn nơi đạo Phật, minh đạo phải tổng hợp tất cả các nền tảng luân lý của tất cả các tôn giáo, để xây đắp cái cơ sở chung cho việc xử thế: đạo đức.
Có nền tảng đạo đức vững chắc rồi, thì chánh trị mới hoàn về cái sửa trị, sửa đường vạy để đi theo đường chính, một con đường rộng thênh thang, lại được trí tuệ soi sáng tỏ, chớ không phải lối mê ly eo hẹp mà trong mù tối như từ xưa đến nay. Có cái chánh trị như thế mới tránh được hoạ dân tộc và giai cấp tương tranh, lập được cảnh thanh bình cho loài người. Như vậy, sẽ không còn là cái chánh trị cũ xưa, theo lối của Thương Ưởng ở phương Đông và Machiavel ở phương Tây; bởi vì, một khi đã được cảnh thanh bình, thì cần quyền xử thế không còn là những người đầy dục vọng, mà là những bậc hiền triết, vậy đâu còn cần những thuật man trá và bạo ngược như bây giờ?
Khoa học và triết học sẽ hun đúc theo một tinh thần mới. Minh đạo cũng sẽ khởi hứng cho nghệ thuật và văn chương. Các thứ này sẽ nhờ nó mà có một gia tốc lớn và tiến tới với một vận tốc chưa từng thấy. Đó là cuộc cách mạng văn hoá, cuộc cách mạng đích thực và bền vững hơn hết. Nó đã đến không nhờ những trúc đổ ầm ĩ và phá hoại khổng lồ. Nó đã đến trong đôi giày nhung, không ai nghe mà ngờ, chỉ có kẻ sáng suốt mới trông thấy được.

***

Như thế người sáng ra cái minh đạo – là Maitreya giáng trần như đạo Bửu Sơn Kỳ Hương tin – là người cách mạng vĩ đại hơn hết, chớ chẳng phải chỉ là vị Phật cao hơn hết như lời của Thích Ca Mâu Ni đã nói ba lần dưới cây Long Hoa. Mẹ tôi, một đàn bà nông dân quê mùa, đã nghe tới việc ấy, khi mang tôi trong bụng và đem chuyện ấy mà thuật lại chung lộn với những cổ tích đầy thần tiên cho tôi nghe khi tôi còn nhỏ xíu. Cha tôi, khi gần lâm chung, nhắc lại cho tôi nhớ, dường như là một lời di chúc. Thế mà, mấy chục năm nay, tôi không hiểu, chẳng khác nào thấy cây mà chẳng thấy rừng.
Nay hiểu được, thì thân đã bị giam vào giữa bốn bức tường, với một cái án không thấy thoát ra được. Làm sao mà đeo đuổi được cái nghiệp tiên thiên này? Âu là ước mong sao cho những trầm tư này động được lòng ai đương khổ vì cái khổ lớn của thế kỷ hai mươi vậy.
Côn Sơn, tháng Bảy 1962

Trầm tư thứ hai – Về võ trụ

Trường học ở gần nhà tôi chỉ có đến lớp dự bị. Tôi mài trôn quần tôi trên bàn của lớp ấy suốt mấy năm, mới được cha mẹ tôi gởi tôi ra chợ, ở trọ nơi nhà người quen, mà đến học ở lớp sơ đẳng. Lúc ấy tôi được mười tuổi, nên còn dại, chẳng biết lo học mà chỉ mê xem hát bội: đêm nào tôi cũng len lỏi vào được trong rạp hát, xem cho tới khuya, để rồi ngày sau, vào lớp ngủ gục. Tình thế ấy buộc cha mẹ tôi phải dời chỗ ở trọ, bấy giờ đem tôi gởi nơi một cái am, cách chợ gần hai cây số, từ ấy, sự cách xa nọ làm cho tôi không lân la được với các thú vui, mà ràng buộc tôi, ngoài giờ đi học, lẩn quẩn quanh am. Mỗi ngày ba lần tụng kinh, đều có tôi nghe cả.
Kinh tụng thảy đầu viết bằng chữ Hán, ban đầu tôi nghe không hiểu chi cả, thì lấy làm bực lắm. Ông sư mới cho tôi mượn một tập bằng thơ lục bát, mỗi câu dạy được bảy chữ với nghĩa của nó, để cho tôi học. Tôi không học mặt chữ, mà chỉ học tiếng Hán – Việt cùng nghĩa, chẳng bao lâu hiểu được nghĩa của mấy ngàn tiếng và bắt đầu hiểu hơi hơi các kinh tụng có nghĩa gì. Cái Phật học của tôi rất đơn sơ, vì chỉ là cái nghe lóm trong hai năm ở trọ nơi am để đi học.
Tuy vậy, nó cũng đủ mà giúp cho tôi biết rằng cái thị kiến của Phật về vũ trụ mà khoa học tả ra, cũng na ná như thế thôi.

***

Trong tám tháng đầu năm 1956, tôi bị nhốt ở Đề lao Gia Định để chờ đưa ra thẩm vấn. Chúng tôi không có một tí gì để đọc cả. Thình lình, có người cho chúng tôi một số báo Paris Match, mà ngẫu nhiên, trong ấy có một bài dài về vũ trụ. Trong hai mươi lăm năm đã qua, mê mải với những thăng trầm của chánh trị thực tiễn, tôi không có dịp nào đọc về vấn đề này. Nay lại được nghe đến những tên của Hubble, Lemaitre, Hoyle, v.v… và những lý thuyết của họ, tôi mới hay rằng thị kiến của Phật bị vượt qua quá xa rồi.
Kế tôi bị thẩm vấn, rồi đưa ra toà. Trong lúc ấy, thần trí không lúc nào rảnh rang để suy nghĩ gì khác. Đến chừng bị lên án tử hình xong, tôi thấy dường như đã phủi sạch nợ đời, không còn vướng víu với chánh trị nữa, tôi lại sực nhớ đến bài báo đã đọc trong Paris Match, và lấy đó làm đề để trầm tư. Không có kính viễn vọng như các nhà thiên văn, chẳng có sách vở nào để khảo cứu, ngay cho đến cái mớ toán học đã thu thập ở nhà trường thì, bị hai mươi lăm năm ruồng bỏ, đã quên hết phần nhiều, tôi sực nhớ còn đường lối mà Thích Ca Mâu Ni đã vạch, là thiền định, để lắng trong thần trí của mình, rồi chừng ấy xoay qua trầm tư cái đề của mình để đến một thị kiến. Và sau đây, là kết quả của cuộc trầm tư về vấn đề này. Tôi thuật nó ra để cống hiến cái thị kiến hầu như các nhà bác học thẩm xét lại bằng khoa học.
Sự phát minh của Hubble thuộc về thực nghiệm: người tìm thấy rằng các tinh vân đều dang xa ra với một tốc lực càng lớn lên, nếu tinh vân ấu càng xa vời. Bằng vào sự phát minh này, Lemaitre diễn dịch ra bằng cái giả thiết, là vũ trụ là kết quả của một cái nổ lớn của một nguyên tử khổng lồ sơ khai. Tôi phải mất mấy tháng để trầm tư về giả thiết này. Tôi thấy nó thiếu sót về hai điểm trọng đại.
Điểm thứ nhất về do lai của cái nguyên tử khổng lồ sơ khai. Do đâu mà có nó? Tại đâu phải đặt vị trí của nó? Nếu ta quay ngược cái phim nói về quá khứ của nó, ta sẽ thấy gì?
Điểm thứ hai về do lai của cái làm cho muôn vàn tinh vân, càng xa vời thêm, thì càng có tốc lực lớn hơn. Do đâu mà có cái ấy? Nếu bằng vào luật hấp dẫn, thì dầu có cái nổ đầu tiên tung các mảnh văng ra sáu phương, sức các mảnh ấy thu hút nhau chỉ làm cho các tốc lực phải giảm hoài với thời gian, rồi đổi chiều hướng lại, làm cho các tinh vân hết dang ra nữa, mà bu lại cùng nhau. Ngày nay, các tinh vân đều dang xa. Cái xa hơn hết, mà đo lường thấy được, ước độ 228 triệu năm ánh sáng, với tốc lực 40.000 cây số trong một giây. Bằng vào các con số ấy, thì tốc lực đầu tiên của lắm tinh vân lại cao hơn tốc độ của ánh sáng. Vậy thì cái làm cho các tinh vân, càng xa vời hơn thì càng có tốc lực lớn hơn, là một sức gia tốc chung, nó ở ngoài cái “vũ trụ” gồm có các tinh vân này.
Có cái gia tốc lực này, thì cái vũ trụ, ngày nay đang dang ra, sẽ không bao giờ rút lại, như Gamow cho, và cách tinh vân, mà càng xa thì tốc lực càng cao, sẽ đạt được cái tốc lực của ánh sáng, như Hoyle đã thấy.

