T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Huyền Chiêu: NỖI BUỒN TRONG THƠ TRẦN TẾ XƯƠNG

Tem Tú Xương

Ảnh (http://hoainguyen_53.violet.vn)

Cuối  năm học lớp đệ tứ, thầy giáo dạy Việt văn tổ chức một buổi tổng kết về các tác giả. Thầy đặt câu hỏi cho cả lớp “Trong chương trình Việt văn chúng ta vừa học, em thích nhà thơ nào nhất?”

Câu trả của đa số là Nguyễn Du với Truyện Kiều. Một vài bạn nói thích Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, chỉ mình tôi trả lời là Trần Tế Xương.

Tôi chọn  Trần Tế Xương không phải vì hiểu thơ của ông mà vì tôi thương ông ấy. Trần Tế Xương  gợi tôi nhớ đến hình ảnh người cậu quá cố của tôi.

Cậu tôi biết chữ nho, lúc nào cũng vui vẻ  hài hước và lúc nào cũng nghèo.

Mẹ tôi nói “người vợ đầu bỏ ổng vì ổng …lười biếng”.

Người vợ thứ hai chán ngán cảnh nghèo túng,  bỏ đi làm ăn xa, cậu tôi sống một mình trong ngôi nhà bà ngoại tôi để lại.

Cậu tôi chẳng có nghề nghiệp gì. Ông lại vụng về, không sửa được cái hàng rào, không  lợp được cái mái nhà, không cầm được cái cuốc. Lạ thay,  những ngón tay vụng về của ông lại thoăn thoắt trên phím cây đàn nguyệt,  nhấn nhá uyển chuyển trên cây đàn cò.

Mọi người trong xóm thương ông, đến chơi với ông để đánh cờ, nghe ông đàn và nghe ông kể chuyện tiếu lâm.

Cậu tôi thỉnh thoảng kiếm được vài đồng nhờ xem ngày, giờ cho người ta chôn cất hay  xây nhà. Lâu lâu ông đi thổi kèn  đám ma.

Mặc cho lời than phiền của mẹ, tôi rất thương cậu tôi.

Đôi lúc tôi thấy ông ngồi yên lặng, mắt nhìn xa xăm tôi biết ông đang… đói và tôi không ngần ngại xúc trộm vài lon gạo của mẹ mang sang cho ông.

Nhà thơ  Trần Tế Xương cũng nghèo và hài hước. Trẻ con rất thích những người hài hước. Chẳng phải đi xem hát chúng thích nhất là vai anh hề.

Hãy nghe Trần Tế Xương mô tả chân dung  của chính ông:

“Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành

Mặt thì lơ láo mắt thì nhanh

Vuốt râu nịnh vợ con bu nó

Quắc mắt khinh đời cái bộ anh” (1)

Ông tú ấy sống trong một thời đại nho học đã suy vi:

“Cái học ngày nay đã hỏng rồi

Mười người đi học chín người thôi” (2)

Chung quanh ông xã hội dường như không còn nề nếp:

Nhà kia lỗi đạo con khinh bố

Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng” (3)

Đó là thời điểm các giá trị văn hóa Nho giáo đang tan rã, triều đình ươn hèn, người dân đang bị khép lại trong kiếp sống của một đất nước bị trị bởi ngoại bang.

Còn ông tú tài Trần Tế Xương thì biến thành một người đàn ông vô dụng, ăn chơi, trụy lạc.:

“Thua bạc đi ra với mẹ nhà

Bệnh gì không bệnh, bệnh tiêm la

Vui quá đến nỗi ra người dại

Lỡ bước cho nên nhắm mắt qua” (4)

Có quá nhiều bài viết mô tả Trần Tế Xương  dựa theo những câu thơ ông tự trào.

Nào  ông là kẻ trác táng:

“Một trà, một rượu, một đàn bà

Ba cái lăng nhăng nó quấy ta

Chừa được thứ nào hay thứ đó

Có chăng chừa rượu với chừa trà” (5)

Rồi ông chỉ là một kẻ vô dụng, vô tình trút hết gánh nặng gia đình cho vợ:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi được năm con với một chồng” (6)

Còn có loại người nào xấu xa hơn ông:

“Cao lâu thường ăn quỵt

  Thổ đĩ lại chơi lường”     

Nhưng tôi không tin những điều ông nói.

Là người khôn khéo, ông  đã tự cười mình trước khi cười người.

Hãy nghe một người bạn học, ông  Lương Ngọc Tùng vẽ lại chân dung Trần Tế Xương:

Cùng làng, cùng phố, học cùng trường

Nhớ rõ hình dung cụ Tú Xương,

Trán rộng, tai dày, da tựa tuyết,

Mồm tươi, mũi thẳng, mắt như gương.

Tiếng vàng sang sảng ngâm thơ phú,

Gót ngọc khoan khoan dạo phố phường.

Mấy chục năm trời đà vắng bóng,

Nghìn năm còn rạng dấu thư hương

Với tôi,  Trần Tế Xương không chỉ  là nhà thơ  tiêu biểu cho thể văn  thơ trào phúng  làm  sư tổ  một văn đàn có những  môn sinh như Tú Mỡ, Tú Sụn, Tú Kếu,  Cử Nạc, Tú Poanh, Đồ Phồn,  Đồ Bì…

Hơn thế nữa, ông  là một nhà thơ với những nỗi lòng bi ai, trằn trọc cho số phận của đất nước đang suy vi,  cho thân phận  vô dụng của một kẻ sĩ trước thời cuộc quá gay go.

Và khi trở về với tâm trạng này, giọng văn của ông vô cùng cảm động:

“Trời không chớp bể với mưa nguồn

Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn” (7)

Nằm nghe tiếng ếch kêu, ông nhớ tiếc  một thời đất nước còn có tam cương ngũ thường,  người dân biết trọng Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, kẻ  biết chữ Nho  còn được trọng vọng:

“Sông kia rày đã lên đồng

Chổ làm nhà cửa chổ trống ngô khoai

Đêm nghe tiếng ếch bên tai

Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò” (8)

Khác hẳn với những giọng thơ bông phèn một cách thô lỗ, tận đáy lòng Trần Tế Xương là một người rất thanh cao, dịu dàng  và trân trọng tình bạn:

Ai ơi có nhớ ai không?

Trời mưa, một mảnh áo bông che đầu.

Nào ai có tiếc ai đâu?

Áo bông ai ướt khăn đầu ai khô.

Người đi Tam Đảo, Ngũ Hồ

Kẻ về khóc trúc, than ngô một mình

Non non, nước nước, tình tình

Vì ai lận đận cho mình ngẩn  ngơ.(9)

Một người đàn ông nhớ một người đàn ông ít ai viết được những câu “âu yếm”  như thế này:

“Ta nhớ người xa cách núi sông

Người xa xa lắm nhớ ta không” (10)

Nói về tình cảm của Trần Tế Xương dành cho vợ, nhiều người nhắc đến bài “Thương Vợ”.

Tôi  thích bài Văn Tế Sống Vợ  hơn. Bài phú có những ý tưởng rất mới, câu văn đáng yêu  còn hơn bài thơ mới “Tình Già” của Phan Khôi.

“Thế mà

Mình bỏ mình đi không than không thở

Hay mình thấy tớ nay hàng Thao, mai phố Giấy mà bụng mình ghen?

Hay mình thấy tớ sáng Tràng Lạc, tối Viễn Lai mà lòng mình sợ?

Thôi thì

Chết quách yên mồ

Sống càng nặng nợ

…………………..”

Trần Tế Xương là một nho sinh lận đận, thi mãi không đậu cử nhân.

Cùng thời với ông, khoa thi năm Canh Tí 1900 Phan Bội Châu đậu thủ khoa trường Nghệ, Phan Chu Trinh đậu cử nhân thứ ba trường Thừa Thiên, Huỳnh THúc Kháng đậu giải nguyên trường Quảng Nam.

Sau đó Phan Bội Châu đi Nhật tìm đường cứu nước, Phan Chu Trinh sang Pháp tìm cơ hội mở mang dân trí, Hùynh Thúc Kháng  trong nước  là nhà  cải cách văn hóa tích cực.

Còn Tú Xương? Hãy nghe tâm sự buồn bã của ông:

“Một mình đứng giữa qũang chơ vơ

Có gặp ai không để đợi chờ

Nước biếc non xanh trông vắng vẻ

Kẻ đi người lại dáng bơ bơ

Hỏi trời chỉ thấy mây xanh biếc

Đợi nước càng thêm tóc bạc phơ

Đường đất xa khơi ai mách bảo

Biết đâu mà ngóng đến bao giờ?” (11)

Đối với riêng tôi, trong cảnh đất nước tan tành, dân tộc lầm than, một người được gọi là kẻ sĩ, dù không làm được gì cũng còn biết ngồi buồn hỏi trời, hỏi đất, khóc vì ngóng chờ một tương lai mù mịt là đáng quý  lắm rồi.