***

Tuy Hoyle thấy được rằng các tinh vân, hết phiên cái này đến cái khác, sẽ đạt được tốc lực của ánh sáng, nhưng thuyết của Hoyle không sao cắt nghĩa do lai cái sức hấp dẫn nguyên nhân của sự này. Và nó cũng không nói được, sau khi đạt được tốc lực này, các tinh vân sẽ trở nên cái gì, và đi đâu? Hoyle cho rằng những câu hỏi này không nghĩa, vì một khi đạt được tốc lực cùa ánh sáng rồi, thì vật ấy lọt ngoài không phận của cái thấy hoặc của tất cả sự đo lường nào khác. Nhưng cái ý, cái giác quan thứ sau của nhà Phật, không sao thoả mãn được bằng một lời giải đáp như vậy. Sự bất mãn này làm cho tôi phải trầm tư, và một khi thị kiến được “cái chung” của vũ trụ của Hoyle, tôi lại thị kiến được “cái thuỷ” của cái nguyên tử khổng lồ sơ khai của Lemaitre.

***

Tôi gọi là “univers” của chúng ta cái tập hợp của tỉ, tỉ, tỉ “galaxies” đương làm đối tượng cho sự nghiên cứu của thiên văn học ngày nay. Cái univers của chúng ta có biên giới: ấy là nơi mà các galaxies đạt tới tốc độ của ánh sáng. Tới cái biên giới ấy, mỗi ngôi sao đều có một khối lượng vô biên và một tinh lực vô biên, cái chất của nó không còn là photons, neutrons, protons, électrons rung động vô cùng mau lẹ nên không kết hợp nhau lại. Toán học có thể tính được cái biên giới ấy xa ta là bao nhiêu, nói một cách khác là có thể tính được cái hình của univers và mấy bề lớn của nó, nếu biết được toàn thể cái cosmos. Nhưng cái cosmos, vô biên và vô thủ, vô chung, là vô thường, thay đổi hoài, thì cái hình và bề lớn của univers chúng ta, nếu có tính được, là tương đối với thời gian.
Ngoài cái univers của chúng ta, có vô số cái univers khác mà tôi gọi là univers extérieurs. Để đếm những cái univers extérieurs này cho được, hoạ may là mượn phép mạng số xưa (mười lần một là mười, mười lần mười là trăm, trăm lần trăm là vạn, vạn lần vạn là ức, ức lần ức là triệu, triệu lần triệu là kinh, kinh lần kinh là cai, cai lần cai là tỉ, tỉ lần tỉ là nhương, nhương lần nhương là câu, câu lần câu là giản, giản lần giản là chánh, chánh lần chánh là tải, và vân vân). Thế mà một phép mạng số như vậy hoá ra vô lực để đếm những univers của cosmos. Mỗi univers đều có thủy có chung có biên giới, nhưng cả cái cosmos là vô thuỷ vô chung và vô biên.
Khởi thuỷ của một cái univers nào đó là một nguyên tử khổng lồ sơ khai. Cả vật chất của nó (protons, neutrons, électrons) và cả tinh lực của nó (protons) gom vào một khối có lẽ bằng một ngôi sao thôi. Nhưng mật lực vì vậy mà to lớn vô cùng, đến những số khổng lồ, và nhiệt độ cũng lên hàng mấy tỉ độ. Đó có lẽ là cái “vô minh”, cái nhân đầu tiên của thập nhị nhân duyên của Phật. Nó là cái hỗn độn sơ khai, bởi lúc ấy chưa có một nguyên tử vật chất nào có được.
Sức dồn ép ấy, nhiệt độ ấy đốt cháy cái nổ đầu tiên: đó là “sáng thế” không phải của cả cái cosmos, mà chỉ riêng của univers nọ. Đối với cái univers mà chúng ta ở, các nhà bác học Lemaitre, Gamow, Dirac… đã viết được lịch sử của sự sáng thế này, mà họ tính lâu chừng 30o Năm phút đầu, nhiệt độ rớt xuống còn một tỉ độ và khối lượng nổ ra được cả ngàn lần. Từ đó những bộ phận của hạch tâm bắt đầu kết khối nhau được. Mười hai phút sau, vật chất hiện hình với các nguyên tử của hydrogène và hélium. Và mười ba phút nữa, tất cả nguyên tử, (dưỡng khí, lân tinh, calcium, sắt, uranium, v.v…) đều hiện diện. Đám mây do sức nổ gây ra đó tràn túa và nguội lại. Vài trăm triệu năm sau nó phân ra làm prégalaxies, rồi đến các galaxies. Mấy cái này, do tốc độ đầu tiên. Những cái càng xa thì đi càng mau, cái gần thì chậm hơn, mà khoảng cách chúng nó càng thêm ra mãi.
Nhưng sự nổ ấy không xảy ra nơi một cái trống không tuyệt đối. Nó xảy ra giữa một cái milieu cosmique trong ấy đầy dẫy vật chất cũ xưa tràn lan thành mây, hoặc đã hoàn nguyên như sau này sẽ nói. Có những ngôi sao, cũng như mặt trời, mà tình cờ đi gần một đám mây nọ, thì kết tụ mây này thành hành tinh chạy quanh theo mình. Các hành tình này, mới tạo ra thì nguội, lần lần bị sức dồn ép mà trung tâm ấm dần, đến một lúc, trên hành tinh sự sống phát sanh, cũng như trên địa cầu, rồi vạn vật phục sanh, có loài người có óc suy nghĩ và có óc sáng tạo. Có những ngôi sao khác lại thình lình nổ banh ra mà trở nên đám mây… Bởi sức ngăn trở của cái milieu cosmique này và bởi sức tự hấp dẫn của cái trọng tâm lực của hệ thống, cái univers không thể nào nổ ra mau lẹ được như bây giờ. Vì vậy mà trong cái milieu cosmique này, phải có một cái gì khác hơn.

***

Cái gì khác hơn ấy là thứ vật chất đã đạt đến tốc lực của ánh sáng có một khối lượng vô biên, và một tinh lực vô biên, mà phải hoàn nguyên lại. Khi lọt ra ngoài không phận của các univers rồi, thì các galaxies hoàn nguyên kia lại bị luật hấp dẫn mà kết tụ lại. Bởi chúng nó do nhiều univers mà đến, nên cái tụ lại đó, tôi gọi nó là multivers.
Chính những multivers này, với những khối lượng vô biên của nó, thu hút các galaxies về chúng nó và làm cho trong các univers, những galaxies nào càng gần chúng nó, tức là gần biên giới, có tốc độ gần tới của ánh sáng. Sức nổ đầu tiên, làm cho các galaxies có một tốc lực đầu tiên là một chuyện. Nhưng thêm vào, có sự hấp dẫn của các multivers, chung quanh cái univers, nó cao hơn cái hấp dẫn nội tại của cái univers này, mới có cái gia tốc lực làm cho các galaxies càng dang xa ra lại càng có tốc lực gia thêm hoài, cho đến khi đạt tới cái tốc lực giới hạn. Sự hấp dẫn này làm cho các galaxies hoàn nguyên, bu lại chung quanh các multivers, để thành chung một khối với chúng. Thêm các multivers lại kết khối với nhau.
Các multivers này lại càng lâu càng thu khối lượng lại, bởi các bộ phận thu hút lẫn nhau. Mật lượng lớn lên, áp lực lớn lên và nhiệt độ cao lên. Đến một lúc, áp lực này đốt cháy một cái multivers, bây giờ là một nguyên tử khổng lồ, một cái sáng thế mới diễn ra, một trang sử mới của vụ trị bắt đầu.
Và cuốn sử này không biết bao nhiêu trang như vậy. Có một cái nổ gần với univers, thì ảnh hưởng của cái nổ ấy dội đến ta mạnh bạo. Có nổ xa, thì ảnh hưởng nhỏ hơn. Từ ngày có quả đĩa cầu, trái đất đã mấy lần thay trục, phải chăng mỗi lượt nam bắc cực thay như vậy, là bởi gần univers của chúng ta có những cái nổ khổng lồ? Và biết đâu những hiện tượng trong quả địa cầu ta, mà ngày nay khoa học chưa thấy được nguyên nhân, lại do những biến thiên của cái milieu cosmique?
Univers và multivers, từng cái này nổ ra thành cái kia, những mảnh múng của nhiều cái kia hiệp lại thành cái này, có thể phân biệt nhau nơi chỗ trong multivers thì vật chất hoàn nguyên, không có sự sống được, còn trong univers thì vật chất phức hoá và cái điểm tối cao của sự phức hoá này là sự sống.