Huyền Chiêu

Tháng 7-2017

 

  1. Phổng Sành
  2. Cái Học Ngày Nay
  3. Đất Vị Hoàng
  4. Bệnh
  5. Ba Cái Lăng Nhăng
  6. Thương Vợ
  7. Đêm Buồn
  8. Sông Lấp
  9. Áo Bông Che Bạn
  10. Nhớ Bạn Phương Trời
  11. Lạc Đường

 

 

 

 

 

 

©T.Vấn 2017

 

 

Đọc Thêm:

(Nguồn: http://hoainguyen_53.violet.vn)

Trần Tế Xương – Nhà thơ chứng nhân thời cuộc

http://4.bp.blogspot.com/-uB206_z5H6U/TbFd4w8EacI/AAAAAAAACvE/3B3IC7ZniEo/s1600/tuxuong.jpg

Nhà thơ Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương(陳濟昌), tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh. Tên bố mẹ đặt cho lúc đầu là Trần Duy Uyên. Ông sinh ngày 5 tháng 9 năm 1870 (tức ngày 10 tháng 8 năm Canh Ngọ), ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định (sau đổi thành phố Hàng Nâu, hiện nay là phố Minh Khai, phường Vị Xuyên, thành phố Nam Định). Ông mất ngày 29 tháng 1 năm 1907.

Văn học nằm ngoài những định luật của băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết. Thơ văn của Tú Xương là một trường hợp như vậy. Thể xác của Tú Xương đến nay đã hơn 100 năm nát với cỏ cây. Nhưng sự nghiệp văn chương của ông thì vẫn như một chàng trai xinh đẹp, sung sức, bất chấp mọi thử thách thời gian.

Kìa ai chín suối xương không nát

Có lẽ ngàn thu tiếng vẫn còn

Người ta vẫn tin hai câu thơ này là của Nguyễn Khuyến viếng Tú Xương.

Trần Tế với tên húy là Trần Duy Uyên. Ông thuộc dòng dõi nho gia, vốn là họ Phạm, đổi thành họ Trần là bởi vào đời Nhà Trần lập công lớn được phong quốc tính (vua cho đổi theo họ nhà vua). Ông nội Trần Tế Xương tên là Trần Duy Năng. Thân sinh của Trần Tế Xương là cụ Trần Duy Nhuận cũng là một nhà nho, thi nhiều khoa không đậu, sau làm Tự thừa ở dinh đốc học Nam Định, sinh được 9 người con, 6 trai, 3 gái, Tú Xương là con trưởng. Trong tất cả các tài liệu nói về Tú Xương đều không thấy có ảnh, nhưng dáng hình cụ Tú được người bạn học là hạc phong Lương Ngọc Tùng viết trong bài thơ “Nhớ rõ hình dung …”

Cùng làng, cùng phố, học cùng trường

Nhớ rõ hình dung cụ Tú Xương,

Trán rộng, tai dày, da tựa tuyết,

Mồm tươi, mũi thẳng, mắt như gương.

Tiếng vàng sang sảng ngâm thơ phú,

Gót ngọc khoan khoan dạo phố phường.

Mấy chục năm trời đà vắng bóng,

Nghìn năm còn rạng dấu thư hương.

Ông đi học sớm và cũng sớm nổi tiếng thông minh. Hồi mới lên 10 tuổi, nhà có khách đến chơi, thấy trước nhà có một dãy chậu hoa, khách bèn ra cho bé Uyên một câu đối: “Đình tiền ngũ sắc hoa” (trước sân có hoa năm sắc), Uyên liền chỉ vào lồng chim khướu treo ở hiên và đối: “Lung trung bách thanh điểu” (trong lồng có chim trăm tiếng). Khách nghe đối tấm tắc khen nhưng lại thở dài “đời thằng bé lại luẩn quẩn như chim nhốt trong lồng “. Ông học chữ Hán cụ kép làng Thành Thị, tên là Trần Chấn Thái, ngồi bảo học ở thành Nam.

Cuộc đời ngắn ngủi có 37 năm của ông đã nằm gọn trong một giai đoạn bi thương nhất của đất nước. Trước lúc ông ra đời 3 năm thì 6 tỉnh nam kỳ mất trọn cho Pháp. Tú Xương lên 3 thì Bắc Kỳ trong đó có Nam Định bị tấn công lần thứ nhất. Tú Xương 12 tuổi, Bắc Kỳ, Nam Định bị tấn công lần thứ 2 và mất nốt. Hiệp ước Harmand 1883 rồi hiệp ước Patenôtre 1884 thừa nhận quyền thống trị của Pháp trên đất Việt Nam. Các phong trào kháng chiến chống Pháp diễn ra sôi nổi nhưng lần lượt thất bại. Tú Xương sinh ra và lớn lên trong bối cảnh sục sôi và bi thương đó.

Tú Xương lấy vợ năm 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn.

Ông đi thi từ lúc 17 tuổi, đó là khoa Bính Tuất (1886). Các tài liệu khác chép nhầm là khoa Ất Dậu (1885)

Cuộc đời của Trần Tế Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ, nhưng trước hết là một trí thức phong kiến. Ông thuộc loại nhà nho “dài lưng tốn vải” như trong bài Hỏi ông trời của ông:

Ta lên ta hỏi ông trời:

Trời sinh ta ở trên đời biết chi?