***

Loài người, sống trong một cái univers, đã sáng tạo ra được khoa học để thẩm xét, đo lường, nghiên cứu cái univers của mình. Có lẽ những luật chi phối cho những hiện tượng của univers này có thể áp dụng cho những univers khác được. Nhưng mà trong cái milieu cosmique, khi mà các galaxies vượt ra ngoài không phận của các univers và hoàn nguyên, chúng nó sẽ theo những luật nào? Tốc độ nó sẽ không đổi, hay sẽ dịu lần khi đến gần kề một cái multivers? Các multivers hấp dẫn lẫn nhau theo định luật nào? Chúng nó kết hợp với nhau làm sao? Biết bao câu hỏi mà dùng khoa học tương đối của chúng ta để giải đáp không được.
Mà có thể nào lập một cái khoa học mới cho các multivers chăng? Và nghiên cứu chúng nó có ích gì?
Tôi thị kiến vài thế kỷ nữa đây, loài người sinh sản quá nhiều, các địa lục quá trù mật, không đất để ở và trồng trọt cho đủ, chừng ấy vấn đề di cư vài ba tỉ những người sang cung trăng, sang cách hành tinh gần ta như Kim tinh (Vénus) và Hoả tinh (Mars) sẽ đặt ra. Nhưng trước khi, phải làm cho các hành tinh này có nước, có không khí, có thảo mộc, rồi mới ở được. Làm sao mà cho hằng tỉ tỉ tỉ tấn nước, hằng tỉ tỉ tỉ tấn không khí, từ địa cầu sang qua các bên ấy? Rồi làm sao di cư hàng mấy tỉ người đi?
Nếu nghiên cứu vũ trụ, tìm được cái tinh lực vũ trụ và chế ngự được cái tinh lực này, có lẽ những vấn đề trên không phải là nan giải. Nhưng đây không phải là việc của thị kiến nữa, mà trở nên công việc của khoa học và kỹ thuật. Tìm được đề tài cho khoa học là sứ mạng của thị kiến, mà thị kiến được khoa học chứng minh là đúng thì được một cái vinh hạnh lắm rồi.

Trầm tư thứ ba – Về hoà bình

Đạo Phật, muốn vươn lên để thành minh đạo, tất phải gặp nhiều vấn đề thuộc về xử thế, mà vấn đề trọng đại hơn hết là vạch lối cho tín đồ mình xử sự với chiến tranh, trong hai hình thức mới của nó: chiến tranh nguội ở từng địa phương và chiến tranh nóng ở khắp toàn thế giới. Tuy là hai song vốn là một: cả hai đều do sự phân hoá thế giới thành hai khối tương phải nhau và mỗi bên đều muốn biến cả thế giới theo khuôn mẫu của mình. Bây giờ chiến tranh không còn là sự tranh giành quyền lợi nữa, như nước thắng trận vừa rồi bỏ tiền của ra mà nuôi các nước đã thua. Mà bây giờ, chiến tranh trở nên sự dùng quân lực mà ép buộc nước khác theo thế lý tưởng của mình. Và như vậy, đối với kẻ bại trận, lý tưởng không ưa mà phải thờ, lý tưởng đáng mến yêu lại phải xa lìa, còn đối với cả đôi bên thì tang tóc, tàn phá, nghèo khổ, truỵ lạc… Đích thị chiến tranh, trong hình thức mới này, là cái khổ to hơn tất cái khổ khác mà Thích Ca Mâu Ni đã phác hoạ.
Sau trận đại chiến thế giới thứ nhất, thì đã bắt đầu, sau trận đại chiến thế giới thứ hai, thì phồn thịnh hơn, ở các xứ Âu châu, người ta khổ về chiến tranh và tổ chức lại thành đoàn thể để đề cao hoà bình. Lắm đoàn thể này trở nên những phong trào quốc tế và huy động được khá đông. Nó đã giác được cái khổ này trước hơn số đông của tín đồ đạo Phật, và sau mấy chục năm hoạt động, ắt có nhiều kinh nghiệm. Người xướng ra minh đạo, nếu tìm được lối giải thoát chung cho nhân loại khỏi cái khổ lớn này, ắt được hàng triệu những hưởng ứng, và nhờ đó minh đạo sẽ có một số người cảm tình rải rác khắp bốn phương trời.

° ° °

Đồng thời với cái khổ lớn này, xuất hiện những điều kiện để dập tắt nó: ấy là những phát minh về vi trùng học, về hoá học và nhất là về vật lý học. Những phát minh này giúp cho các cường quốc chế tạo được lắm thứ khí giới vô cùng lợi hại, gần như tuyệt đối, hễ tung ra thì giết chóc hàng triệu người, tàn phá trọn những thành phố rộng lớn, làm hại mùa màng và làm cuộc chiến tranh thế giới thứ ba có tính cách là kéo lui lịch sử loài người vài ba thế kỷ là ít.
Cái viễn đồ này làm cho lắm người giựt mình và những nhà cầm quyền các cường quốc phải suy nghĩ lại rất nhiều, trước khi quyết định dùng biện pháp quân sự để giải quyết sự tranh chấp với nhau. Đó là cái tâm trạng làm cho cái biện pháp ahima, mà Gandhi rút trong đạo Phật ra để chủ trương cuộc đấu tranh giải phóng cho Ấn Độ, được nhiều người nhắc tới khi phải xử sự với nhau trên trường quốc tế. Do đó mà nhiều người tin rằng cuộc chiến tranh nóng, toàn diện, bằng khí giới vi trùng, hoá học, nguyên tử và nhiệt hạch tâm (thermo-nucléaires) giữa khối Đông và khối Tây sẽ không thể nào xảy ra, vì cả đôi bên đều sợ sự tiêu huỷ. Nhưng kết luận này có hơi vội vã: sự khả hữu của chiến tranh thứ ba tuy có giảm bớt nhiều, song không phải là mất hắn. Loài người phải hoạt động nhiều lắm mới tránh được cái tàn phá tập thể này.
Bởi vì, và ở đây ai cũng phải đồng ý, từ hồi dứt chiến tranh thế giới thứ hai đến bây giờ, cuộc chiến tranh nguội không khi nào ngớt, cho đến đổi người ta quen với nó và cho nó là cái nếp sống hiển nhiên của thời này. Khởi lên là sự thức tỉnh của các thuộc địa cũ ở Á châu và Phi châu, đến khi các cuộc chiến tranh giải phóng này thành công, thì các nước mới ấy lần mò tìm con đường của mình. Chừng ấy, mỗi bên, Đông và Tây, đem cái lý tưởng mình mà quyến rũ, nội chiến bùng nổ, hai đại cường quốc đem binh tiếp viện cho phe mình: ấy là chiến tranh nguội đã hiện trọn hình của nó. Mà nếu cuộc chiến tranh nguội này làm nghiêng hẳn đòn cân lực lượng của đôi bên, thì ngòi lửa của chiến tranh nóng châm rồi: hai bên sẽ trực tiếp đánh nhau và thuyết ahimsa trở nên vô hiệu.

***

Vậy thì, cái nguyên nhân của chiến tranh thế giới thứ ba là lý tưởng Đông Tây tương tranh, mà cái duyên khởi của nó là chiến tranh nguội ở mấy vùng mà hai bên tranh giành ảnh hưởng. Do sự nhận xét đó mà có nhiều người kèm cái thuyết trung lập cho các nước nhỏ vào cái chủ trương cộng tồn của hai khối lớn. Thuyết trung lập vì vậy mà phát triển mau lẹ và đã được thẩm xét trên thứ bực quốc tế trong Hội nghị Genève (1960).
Trung lập chế của các nước nhỏ là điều kiện tất yếu chớ chưa phải là điều kiện sung mãn: nó chỉ qui định sự bang giao của các nước này mà chẳng ảnh hưởng được lịch trình biến đổi ở trong. Do đó mà thỉnh thoảng, trong xứ ấy lại mất thăng bằng, nội chiến nổ bùng ra, đốt ngòi cho chiến tranh nguội nữa. Muốn tránh sự mất thăng bằng này, cần phải nghiên cứu lại vì sao mà nó có và phương pháp nào để tránh.
Những nước nhỏ thường là những nước hậu lạc, hoặc là những nước văn minh xưa mà trải qua mấy trăm năm đồi truỵ. Nó kém về đủ phương diện kinh tế, xã hội, chánh trị, văn hoá. So sánh ra, phần đông chỉ gần bằng các nước Âu châu khi vừa có cách mạng công nghiệp, và trong khoảng mấy chục năm phải rượt theo kịp khúc đường mà các nước ấy đã đi trong gần hai trăm năm. Để vượt tới với tốc độ này, khối Tây phương không bày cho họ được phương pháp nào, mà quần chúng của họ lại thấy gương nước Nga, nhờ phương pháp độc tài mà trong không đầu năm mươi năm, rượt theo kịp các cường quốc. Thế nên, mặc dù Nga không nhúng tay vào, như trong trường hợp nước Tàu, quần chúng này cũng tự động mà làm cách mạng. Ấy là nguyên nhân là mất thăng bằng. Huống chi Tàu, vì muốn tranh làm bá chủ với Nga trong một khối cộng sản, lại can thiệp một cách tích cực để thúc đẩy các cuộc cách cuộc cách mạng ấy.
Để tránh sự mất thăng bằng do biến thiên nội tại này, phương pháp không phải là dùng ngoại viện để đàn áp các phong trào dân chúng bằng quân sự và chánh trị. Làm như thế chỉ tổ chế dầu thêm cho chiến tranh nguội dễ nổ bùng ra mà thôi. Cái phương pháp phù hợp hơn hết là vạch cho quần chúng một lối tiến tới mau lẹ, thoả mãn được sự thèm khát đi mau của chúng, còn đem thêm cho chúng những điều mà chế độ cộng sản không sao cho họ được. Lối tiến tới ấy không phải là cái văn minh của Tây phương cung cấp được, mà cũng không thể bắt chước theo các nước cộng sản mà có được. Nó là đường lối ở giữa, thu nạp được cái hay của mỗi bên, rồi tài bồi thêm những sở kiến của mình. Ta gọi nó là “trung đạo”. Nó giúp cho các nước nhỏ giải thoát được nạn chiến tranh nguội, đồng thời giúp cho cả nhân loại xô dang ra xa cái hoạ chiến tranh thứ ba, cũng như cái trung đạo xưa của Thích Ca Mâu Ni giúp cho cá nhân giải thoát cái khổ nhỏ vậy.

***

Trung đạo tách dang xa đường lối buông lung của tư bản chủ nghĩa, cái này làm cho bần phú cách biệt, kẻ nghèo làm vật bị bóc lột và áp bức của nhà giàu, làm cho bình đẳng và bác ái trở nên những tiếng trống rỗng, làm cho công bình mất hẳn, và do đó bao nhiêu bất bình nổi lên, gây xung đột, mầm móng của chiến tranh nội loạn. Trung đạo cũng tách dang xa đường lối độc tài chà đạp tự do và nhân phẩm của con người, ngăn đón sự phát triển của cá nhân về bề cao để san phẳng bề dưới. Vì vậy, mà đi ở giữa, trung đạo sẽ là một xã hội chủ nghĩa nhân đạo.
Bởi là nhân đạo, xã hội chủ nghĩa này không bóc lột thợ thuyền và nông dân tận xương tuỷ để tích luỹ theo lối sơ khai số tư sản cần thiết hầu kiến thiết kỹ nghệ một cách cấp tốc. Vã lại có kỹ nghệ nhiều thì nước chỉ mạnh về võ lực, mà bởi các thị trường thế giới đều đầy nghẹt hàng hoá rồi, sự kỹ nghệ hoá Á châu và Phi châu chưa phải là lối hay để giải quyết các khó khăn về kinh tế. Hiện nay nạn đói kém, nhất là ở Tàu và Ấn Độ, đương giày vò cả tỉ người, thì điều mà nhân loại đòi hỏi cấp bách hơn cả, là cuộc cách mạng nông nghiệp ở Á châu và Phi châu. Áp dụng đến triệt để máy móc trong nghề canh tác, áp dụng hoá học để làm cho mùa màng tăng lên gấp đôi gấp ba, áp dụng sinh vật để chọn lựa giống tốt hơn, áp dụng tất cả khoa học để chế tạo các đồ dùng từ nông sản, thêm vào sự khai thác những rừng hoang minh mông ở Đông Nam Á và Phi châu… đó là một chương trình cách mạng nông nghiệp sẽ tiêu thụ được bao nhiêu sản phẩm kỹ nghệ của Tây phương cũng như của Đông phương và sẽ cung cấp thức ăn cho bao nhiêu người đói kém cũng như nó sẽ làm giàu cho hàng tỉ khách hàng của các nước kỹ nghệ. Có số khách hàng này trước, sự kỹ nghệ hoá các nước Á Phi sẽ đi sau chẳng muộn. Ấy là, thay vì sự người bóc lột người, một sự tân khai thác thiên nhiên. Lấy vốn ở đâu mà chi phí cho cuộc cách mạng nông nghiệp này? Câu hỏi này là một cái thử thách cho thuyết viện trợ mà các cường quốc cao rao trong mười mấy năm nay. Nếu viện trợ mà không có ý nghĩa thầm kín nuôi cuộc chiến tranh nguội, thì đây là dịp để viện trợ cho các nước yếu đó.
Tiến tới trong con đường của xã hội chủ nghĩa nhân đạo thì tất nhiên nhẹ về oai trị bằng quân đội, công an, cảnh sát mà nặng nề về đức trị bằng luân lý và đạo đức. Vậy cần một văn minh tu sĩ để rèn luyện, uốn nắn, hun đúc người cho càng ngày cao quí đẹp đẽ hơn. Cái văn minh tu sĩ này cũng tuyển trạch giùm cho xã hội những cán bộ chánh trị, kinh tế. Các tăng già xưa, sống bằng khất thực như trong Phật giáo tiểu thặng, sống bằng tự sức mình làm như trong Phật giáo đại thặng, không thể cung cấp các loại cán bộ này được. Phải có những cán bộ mới, lấy sự sáng suốt mà mình nuôi sống mình đồng thời dìu dắt cho quần chúng sống nữa. Một cán bộ là một tu sĩ thêm một chuyên môn, chừng ấy đạo và đời nhất thống rồi, đạo ấy mới thật là xử thế. Đã có lúc tăng già đảm bảo được sự giáo huấn và nền y tế của nhiều nước ở Á châu, thì cũng đến lúc cái tăng già mới của minh đạo cung cấp được cán bộ cho mọi ngành hoạt động.

***

Điều cốt yếu là nhịp phát triển kinh tế đo bằng mức sống trung bình của dân chúng và sức sản xuất theo đầu người, và nhịp phát triển của xã hội của nghĩa của những nước theo trung đạo đây phải được mau lẹ hơn của những xứ tương đương bên phía cộng sản. Thiếu điều kiện này, quần chúng ắt bị phương pháp độc tài thu hút mà mầm nổi loạn không dập được.
Điều nên cố gắng kế đó là tận dụng những tự do, do sự nhân đạo đảm bảo, mà thu nhập những cái hay về khoa học, về văn chương, về nghệ thuật của cả đôi bên Đông Tây mà làm một cuộc tập đại thành, để xâu dựng một cái văn hoá mới. Có cuộc cách mạng văn hoá này, những nước theo trung đạo mới quyến rũ người lại, những phần tử bên Đông cũng như bên Tây, theo đường lối của mình.
Việc thứ ba là năng gặp gỡ nhau, cũng như ở Bandoeng, để vạch một đường lối chung về chánh trị ngoại giao quốc tế mà chủ đích là tránh nạn chiến tranh nguội và chiến tranh nóng, để trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau và để giúp đỡ lẫn nhau. Trong việc giúp đỡ này, phần quan trọng hơn hết là thoả thuận một chương trình di cư, để cho những nước rộng đất mà thưa dân mở cửa đón rước số người thặng dư ở các nơi có hoạ nhân mãn và đói lạnh. Kế đến là việc trao đổi cán bộ trong mọi ngành hoạt động, những cán bộ len lỏi trong dân gian được và ít đòi hỏi như các cán bộ do sự viện trợ hiện hành.
Nếu có nhiều nước nhỏ như vậy mà ở chung một vùng, như những nước nhỏ ở Đông Nam Á, nhiều nước ở Phi châu, thì nên tổ chức lại thành Tổng liên bang, để xây những viên đá đầu của cái xã hội đại đồng. Được nhiều cái tổng liên bang trung lập như vậy thì cái viễn đồ đặt thế giới trên thế chân vạc mới có cơ thành tựu được.
Chiến tranh nội loạn ở các xứ nhỏ dứt, thì chiến tranh nguội không có cơ khởi nhúm lên được. Chiến tranh nguội không nhúm lên được, thì sự tương tranh giữa hai khối Đông Tây có thể gom về hình thứ đơn giản hơn hết của nó là thử thách với lịch sử coi chế độ nào thích ứng hơn mà tồn tại. Để gom như vậy, cần phải thuận ước nhiều điều như là sự không dùng tinh lực nguyên tử để chế khí giới, tài giảm binh bị và hạ bớt ngân sách chiến tranh, giải quyết ổn thoả một số vấn đề làm cho đôi bên găng nhau, tôn trọng trung lập chế của các nước nhỏ… Những bước đầu này khai mào cho những thi thố có tính cách bền vững hơn, như là giảm bớt chủ quyền của các cường quốc và nhượng một mớ quyền hạn cho Liên hiệp quốc, khoáng đại, để đi tới một chính phủ liên bang thế giới gồm có sự giải tán các quân đội quốc gia, để thay thế bằng một đội quân cảnh sát quốc tế, lập những cơ quan quốc tế để thi hành những kế hoạch tài chánh, kỹ nghệ, nông nghiệp, văn hoá chung cho cả loài người.
Chừng nào đến thế giới đại đồng rồi thì mới hết sợ hoạ chiến tranh và loài người mới bước vào ngưỡng cửa của một ngươn thanh bình.