Biết chăng cũng chẳng biết gì:

Biết ngồi Thống Bảo, biết đi ả đầu

Biết thuốc lá, biết chè tàu

Cao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi

Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu. Điều đó đã đi vào thơ ca của ông: Tiền bạc phó cho con mụ kiếm hoặc là Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ hay là Nuôi đủ năm con với một chồng, rồi ông cũng tự cười mình trong bài Phỗng sành:

Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành

Mắt thời thao láo, mặt thời xanh

Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó

Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh

Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ

Rượu chè trai gái đủ tam khoanh

Thế mà cứ nghĩ rằng ta giỏi,

Cứ việc ăn chơi chẳng học hành

Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả 8 lần. Đó là các khoa: Bính Tuất (1886); Mậu Tý (1888); Tân Mão (1891); Giáp Ngọ (1894); Đinh Dậu (1897); Canh Tý (1900); Quý Mão (1903) và Bính Ngọ (1906). Sau 3 lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm). Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão (1903) Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng, đến phát cắu lên:

Tế đổi làm cao mà chó thế,

Kiện trông ra tiệp hỡi trời ôi !

Xã hội bấy giờ, cái bằng tú tài thuộc loại dang dở dở dang (tú tài không được thi Hội, cử nhân mới được thi, tú tài không được bổ quan, cử nhân mới được bổ). Cho nên đậu tú tài, muốn đậu cử nhân phải đợi 3 năm sau thi lại.

Cuộc sống của ông về vật chất rất thiếu thốn. Đúng năm ông đậu tú tài (1894) thì ngôi nhà số 247 phố Hàng Nâu (nay là phố Minh Khai) bị cháy. Cụ Nhuận làm lại xây bằng gạch Ông tu tác cửa cao nhà rộng, toan để cho dâu, câu thơ đó là Tú Xương nhắc đến sự kiện này, nhưng rồi ngôi nhà đó lại bị bà Hai An chiếm đoạt. Tú Xương đã phải than:Nhà cửa giao canh nợ phải bồi. Nghèo đói đã cứa xé Tú Xương. Sự đểu cáng đã vả vào Tú Xương. Hoàn cảnh đó được in đậm trong thơ phú của Tú Xương sự vất vả, cay cú, phát phẫn, buồn phiền.

Tập tin:Ngôi nhà của Trần Tế Xương.JPG 

Ngôi nhà số 280 phố Hàng Nâu

Họ Phạm làng Lương Đường, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương có nhiều người đỗ đạt. Tú Xương nhắc Chẳng những Lương Đường có thủ khoa là nhắc đến làng quê của vợ ông. Gia đình bà Phạm Thị Mẫn đến đời bố mẹ thì dời sang sinh sống ở Nam Định. Bà Mẫn sinh trưởng tại đây. Cuộc kết hôn giữa ông Tú với bà là từ hoàn cảnh gần gũi đó. Bà sinh cho ông được 8 người con, trong đó có 6 trai và 2 gái. Bà Tú là một phụ nữ tiêu biểu cho phụ nữ Việt Nam xưa ở nhiều phương diện như tần tảo, thương chồng, thương con, nhẫn nại quên mình. Công việc kiếm sống cho gia đình của bà là buôn bán nhỏ (tiểu thương). Điều đặc biệt là chính bà đã đi vào thi phẩm của ông chồng như một nhân vật điển hình hấp dẫn.

Khi mất ngôi nhà số 247 phố Hàng Nâu của ông nội và bố để lại. Gia đình ông Tú chuyển đến nhà số 280 cùng phố mà sau này địa phương đã xếp hạng là di tích lưu niệm Tú Xương chính là do mẹ vợ nhà thơ (bà Hai Sửu) chia cho con gái.

 

Về văn bản tác phẩm

Tình hình văn bản tác phẩm của Tú Xương hết sức phức tạp. Không có di cảo. Không có những công trình đáng tin cậy tập hợp tác phẩm khi tác giả còn sống hoặc vừa nằm xuống. Sinh thời, nhà thơ sáng tác dường như chỉ để tiêu sầu hoặc mua vui, thơ làm đọc lên cho vợ con, bạn bè nghe, rồi tùy ý truyền khẩu. Thành Nam thủa ấy còn có nhiều người hay thơ và thơ hay, cùng nỗi niềm và khuynh hướng với Tú Xương như Trần Tích Phiên, Phạm Ứng Thuần, Trần Tử Chi, Vũ Công Tự …Thơ họ cũng được phổ biến không ít. Lại 3 năm một lần thi hương, sĩ tử cả Bắc Kỳ tụ hội về đây, thơ hay được lan truyền càng rộng rãi. Vì thế thơ Tú Xương càng dễ bị lẫn lộn.