***

May mắn cho cả loài người, nếu có thể tránh được nạn chiến tranh thế giới thứ ba. Như vậy nó sẽ khỏi bị bắt buộc đi lại khoảng đường đôi ba thế kỷ mà sự tàn phá xô lùi nó trở lại. Trong cái giả thiết mà một đôi nơi nhen nhúm được mầm mống của trung đạo và như vậy lách mình ra ngoài cuộc binh lửa, thì rủi có chiến tranh thứ ba nổ ra, sau cuộc chém giết và tàn phá rồi, những mầm mống ấy sẽ là những nơi nhen nhúm cho cái văn minh mới. Mấy dân tộc ấy sẽ dẫn đầu loài người trong một hai trăm năm và văn minh nọ sẽ lan tràn khắp địa cầu. Rủi hơn hết là minh đạo chưa xuất hiện, mà thế giới đại chiến đã nổ bùng, đâu đâu đều chịu cảnh tang tóc và tàn phá chung, thì một khi chiến tranh dứt rồi, cái ý bây giờ mới gieo ra, chừng ấy mới tràn lan ra được. Bởi nghĩ như vậy mà tôi mới viết bài trầm tư này.
Khi trầm tư, tôi muốn áp dụng lối tư duy của Phật vào một vấn đề mới, đem tứ thánh để làm khuôn, để dắt vào đó vấn đề chiến tranh và hoà bình của thời đại này. Tôi thấy cả hai đường lối của Đông phương và của Tây phương, đều đi ngang qua chiến tranh mới đến cái hoà bình trong ấy mình độc chiếm thế giới. Đường lối thứ ba, cái trung đạo, lấy hoà bình làm mục đích và cũng làm phương tiện, hạp với từ bi và bác ái mà cũng hạp với cao vọng của phần đông các tôn giáo, và vạch thuyết ahima một lối đi hợp lý. Làm như thế, trong đám rừng hình như thượng học, nó không cho mọc chen một cây nào mới để giành chỗ với những cội cũ. Nó không giành phần nắm chân lý với một tôn giáo nào hiện hành. Đặt một vấn đề nhận thật một cái khổ, rồi tìm phương giải thoát nhân loại khỏi cái khổ ấy, minh đạo sẽ có thể đồng minh với nhiều tôn giáo, nhiều phong trào hoà bình đang lan tràn khắp thế giới. Nó có tràn lan mau lẹ chăng là nhờ len lỏi theo lối ấy. Nhưng như thế, lắm phần hình như thượng trong Phật pháp cần phải chỉnh lại. Đó là sứ mạng của người khai đạo, của Maitreya thời nay. Thích Ca Mâu Ni thường ví cái pháp mình như cái bè để đưa người sang bờ bên kia. Hai ngàn năm trăm năm qua, bây giờ không còn chỉ vượt qua một con sông mà cần đưa cả loài người vượt qua cái biển cả đầy sóng to gió lớn. Nếu Maitreya tìm được phương pháp nào thích ứng cho trọng trách mới thì Thích Ca Mâu Ni là người hoan nghinh trước nhất. Nhưng một Maitreya có thể đem hoà bình lại chăng? Hay là hoà bình phải do tất cả loài người cố gắng mới đến được?
Đối với cái khổ tập thể, chỉ có lối giải thoát tập thể mà thôi.
Côn Sơn, tháng Chín 1962

Trầm tư thứ tư – Về nạn đói kém

Cái khổ đang làm mối lo âu hàng ngày của hơn phân nửa loài người là nạn đói kém. Không phải mới bây giờ mới có cái khổ ấy. Vào thời của Thích Ca Mâu Ni, chắc chắn là đã có nó từ lâu rồi, cho nên trong đạo Phật, tăng già đặt sự bố thí làm phép thứ nhất trong lúc đó, và tuy không viết trắng ra, song dạy dân chúng sự nhẫn tùng đối với sự nghèo khổ. Nhưng sau thế kỷ mười chín, trong lúc ấy xảy ra những cuộc cách mạng thợ thuyền ở Âu châu, và sau hai cuộc cách mạng lớn của thế kỷ hai mươi này, cách mạng Nga và cách mạng Tàu, thì quần chúng đói kém hết nghe những lời dạy nhẫn tùng của các tôn giáo nữa. Các đảng chánh trị có cơ sở tôn giáo như ở Đức, ở Pháp, ở Ý đã thấy rõ điều này và ghi sự chống nạn nghèo đói vào chương trình của mình. Đã đến lúc mà Phật pháp phải đạt vấn đề xử thế đối với bạn đói kém này, bằng không thì sẽ bị lịch sử quét bay ra ngoài không phận của nó.

***

Lịch sử đặt vấn đề đói kém này nặng nhất là cho Á châu, đặc biệt cho hai dân tộc Ấn và Tàu hơn ở đâu tất cả, mà hai xứ này, một xứ là nơi phát sanh của đạo Phật, một xứ là nơi đạo này có tín đồ đồng nhất. Lòng từ bi, bác ái thúc đẩy, viễn đồ nạn đói kém có thể gây nội loạn nữa, làm cho hai xứ này phải đi tiền đạo trong việc chống nạn đói, và phương pháp của họ chủ trương sẽ là bài học cho bao nhiêu dân tộc.
Trước năm 1949, vì ảnh hưởng của hơn tám năm chinh chiến, nước Tàu cũ phải trải qua một cơn khủng hoảng trầm trọng về đủ mọi phương diện, chánh trị, tài chính, kinh tế, xã hội. Nạn đói tràn lan khắp nơi làm động lực cho mấy trăm triệu nông dân khởi loạn: cuộc cách mạng, khởi từ các thôn quê hẻo lánh, bao vây các thành thị, để rồi tràn ụp đến không phương chống cự nổi. Nông dân, mượn học thuyết của Marx, và đó là cái éo le của lịch sử, đưa đảng cộng sản lên nắm chính quyền mà giải quyết các vấn đề theo lối độc tài. Riêng có nạn đói kém thì không sao đánh lui nổi. Chánh phủ bèn ban bố những phương pháp độc tài hơn nữa, chế độ công xã hiện ra, thế mà đói kém vẫn còn y như cũ. Nếu chế độ công xã thất bại, xui giục nông dân chống trả lại, thì một điều tuyên truyền xấu cho chính sách độc tài và làm giảm bớt ảnh hưởng của nước Tàu đối với các dân tộc láng giềng.
Ở Ấn Độ, chế độ tư hữu điền địa được tôn trọng hơn và tự do của nông dân được rộng rãi hơn. Nhưng sự gia tăng của sản xuất về nông nghiệp không theo kịp sự gia tăng của nhân số. Chánh phủ thi hành nhiều biện pháp, trong ấy có sự kiểm soát sanh dục. Nhưng nạn đói kém không vì đó mà bớt được.
Ở Tàu cũng như Ấn Độ, để cung cấp công việc cho một số đông thất nghiệp, và tăng gia sản xuất, người ta lập ra những kế hoạch kỹ nghệ hoá, Vì thiếu vốn lớn, nhất là vì thiếu người tiêu thụ, bởi các thị trường quốc tế đều bị các nước khác chiếm hết và cạnh tranh ráo riết, nên sự kỹ nghệ hoá hai nước này không thể mau lẹ được. Không xuất cảng sản phẩm kỹ nghệ, thì lấy tiền đâu mà nhập cảng thực phẩm để bài trừ nạn đói? Bởi vậy cho nên, đối với cả hai nước, muốn bài trừ nạn đó, cũng như muốn tạo một số người tiêu thụ cho kỹ nghệ, điều cần thiết là gia tăng gấp đôi, gấp ba sự sản xuất của nông nghiệp.

° ° °

Muốn gia tăng sản xuất của nông nghiệp, không cần phải có chế độ này, hay chế độ kia, không cần phải nắm chính quyền hay chỉ là một phong trào dân chúng. Điều cốt yếu là cần động viên đa số nhân dân hưởng ứng với cuộc cách mạng nông nghiệp, cũng như gần hai thế kỷ rồi, người ta đã hưởng ứng với cuộc cách mạng nông nghiệp.
Cuộc cách mạng nông nghiệp không phải chỉ làm một cuộc cách mạng điền địa. Vả lại, như lịch sử nước Nga đã chỉ trong năm mươi năm này, để động viên đám nông dân, đảng cộng sản nêu ra khẩu hiệu chia đất cho dân cày, thế rồi mười mấy năm sau, Staline lại thâu đất cát để lập đồn điền công cộng và đồn điền Sôviết; và như lịch sử của nước Tàu, chỉ trong khoảng năm sáu năm thôi, chính phủ Tàu phải tịch thâu ruộng đất của nông dân để lập công xã. Thế thì, cuộc cách mạng điền địa chỉ là một khẩu hiệu chánh trị để lừa gạt nông dân, chớ không thay đổi gì được trong nông nghiệp.
Muốn làm cách mạng trong nông nghiệp, cần phải áp dụng phát minh tối tân của khoa học để gia tăng sức sản xuất lên gấp đôi, gấp ba. Điều này ta thấy có thể làm được, nếu ta so sánh năng suất của mỗi mẫu ruộng ở các nước: ở Á châu và Phi châu việc canh tác còn thủ cựu và thô sơ, nếu chỉ áp dụng được những phương pháp hiện hành ở Âu, Mỹ thì là một cuộc thay đổi lớn lắm rồi. Những rừng hoang có thể khai phá, một phần trồng lại, một phần đổi làm ruộng rẫy, sẽ tăng thêm số mẫu đất được trồng trọt. Nhờ những cách trồng cây không đất, một mớ triền núi kém đất sẽ cản xuất được.
Cuộc cách mạng nông nghiệp này cần phải động viên cho nông dân hưởng ứng và huấn luyện cho họ thuần thực được các phép canh tác mới. Những cơ quan của chánh phủ gánh hai trách nhiệm này đã đành, mà các nhà sư có thể trở nên những cán bộ tuyên truyền đắc lực và các nhà chùa, rải rác khắp nơi ở thôn quê có thể biến thành những trường canh nông thực nghiệp. Thay vì chờ có bạn đói rồi đi quyên tiền để chẩn bần, các nhà chùa có thể chống nạn đói nơi căn cội của nó là sự kém sản xuất về nông nghiệp. Họ cũng có thể tổ chức dân nghèo thành những đoàn thể để đi khai phá thêm đất hoang để trồng trọt, miễn cho xứ được nạn khất thực.

***

Tránh cái nạn khất thực, của bần dân cũng như của tăng già, ấy là cung cấp một số tay làm cho nông nghiệp chuyển từ lối canh tác theo bề rộng qua lối canh tác tập thúc và khai phá thêm hoang vu. Mà như thế, ấy là đổi cả nếp sống, đổi cả một cái văn minh, nhất là của phái tiểu thặng.
Thay đổi được nếp sống rồi, mấy nhà sư có thể biến thành những người cầm đầu các đoàn di cư, rời những nơi quá trù mật dụ người làm đến những chỗ thưa thớt cần khai phá thêm mà lập những điểm dinh điền mới, áp dụng những phương pháp canh tác mới.

***

Có một phong trào như thế và khá mạnh rồi, thì mới có thể đặt vấn đề di cư từ nước này sang nước kia, trên lãnh vực quốc tế. Các nước rộng đất, thưa dân, nhiều rừng, mới có thể đón rước mớ nhân công thuần thục và có kỷ luật, họ đem đến sự phồn thịnh và an ninh với họ.

***

Những việc trên đây, nếu đạo Phật cứ chấp cái cũ mà không chịu cải tiến canh tân, thì chắc chắn sẽ không còn bao lâu nữa sẽ bị đào thải. Bởi vì nói giải thoát con người, mà để cho con người bị nạn đói kém mà phải sa đoạ, là việc không thể dung được.
Trái lại, nếu đạo Phật dẫn đầu được cuộc cách mạng nông nghiệp mà chống nạn đói kém được đắc quả, thì đạo Phật làm được một việc hi hữu. Dìu dắt được cả tỉ nông dân ở Á châu, đạo Phật sẽ làm gương cho các dân tộc ở Phi châu, được cảm tình của họ, mới có cơ tràn lan qua Phi châu được. Hai thế kỷ trước, ở Âu châu cũng có nạn cơ cực. Nhờ cách mạng công nghiệp mà Âu châu giải quyết nhiều vấn đề, kể cả cuộc cách mạng văn hoá, là phong trào dân chủ. Đến nay, Á châu bị vào lối nghẽn, bởi tiến tới trễ, mà lắm dân tộc chọn lối độc tài, thủ tiêu tự do của con người để nêu cao cái lịnh của đoàn thể. Nếu đạo Phật mở rộng được lối nghẽn ấy, thì thay vào sự giải thoát cá nhân cũ xưa, đem lại cho số đông sự giải thoát tập thể. Điều mà tôi mong muốn vậy.
Nhưng lúc ấu đạo Phật hết còn là phái đại thặng. Ta gọi nó là minh đạo, dùng danh từ mới mà gọi cái mới vậy.

***

Đứng về một mặt khác mà xét, thì chủ nghĩa cộng sản ở Tàu cũng bị vấn đề đói kém bức bách mà phải vượt đi xa hơn học thuyết của Marx, xa hơn phương pháp của Staline. Cuộc cách mạng chánh trị, đã lấy nông dân làm chủ lực, làm cho những nhà lý thuyết phải suy nghĩ nhiều rồi, và lắm người cho rằng chủ trương của họ Mao không theo lề lối của Marx nữa. Nếu mai kia mà ở Tàu đảng cộng sản buộc mình phải làm cuộc cách mạng nông nghiệp nữa, thì thêm một lần, nông dân lại làm chủ lực cho cuộc cách mạng kinh tế.
Rồi cái chánh trị độc tài phải nhượng bộ ít nhiều cho nông dân, cũng như hồi xưa ở Nga, Lénine nhượng bộ cho họ mà thi hành Tân kinh tế chính sách (NEP). Rồi đường lối của Nga và đường lối của Tàu sẽ lần ra, bàn cờ thế giới đổi nước. Đó là điều mà nhà làm chánh trị nên chủ ý tới.
Mà điều đáng chú ý hơn nữa là sự thay đổi song song, một bên của đạo Phật, nếu có, một bên của chủ nghĩa cộng sản, mỗi bên cổi bỏ những lỗi thời của mình, thêm áp dụng những phát minh của khoa học, triết học từ hồi Marx qua đời cho tới bây giờ, để làm một cuộc tập đại thành. Thì chừng đó không còn chủ nghĩa cộng sản nữa, mà cũng chẳng còn đạo Phật nữa. Một cái lý tưởng mới xuất hiện, thích ứng với loài người của cuối thế kỷ hai mươi và của thế kỷ thứ hai mươi mốt.

***

Để giúp cho sự tổng hợp này xuất hiện được, một vài nước nhỏ ở Đông Nam Á có một vai trò chẳng nhỏ. Tôi nghĩ trước nhất đến nước Miến Điện vì ở đây, đạo Phật thịnh hành xã hội chủ nghĩa cũng nhiều nhựa sống, lại ở đây giàu lúa gạo. Nếu hợp nhất được đạo Phật và xã hội chủ nghĩa để gây một phong trào chủ lực cho cuộc cách mạng nông nghiệp, thì Miến Điện sẽ xuất cảng lúa gạo nhiều gấp bốn năm lần, giúp cho Tàu và Ấn Độ có chỗ mua gạo mà đồng thời nêu một cái gương sáng tỏ. Xã hội chủ nghĩa ở Miến Điện không có độc tài như chủ nghĩa cộng sản, thì sự tập đại thành với đạo Phật có cơ dễ dàng hơn. Cái khổ là ở bên đạo Phật: chẳng biết phát tiểu thặng ở đây có vươn mình nổi để làm cuộc cách mạng văn hoá này chăng?
Nếu ở Miến Điện mà thành công được cuộc cách mạng nông nghiệp và cuộc cách mạng văn hoá, thì ảnh hưởng của sự thành công này sẽ tràn lan qua các nước gần Đông Nam Á và Ấn Độ, rồi đến lượt các nước Tàu. Chừng ấy đặt vấn đề tổng liên bang ở Á châu có thể được hưởng ứng: điều này tuỳ nơi có chiến tranh thế giới thứ ba cùng chăng?
Nếu sớm thực hiện được cuộc cách mạng nông nghiệp và cuộc cách mạng văn hoá cho Đông Nam Á, rồi rủi có chiến tranh thế giới thứ ba nổ bùng ra, Đông Nam Á nên lách mình ra ngoài vòng binh lửa để sau chiến tranh cứu độ cả loài người khỏi nạn đói kém, dĩ nhiên sau cơn tàn sát. Đó là một viễn đồ nêu ra để cho nhà cầm quyền ở Đông Nam Á lưu ý tới.
Đến đây, tôi chỉ nghiên cứu nạn đói và cách chống lại nó bằng những phương pháp tự lực. Nhưng từ khi có Liên hiệp quốc và chánh sách viện trợ của các cường quốc, thì ta cũng chớ nên bỏ qua vấn đề này.
Bấy lâu nay, sự viện trợ này không phù hợp với những sự nhu cầu khẩn thiết của các nước được viện trợ. Người ta giúp tài chánh nhiều để tổ chức quân đội, cảnh sát và công an mạnh hơn chứ không phải để làm những công cuộc dẫn thuỷ nhập điền khai phá hoang vu. Người ta viện trợ súng đại bác, xe tăng và tàu bay hơn là giúp máy cày gặt hay phân bón. Những ngoại tệ được giúp không dùng để mua máy móc cho nông nghiệp, mà để cho các giai cấp hữu sản mua xe hơi và tủ lạnh. Những học bổng cho sinh viên là cốt rèn luyện cho chúng trở nên cán bộ của giai cấp hữu sản chứ chẳng cố gắng đặc biệt đào tạo cán bộ cho nông nghiệp. Các cố vấn gọi qua không có vị nào chuyên cho ngành này.
Nay đến lúc “phản kỳ sở vi” mà tập trung năng lực lại giúp cho Á châu thoát nạn đói kém. Cần yếu nhất lá được vay dài hạn để làm vốn cho mọi khuếch trương nông nghiệp như các công cuộc dẫn thuỷ nhập điền, khai phá đất hoang, mua sắm máy móc và phân bón, cất kho vựa, dựng các nhà máy chế nông sản…
Có viện trợ như thế thì các dân tộc được viện trợ mới biết cám ơn các nước đi viện trợ.
Côn Sơn, tháng Mười 1962