Lúc đầu chỉ là các bài sưu tầm đăng giải rắc trên tạp chí Nam Phong (các năm 1918, 1919, 1920, 1926). Tiếp đến sách “Văn đàn bảo gián (quyển 3)” của Trần Trung Viên, Nam Ký thư quán Hà Nội 1926, giới thiệu 79 tác phẩm, trong đó phần lớn đã được đăng ở Nam Phong. Từ đó ,lần lượt xuất hiện những sách chuyên đề về Tú Xương. Có 2 văn bản chữ nôm hiện còn lưu giữ ở thư viện Hán – Nôm đó là Vị thành giai cú tập biên (ký hiệu AB.194) ghi rõ “Nam Định Vị Xuyên tú tài Phượng Tường Trần Cao Xương Tử Thịnh trước tập” và Quốc văn tùy ký (ký hiệu AB.383). Có 10 lần xuất bản bằng chữ quốc ngữ với những văn bản sau:

1 Vị Xuyên thi văn tập của Sở Cuồng (tức Lê Dư), Nam Kỳ thư quán 1931 (sau có tái bản), giới thiệu 174 tác phẩm gồm thơ, phú, câu đối. Mà sau này các sách khác thừa hưởng kết quả. Nhưng chép nhầm tên ông là Trần Kế Xương.

2 Trông giòng sông Vị (Văn chương và thân thế Trần Tế Xương) của Trần Thanh Mại; Trần Thanh Địch 1935 lần thứ nhất ở Huế sau tái bản nhiều lần.

3 Tú Xương thi tập, do nhà sách Phúc Chí, 95 Hàng Bồ, Hà Nội 1950, giới thiệu 75 bài thơ phú

4 Thân thế và thơ văn Tú Xương của Vũ Đăng Văn, Nhà xuất bản Cây Thông, Hà Nội 1951. Đính chính tên nhà thơ là Trần Tế Xương (không phải Kế) và giới thiệu 181 tác phẩm.

Những sách này là từ trước 1954, sưu tầm thơ Tú Xương còn hết sức tùy tiện và hầu như không có chú giải cần thiết. Việc khảo cứu về nhà thơ cũng chưa được đặt ra, nếu không kể đến cuốn Trông giòng sông Vị.

5 Văn thơ Trần Tế Xương Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội 1957. Giới thiệu chính thức 125 bài và đưa 55 bài vào phần tồn nghi.

6 Đấu tranh chống hai quan niệm sai lầm về Tú Xương, nhà xuất bản Nghiên cứu cục xuất bản, Bộ văn hóa Hà Nội 1957 của Trần Thanh Mại nhân dịp lần thứ 50 ngày giỗ Tú Xương.

7 Tú Xương con người và nhà thơ của Trần Thanh Mại, Trần Tuấn Lộ, nhà xuất bản Văn hóa 1961 Giới thiệu 193 bài chính thức, 17 bài tồn nghi.

8 Thơ Trần Tế Xương , Ty văn hóa Nam Hà, 1970. Bài tiểu luận của Xuân Diệu in lần đầu tiên ở đây, có nhiều phát hiện lý thú. Còn tác phẩm chỉ tuyển chọn chẵn 100 bài. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ.

9 Thơ văn Trần Tế Xương, nhà xuất bản Văn học, 1970 có sự tham gia của Nguyễn Công Hoan chọn 151 tác phẩm và 22 bài tồn nghi.

10 Thơ văn Trần Tế Xương , Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội 1984. Cuốn này sao gần như hoàn toàn cuốn 9.

Chỉ có cuốn Tú Xương tác phẩm giai thoại của nhóm Nguyễn Văn Huyền (chủ biên), Đỗ Huy Vinh, Mai Anh Tuấn và người giới thiệu giáo sư: Nguyễn Đình Chú, Hội văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh – 1986 là một công trình nghiên cứu kỹ lưỡng và công phu. Loại ra các tác phẩm không phải của tác giả, so sánh, đối chiếu các bản đã in ở những lần xuất bản trước, chọn ra 134 bài là của Tú Xương và loại ra 68 bài (có chú dẫn nguyên nhân loại ra cho từng bài một). Bài viết này lấy tư liệu chủ yếu ở cuốn sách đó.

Sau này nhất là thời mở cửa việc xuất bản tràn lan không được kiểm định kỹ đã lấy tư liệu ở các nguồn khác nhau kể trên, điều đó cũng giải thích tại sao nguồn trích lại đưa ra các tư liệu khác nhau về Tú Xương.