Trầm tư thứ năm – về nạn nhân mãn

Từ đầu thế kỷ hai mươi, đã có nạn nhân mãn. Nhiều nước kỹ nghệ, nhưng dân số quá trù mật, nhiều nước nông nghiệp, mà thiếu đất để trồng trọt hoặc thiếu vốn để khai thác thêm chỗ cày cấy, nên rất khốn đốn vì nạn này. Lắm nơi, đã thành nguyên nhân cho sự đói kém. Nhiều chỗ, nó đã thôi thúc cho lắm phong trào chánh trị, đem rắc rối tăng thêm sự rắc rối.
Để giải quyết nạn nhân mãn này, một đôi cường quốc đã chủ trương đòi đấy để sống, và mượn cớ đó mở ra những cuộc chiến tranh chinh phục, như Ý ở A-bit-xi-ni và Nhựt ở Mãn Châu, nối tiếp các cuộc chiến tranh thực dân của thế kỷ thứ mười chín. Nhưng cuộc chiến tranh thế giới thứ hai kéo màn mở lớp cho cuộc tranh đấu giải phóng ở tất cả các nơi bị trị, Á châu và Phi châu đã thức tỉnh và mang hia bảy dặm mà rượt theo các nước tiền tiến. Thì tình thế này làm cho sự đòi hỏi trên kia hoá ra ảo vọng, nếu còn đeo mãi cái mộng xâm lăng.
Mà dầu có đạt được cái ảo vọng này, chánh sách dùng chiến tranh để xâm chiếm đất thêm là một biện pháp phản kinh tế. Sự hao tốn về chiến tranh, nhất là với chiến tranh hiện thời, rất nhiều, sánh với số vốn cần thiết để thực hành một cuộc công nghiệp cách mạng đủ nuôi được số dân tính di cư sang đất thưa. Những thủ lãnh chánh trị khôn ngoan không thể nào chọn lựa một phương pháp tai hại như vậy. Vả lại, đốt ngòi cho một cuộc chiến tranh xâm lăng, biết chắc sẽ nắm được phần thắng trong tay chăng? Việc Nhựt lấy Mãn Châu rồi đánh luôn nước Tàu, chiếm cả Đông Nam Á, rồi thua, việc Ý thất bại ở A-bi-xi-ni, sự thắng lợi của các cựu thuộc địa trong các cuộc chiến tranh giải phóng, sự thắng lợi của Ai Cập trong cuộc xung đột ở Trung Đông…, tất cả các điều ấy đều chứng tỏ rằng chiến tranh là bất lợi.

***

Hiến đất để sống cho các dân tộc mang nặng hoạ nhân mãn, thì hoạ may có lợi là khi dùng biện pháp thoả thuận hoà bình, tức là phải làm sao cho những nước rước dân mới vào thấy có lợi và có vui mà mở cửa.
Trước nhất là miễn cho các nước đón rước ấy những cái hiểm hoạ hoặc những điều phiền phức. Mà cái hiểm hoạ đầu tiên là sự mất an ninh chánh trị: nếu cho dân kiều cư đến ở mà chúng đem theo những rắc rối như là gây các cuộc khởi loạn, thì chẳng có nước nào bằng lòng. Về điểm này, gương của Tàu, thì năm cộng sản lên nắm chánh quyền nên chẳng có Hoa kiều xuất ngoại được, là một gương làm cho các nước bị hoạ nhân mãn nên nghiền gẫm. Kế đến là nạn trộm cướp, do bọn bất lương mang đến, làm cho chánh quyền phải hao tốn rất nhiều để đàn áp. Sau cùng là nạn thất nghiệp do sự cho vào những kẻ không sanh kế, rồi phải làm thứ ăn hại của xã hội. Còn một viễn đồ cần phải cố tránh trước, là đừng để cho dân trong xứ đón rước thấy một ngày mai sau họ sẽ trở nên là thiểu số đối với một chủng tộc nào khác đến, rồi họ phải diệt tộc cũng như người da đỏ bị ở Mỹ châu.
Nói như thế, tất phải có một kế hoạch quốc tế để dời dân ở các nơi trù mật đến những nơi còn thưa thớt và cần dùng tay là để khai phá thêm. Theo kế hoạch này, cần phải làm hiển hiện những quyền lợi cấp thời và vĩnh viễn của những xứ đón rước, cũng như trong thế kỷ mười tám và mười chín, sự di cư sang Mỹ châu đã làm cho châu này từ bán khai nhảy vọt đi đầu trong lịch sử. Cũng cần cho những nước khác, không có dân cần di cư mà cũng chẳng có quyền lợi gì đón rước người di cư, nhận thấy những quyền lợi to mà ủng hộ một kế hoạch như thế không ngoài một cuộc cách mạng nông nghiệp ở cấp bực quốc tế. Cuộc cách mạng này, có thể thi hành xong trong vài chục năm, sẽ cung cấp đầy đủ thực phẩm cho các dân tộc ở toàn địa cầu, thêm nhiều nông sản nguyên liệu cho kỹ nghệ, sẽ đào tạo thêm một số khổng lồ khách hàng mới cho kỹ nghệ phẩm nhờ mức sống của nông dân lên cao, đổi những xứ bán khai thành những nước trù phú và phân phối lại dân cư trên trái đất.
Nếu có được một chánh phủ liên bang thế giới để chủ trừ kế hoạch này thì các vấn đề pháp lý, tài chánh, kỹ thuật, chuyên môn đều có đủ điều kiện để giải quyết. Nhưng một Liên hiệp quốc, như bây giờ, vì muốn có một viễn đồ an ninh công cộng, có thể đề xướng ra một kế hoạch tích cực như thế. Công việc có hơi chậm trễ và khó khăn hơn, nhưng không phải là không thi hành được.

***

Vấn đề nhân mãn, nhờ cách mạng nông nghiệp ở thứ nguyên quốc tế mà tạm đánh lui được vài ba trăm năm, song sẽ hiện tại, lần này không có phương pháp giải quyết nào khác hơn là sản xuất thực phẩm bằng kỹ nghệ, bằng phương pháp tổng hợp, rút chất C, Az, N, O, H,… ở trong thiên nhiên mà chế các loài ăn cần dùng, thay quyền của tạo hoá mà thực hiện các thức tổng hợp bấy lâu nay chỉ xảy ra trong cây cối hay trong thân thể các loài thú. Tôi tin rằng trong vài ba trăm năm nữa, hoá học đã tiến bộ đến mức ấy.

***

Nhưng rồi ít trăm năm nữa, trái đất sẽ quá chật, vì số người tăng lên đến gấp ba gấp năm. Đến chừng ấy, vấn đề di cư loài người từ trái đất lên cung trăng, sang Hoả tinh (mars) và Kim tinh (vénus)… phải đặt ra mới mong có biện pháp. Hiện nay, khoa học đi tới với một tốc lực ngày càng gia tăng thêm, thì chúng ta có thể hy vọng thực hiện được chương trình này. Nhưng ngay từ bây giờ, cần phải kể sự nghiên cứu và đặt những viên đá đầu tiên của việc ấy.
Việc thứ nhất là dời qua các hành tinh ấy không khí để nuôi sống vạn vật và nước để nuôi sống cây cỏ. Muốn dời các thứ này phải sẵn có những nguồn tinh lực vô tận và rẻ tiền. Tôi nghĩ đến tin lực của vũ trụ, bấy lâu nay đã gây được nhiều cuộc biến thiên lớn, như là làm cho quả địa cầu mấy lần thay trục, làm cho mặt trăng tách rời trái đấy để thành một vệ tinh, ắt có thể giúp cho ta dời sang qua các nơi kia nước và không khí cần thiết.
Hễ đem bớt nước đi, thì mực nước của các đại dương và các biển có thể sụt xuống độ mấy trăm thước. Điều ấy làm cho bày thêm đất liền cho các địa lục và mọc lên nhiều đảo giữa các biển. Ấy là những đất thêm cho người ở và trồng trọt. Ấy cũng là một cách giải quyết tạm bợ nhỏ nạn nhân mãn, dùng được cho một hai thế kỷ.

***

Khi mà di cư được một hai tỉ người sang qua mặt trăng hay sang qua các hành tinh kế cận, thì chẳng những giải quyết được nạn nhân mãn, mà có thể giảm bớt sự đe doạ của chiến tranh bằng cách thoả thuận nhau mà dời người cùng lý tưởng nhau sang cùng một hành tinh. Như vậy sẽ có bao nhiêu thế giới khác nhau về lý tưởng mà bởi ở xa cách nhau quá, nên ít có dịp xung đột với nhau. Giữa hành tinh Hoả tinh (mars) và Mộc tinh (jubiter pata), có hàng ngàn hành tinh nhỏ để cho loài người giải quyết vấn đề trên một cách ổn thoả.

***

Dầu di cư có đông đến thế nào, thì lối giải quyết vẫn là một lối tạm bợ có giá trị trong một thời hạn nào mà thôi. Lối giải quyết vĩnh viễn phải là sự kiểm soát sanh dục như phần đông các nhà bác học đã chủ trương.
Côn Sơn, tháng Mười Một 1962

 

 

Thế Chiến Thứ III của ông Hồ Hữu Tường

( ngày 11-3-1950 )

Trích : Ngàn năm một thưở/Phi Lạc sang Tàu
Hối Thứ Mười Ba
Thừa hư nhi tá bửu
Bất chiến Tự Nhiên Thành
Thập niên 50 . Tàu cộng 500 triệu dân , Mỹ có 150 triệu dân , Nga có 150 triệu dân .
Mỹ – Nga dân số gần như ngang nhau . Nay Mỹ thấy năm trăm triệu dân Tàu theo Cộng ,thì đương nhiên Mỹ phải lo nghĩ . Đối với thời cuộc của Tàu , Mỹ có ba chánh sách sẻ áp dụng .
_Chánh sách thứ nhất là dùng Quốc mà trị Cộng , dùng Tưởng để trị Mao . Nhưng chánh sách này là hạ kế . Thế nào cũng hoàn toàn thất bại , vừa mất cả món tiền cho vai cũ cho vay mới , đồng thời thất bại về mặt chánh trị bởi cái kế đánh cuội của tôi bày cho họ Tưởng đó .
Hễ hoàn toàn thất bại thì chắc chắn Mỹ sẽ không dám dùng hạ kế nữa mà đổi qua dùng trung kế liền .
_Trung kế làm sao ?
_Là kế dùng Nhật Bổn mà trị nước Tàu . Nhưng làm như vậy thì Nhật sẽ khôi phục địa vị của hắn , từ một nước bại trận trở nên một nước chiến thắng . Nhưng chưa chắc là thành ,bởi vì lấy cớ gì mà đưa quân Nhật qua đánh với Mao cho được ? Thế nên Mỹ phải dùng đến thượng kế .
_Thượng kế làm sao ?
_Là cầm cán cho nước Ấn Độ đứng đầu một phong trào của các dân tộc Á Châu . Làm như vậy , điều thứ nhất là cổm của nước Anh một cái thị trường 300 triệu dân Ấn . Điều thứ hai là đễ cho nước Ấn cầm đầu cho tất cả phong trào dân tộc giải phóng ở Á Châu thành ra có được chánh nghĩa . Điều thứ ba là Mỹ muốn gây một cuộc chiến tranh lý tưởng chống với chủ nghĩa duy vật cực đoan của Nga , mà có đông quần chúng thì phải dựa vào một phái duy tân triệt để mà có người theo là Phật Giáo .
Thượng sách của Mỹ là kéo hơn 300 triệu dân Ấn theo cánh của mình .
Ta sắp hai giả thuyết : Một là Nga lấn thế công kích . Hai là Mỹ thừa sức mà tràn tới .
Nếu Nga muốn công kích Mỹ hay là Mỹ đánh Nga thì con đường gần hơn hết là con đường hàng không vòng trên bắc cực . Thế là các nước ở nữa trên sẻ bị dội bom ,bom thường,bom nguyên tử, bom vi trùng mà bị tàn phá cả .
Bên Tân Thế Giới thì Gia Nã Đại , Hiệp Chủng Quốc , còn bên cựu thế giới thì cã Âu Châu , Tây Bá Lợi Á, Nhật bổn ,và miền bắc nước Tàu sẽ bị tàn phá không thua gì một Cuộc Tận Thế . Còn nếu lục quân của Nga muốn tấn công Mỹ thì phải noi theo ba đường : Con đường phía Tây là phải tràn qua nước Đức , nước Pháp , nước Y Pha Nho, Bắc Phi để tiến tới Tây Phi và Nam Phi vì hai chỗ này sang qua Nam Mỹ gần hơn để rồi đó đánh lên Bắc Mỹ . Con đường phía Đông là từ Tây Bá Lợi Á , đánh tan Nhựt bổn đổ bộ sang A Lát Ka rồi tấn đánh Gia Nã Đại và Hoa Kỳ . Con đường phía Nam là tấn công Ấn Độ , rồi từ đó đánh sang Úc Châu để sang qua Nam Mỹ nữa . Và con đường chiến lược của Mỹ cũng chĩ ba con đường ấy mà thôi ! Vậy là Đại Cuộc của Chiến Tranh Thứ Ba sảy ra . Nhưng trong toàn cầu có nước nào đứng ngoài các con đường chiến lược ấy chăng ?
_Không có ! Họa may là vùng Đông Nam Á chúng ta .
_Đúng vậy ! Vùng Đông Nam Á Châu của ta dựa lưng vào chỗ to rộng hơn hết của Thái Bình Dương , mà được cái hân hạnh đứng ngoài các con đường chiến lược , không ai thèm kéo tới đó mà làm gì . Nga có kéo tới thì đụng mũi với biển rộng minh mông , phí quân vô ích . Mỹ muốn đổ bộ thì lựa những con đường gần đích của mình , chớ đến ven biển Việt Nam ta mà làm gì cho phí công .
Thế thì các nước khác dầu muốn làm nước trung lập đứng ngoài vòng binh lữa cũng không được . Còn ta , ta lại ở vào ngay nơi khu “bất chiến “.
Ấy là nhờ cái kế của tôi đưa nước Tàu đến một tình trạng nội chiến kịch liệt , rồi trong trận giặc thứ ba hai bên Nga Mỹ đều không dám lấy hai chỗ đó làm căn bản của mình . Tại sao vậy ? Bởi vì trận giặc thứ ba là trận giặc lý tưởng , trận giặc quần chúng , thì không dám tin cái khối quần chúng quá đông đảo là Tàu và Ấn độ đâu . Và khi họ lánh Tàu và Ấn Độ , thì Việt Nam ta càng ở trong cảnh yên tĩnh nữa . Tuy cái kế chẳng có gì , nhưng có thể đem lại cho Tổ Quốc sự trường tồn , trong lúc mà cả Thế Giới bị phi cơ , bom nguyên tử ,bom vi trùng dày dò và tàn phá . Trong khi cả Thế Giới bị bom đạn tàn phá thì có ai lo làm ăn gì được đâu , tất nhiên nạn nghèo đói tràn ngập thế giới và chĩ riêng có khu “bất chiến ” của ta là có ăn , có mặc , có yên tĩnh . Đó là cái hạnh phúc về vật chất .
Rồi những phần tử ưu tú , văn nhân , nghệ sĩ , nhà bác học ở khắp bốn phương trời sẽ tản cư mà lánh chiến tranh . Tản cư ở đâu bây giờ , nếu không đến khu “bất chiến ” mà tìm cái hạnh phúc của vật chất ? Thế là bao nhiêu cái tinh hoa của bốn năm ngàn năm văn hiến sẽ được mang đến cõi đất này , nào văn chương , khoa học , đạo học , nghệ thuật , kỷ thuật , toàn cái hay , cái đẹp sẽ đến cùng nhau mà tạo ra một cái hay , cái đẹp của tất cả , rồi phổ cập khắp dân Việt Nam trên cái “khu bất chiến “này .Đó là hạnh phúc về tinh thần .
Một phần lờn nhân loại sống trong cảnh binh lửa tàn phá , còn một điểm nhỏ xíu của ta lại còn hạnh phúc như vậy . Không phải là một cái chưa hề có bao giờ , một chuyện chĩ có “Ngàn Năm Một Thuở” mới có một .

Ngộ Không

Bài Mới Nhất
Search