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/thumb/9/94/M%E1%BB%99_Tr%E1%BA%A7n_T%E1%BA%BF_X%C6%B0%C6%A1ng.JPG/800px-M%E1%BB%99_Tr%E1%BA%A7n_T%E1%BA%BF_X%C6%B0%C6%A1ng.JPG Mộ Trần Tế Xương tại thành phố Nam Định (gần tượng đài Trần Quốc Tuấn)

Nói đến tài làm thơ của Tú Xương, nhiều người đã đặc biệt chú ý đến sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình, trong đó trữ tình là gốc. Với Tú Xương , vẫn chưa thấy chắc chắn có bài thơ chữ Hán nào, chỉ thấy thơ Nôm viết bằng các thể loại cổ điển: thơ luật Đường: thất ngôn bát cú, tứ tuyệt; phú; văn tế; câu đối; hát nói; lục bát. Ở thể loại nào Tú Xương cũng tỏ ra là một nghệ sĩ bậc thầy.

Nguyễn Công Hoan suy tôn Tú Xương là bậc thần thơ thánh chữ

Xuân Diệu xếp hạng Tú Xương thứ 5 sau ba thi hào dân tộc (Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương) và Đoàn Thị Điểm

Tản Đà khi còn sống “trong những thi sĩ tiền bối, phục nhất Tú Xương” (Xuân Diệu kể vậy). Tản Đà tự nhận trong đời thơ của mình “mới địch nổi Tú Xương một lần thôi bằng chữ vèo trong bài thơ Cảm thu, Tiễn thu của ông:Vèo trông lá rụng đầy sân. Nguyễn công Hoan cũng kể vậy.

Nguyễn Tuân biểu dương Tú Xương là: một người thơ, một nhà thơ vốn nhiều công đức trong cuộc trường kỳ xây dựng tiếng nói văn học của dân tộc Việt Nam

Với Tú Xương, còn là hiện tượng hiếm trong lịch sử tác gia Việt Nam: Tú Xương Có “môn Phái”, “môn đệ”. Tên của ông là Trần Tế Xương. Có lúc đổi thành Trần Cao Xương. Nhưng đây là chữ xương với nghĩa “thịnh vượng” (còn có nghĩa là đẹp, thẳng). Sách xưa có chữ “Đức giả xương” (người có đức, thịnh vậy). Không phải là xương theo nghĩa xương thịt. Nhưng người đời sau, mấy vị chuyên làm thơ trào phúng đã cố tình đùa nghịch và “xuyên tạc”, gắn cho cái nghĩa xương thịt, để rồi tự nguyện suy tôn Tú Xương (thịt) lên bậc tổ sư, còn mình là môn đệ. Và như thế là lịch sử văn học Việt Nam ở thế kỷ 20 bỗng nhiên có một “môn phái” gồm Tú Xương, rồi Tú Mỡ, Tú Sụn, Cử Nạc và thêm “chi phái”: Tú Poanh, Đồ Phồn cũng là dòng tú, cử, đồ với nhau cả. Vinh dự thay cho vị tổ sư Tú Xương !

Bức tranh hiện thực trong thơ Tú Xương là một bức tranh xám xịt, dường như chỉ có rác rưởi, đau buồn, vì hiện thực của xã hội thực dân – nửa phong kiến là như vậy! Cảm hứng trong thơ Tú Xương hầu như không hướng nhiều về phía phản ánh những cái tốt lành, những cái thuộc về sức sống, về bản lĩnh của dân tộc, của nhân dân, dù có bị ẩn kín xuống nhưng vẫn không bao giờ mai một trong hoàn cảnh lịch sử tang tóc đó. Thi sĩ Tú Xương biết buồn đau trước vận nước vận dân. Với giọng văn châm biếm sâu cay, thơ văn của ông đã đả kích bọn thực dân phong kiến, bọn quan lại làm tay sai cho giặc, bọn bán rẻ lương tâm chạy theo tiền bạc, bọn rởm đời lố lăng trong buổi giao thời.

Vịnh khoa thi Hương

Nhà nước ba năm mở một khoa,

Trường Nam thi lẫn với trường Hà.

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,

Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.

Lọng cắm rợp trời, quan Sứ đến,

Váy lê quét đất, mụ đầm ra.

Nhân tài đất Bắc nào ai đó ?

Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà !

Giễu người thi đỗ

Một đàn thằng hỏng đứng mà trông

Nó đỗ khoa này có sướng không

Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt,

Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng !

Tính trào phúng được đẩy lên mức cao khi Tú Xương vừa phản ánh cái hiện thực vừa như trả đũa lũ quan lại nhũng nhiễu bằng cách giúi đầy phân vào miệng chúng như bài:

Ông Cò

Hà Nam danh giá nhất ông cò

Trông thấy ai ai chẳng dám ho.

Hai mái trống toang đành chịu giột

Tám giờ chuông đánh phải nằm co

Người quên mất thẻ âu trời cãi

Chó chạy ra đường có chủ lo

Ngớ ngẩn đi xia may vớ được

Chuyến này ắt hẳn kiếm ăn to

Đặc biệt bài thơ có một sức khái quát lớn về cả lũ quan lại và văng một tiếng chửi vào Hoàng Cao Khải, tên đại Việt gian cho Pháp thời đó:

Phường nhơ

Bấy lâu chơi với rặt phường nhơ

Quen mắt ưa nhìn chả biết dơ

Nào sọt, nào quang, nào bộ gắp

Đứa bưng đứa hót đứa đang chờ

Mình hôi mũi ngạt không kỳ quản,

Áo ấm cơm no vẫn nhởn nhơ

Ngán nỗi hàng phường khi cúng tế,

Vẽ ông ôm đít để lên thờ

Đề tài người vợ trong thơ của Tú Xương cũng rất được quan tâm và đón nhận. Cuộc đời ông chỉ sống được có 37 năm, nhưng học hành thi cử đến 8 lần mới đỗ Tú Tài, mọi việc ở nhà đều là một tay của bà Tú gánh vác. Chính vì vậy, Tú Xương rất trân trọng vợ mình, ông viết về vợ như một sự tri ân.

Thương vợ

Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.

Sự trân trọng, tri ân ấy còn được ông nâng lên đến mức làm hẳn một bài “Văn tế sống vợ”

Văn tế sống vợ

Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ

Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ

Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo rằng lùn?

Người ung dung, tính hạnh khoan hoà, chỉ một nỗi hay gàn hay dở!

Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bán mười

Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ

Gần xa nô nức, lắm gái nhiều trai

Sớm tối khuyên răn, kẻ thầy người tớ

Ông tu tác cửa cao nhà rộng, toan để cho dâu

Anh lăm le bia đá bảng vàng, cho vang mặt vợ

Thế mà:

Mình bỏ mình đi, mình không chịu ở

Chẳng nói chẳng rằng, không than không thở.

Hay mình thấy tớ: nay Hàng Thao, mai phố Giấy mà bụng mình ghen?

Hay mình thấy tớ: sáng Tràng Lạc, tối Viễn Lai, mà lòng mình sợ?

Thôi thôi

Chết quách yên mồ

Sống càng nặng nợ

Chữ nhất phẩm ơn vua vinh tứ, ngày khác sẽ hay

Duyên trăm năm ông Nguyệt xe tơ, kiếp này đã lỡ

Mình đi tu cho thành tiên thành phật, để rong chơi Lãng Uyển, Bồng Hồ

Tớ nuôi con cho có rể có dâu, để trọn vẹn đạo chồng nghĩa vợ

Trần Tế Xương là cây Đại bút, chữ nghĩa giản dị nhưng điêu luyện, thần tình, đôi khi tục nhưng không thô, phá cách nhưng đầy dụng ý, không chút non nớt tầm thường đúng như Xuân Diệu viết về ông:

Ông nghè ông thám vô mây khói

Đứng lại văn chương một tú tài

Tập tin:Loixua65a.jpg

Bối cảnh xã hội và đất nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, thời kỳ mà Tú Xương sao rất giống thời hiện đại của chúng ta! Từ việc phát triển đô thị hóa ồ ạt đến sự băng hoại về đạo đức lối sống của từng gia đình đã lan tỏa ra toàn xã hội! Con người và xã hội Việt Nam đã thay đổi một cách kinh khủng ở thời kỳ Tú Xương đã sống và nhận thức cũng rất giống thời kỳ của đương đại. Có thể nói Tú Xương là một nhà thơ hiện thực phê phán và vị lại rất xuất sắc. rãnh rỗi , đọc lại những bài thơ của Tú Xương, chúng ta thấy những bài thơ của Tú Xương vẫn còn nguyên tính thời sự.

Một số bài thơ khác của Tú Xương

Thói đời

Người bảo ông điên, ông chẳng điên

Ông thương, ông tiếc, hóa ông phiền.

Kẻ yêu người ghét, hay gì chữ

Đứa trọng thằng khinh, chỉ vị tiền.

Ở bể ngậm ngùi cơn tới lạch

Được voi tấp tểnh lại đòi tiên.

Khi cười khi khóc khi than thở

Muốn bỏ văn chương học võ biền.

Đi thi

Tập tễnh người đi tớ cũng đi,

Cũng lều cũng chõng cũng vào thi.

Tiễn chân, cô mất hai đồng chẵn,

Sờ bụng: thầy không một chữ gì!

Lộc nước còn mong thêm giải ngạch

Phúc nhà nay được sạch trường qui.

Ba kì trọn vẹn thêm kì nữa,

Ú ớ u ơ ngọn bút chì.

Chúc Tết

Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:

Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu

Phen này ông quyết đi buôn cối

Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu

 

Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu:

Trăm, nghìn, vạn mớ để vào đâu?

Phen này, ắt hẳn gà ăn bạc

Đồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu.

 

Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang:

Đứa thì mua tước; đứa mua quan.

Phen này ông quyết đi buôn lọng,

Vừa bán vừa la cũng đắt hàng.

 

Lẳng lặng mà nghe nó chúc con:

Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.

Phố phường chật hẹp, người đông đúc

Bồng bế nhau lên nó ở non.

 

Bắt chước ai ta chúc mấy lời

Chúc cho khắp hết ở trong đời

Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước

Sao được cho ra cái giống người.

Sư ở tù

Quảng đại từ bi cũng phải tù

Hay là sư cũng vụng đường tu ?

Tụng kinh cứu khổ ba trăm quyển

Ý hẳn còn quên một phép phù ?

Tiến sĩ giấy

Ông đỗ khoa nào, ở xứ nào

Thế mà hoa, hốt, với trâm, bào ?

Mỗi năm mỗi tết trung thu đến

Tôi vẫn quen ông, chẳng muốn chào.

Tự cười mình

Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành

Mặt thời lơ láo, mắt thời xanh.

Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó

Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh.

 

Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ

Rượu chè trai gái đủ tam khoanh.

Thế mà vẫn nghĩ rằng ta giỏi

Cứ việc ăn chơi, chẳng học hành.

 

Lúc túng toan lên bán cả trời

Trời cười: thằng bé nó hay chơi…

Cho hay công nợ là như thế

Mà vẫn phong lưu suốt cả đời.

 

Tiền bạc phó cho con mụ kiếm

Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi.

Còn dăm ba chữ nhồi trong ruột

Khéo khéo không mà nó cũng rơi.

Sông Lấp

Sông kia rày đã nên đồng

Nơi làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai

Vẳng nghe tiếng ếch bên tai

Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò

Buồn Thi Hỏng

Bụng buồn còn muốn nói năng chi?

Đệ nhất buồn là cái hỏng thi.

Một việc văn chương thôi cũng nhảm

Trăm năm thân thế có ra gì !

Được gần trường ốc vùng Nam Định

Thua mãi anh em cánh Bắc Kỳ.

Rõ thực nôm hay mà chữ tốt

Tám khoa chưa khỏi phạm trường qui

Nhớ Bạn Phương Trời

Ta nhớ người xa cách núi sông

Người xa xa lắm, nhớ ta không?

Sao đang vui vẽ ra buồn bã?

Vừa mới quen nhau đã lạ lùng!

Khi nhớ nhớ cùng trong mộng tưởng,

Nỗi riêng riêng cả đến tình chung.

Tưong tư lọ phải là mưa gió

Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng

Đi Hát Mất Ô

Đêm qua anh đến chơi đây

Giày chân anh dận, ô tay anh cầm.

Rạng ngày sang trống canh năm

Anh dậy, em hãy còn nằm trơ trơ.

Hỏi ô, ô mất bao giờ,

Hỏi em, em cứ ưỡm à không thưa.

Chỉ e rày gió mai mưa

Lấy gì đi sớm về trưa với tình?

Chữ Nho

Nào có ra gì cái chữ nho !

Ông nghè, ông Cống cũng nằm co.

Chi bằng đi học làm ông Phán

Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò !

Than Đạo Học

Đạo học ngày nay đã chán rồi,

Mười người đi học, chín người thôi

Cô hàng bán sách lim dim ngủ,

Thầy khoa tư lương nhấp nhổm ngồi.

Sĩ khí rụt rè, gà phải cáo,

Văn trường liều lĩnh, đấm ăn xôi.

Tôi đâu dám mĩa làng tôi nhĩ ?

Trình có ông tiên thứ chỉ tôi.

Ông Tiến Sĩ Mới

Tiến sĩ khoa này đỗ mấy người?

Xem chừng hay chữ có ông thôi!

Nghe văn mà gớm cho văn nhỉ

Cờ biển vua ban cũng lạ đời!

Khoa Thi

Nhà nước ba năm mở một khoa,

Trường Nam thi lẫn với trường Hà.

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,

Ậm ọe quan trường miệng thét loa.

Xe kéo rợp trời: quan sứ đến;

Váy lê phết đất, mụ đầm ra .

Sao không nghĩ đến điều tu sỉ ?

Ngảnh cổ mà xem lại nước nhà.

Nguồn : Wikipedia

 

 

 

 

 

Bài Mới Nhất
Search