T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không Phí Ngọc Hùng: Góp nhặt một vài khuất sử

 

clip_image002

Lê Quý Đôn (1726-1784)

Là người mụ sử sa đà với một vài khuất sử đang ẩn khuất đâu đây…Bởi sử nhà cả ngàn năm trước, mụ sử tôi nào có thể…”nhìn thấy sử” rõ mồn một hình thù cổ lỗ ra sao?!

Thảng như chuyện người viết sử dưới đây…

Thời Nga Hoàng Nikolai (1547-1721), công tước Yelikiy Knyaz là sử gia nghiêm túc. Ông ngồi trên tầng ba của công thự để viết sử. Vì gò sử từ sáng đến giờ nên mỏi mệt, ông ra đứng trước hàng hiên để thảnh thơi đôi chút trước khi trở lại công việc sử học. Bất ngờ nghe tiếng chân người trên đường đuổi nhau, một người cầm khẩu súng trường Mosia, hô hoán: “Bắn chết thằng Do Thái đó đi”. Ông bảo bà quản gia xuống xem sao. Lát sau bà trở lên thuật lại khác hẳn những gì ông nhìn thấy. Ông nghĩ chuyện ngay trước mắt còn sai lạc huống chi sử kiện cả trăm năm trước. Sau đó sử gia Yelikiy Knyaz quẳng bút, không viết sử nữa.

Đang ngày trời tháng Bụt, khi trưa phơi sách khi chiều tưới cây, chả nhẽ lại…quẳng bút. Chợt nhớ cụ Lê Quý Đôn viết truyện Lê Quý Đôn bị Nguyễn Trãi quở trách, cụ và cụ Nguyễn Trãi hai người sống cách nhau hơn ba trăm năm mà cụ Lê Quý Đôn…hoang tưởng đến như thế.

Bèn trộm nghĩ hay là mài óc viết hư cấu như cụ nhưng lại sợ cụ Lê Quý Đôn…quở trách thì khốn. Ngòai trời đang có sấm chớp linh đình. Hốt nhiên điện phụt tắt. Tối thui. Đột nhiên có điện trở lại. Tôi muốn nhẩy dựng đứng lên vi có một đai nhân mặc áo quan cách, quấn khăn, để râu chòn, quan đang ngồi ngay trước mặt và từ tốn:

– Bản chức là Doãn Hậu Lê Quý Đôn đây.

Tôi ớ ra gì mà tôi…hoang tưởng quá sức vậy nên lập cập:

– Quan…Quan Toản tu quốc sử

– Quan cách gì. Ngộ Không tiên sinh rõ vẽ chuyện.

Cụ gần gũi thân quen với tôi thế đấy, bởi chưng cụ Lê Quý Đôn bản quán cùng đất đồng chua nước mặn với tôi ở Thái Bình. Sau khi đỗ đại khoa, cụ là Toản tu quốc sử, được bổ làm Tổng tài Quốc sử quán. Sử sách của cụ gồm Đại Việt thông sử, Quốc triều tục biên, v…v….

Mặc dù gần gũi qua…địa danh lững lờ vậy, nhưng với sử sách, mụ sử tôi nắm bắt được từ sử gia Yelikiy Knyaz không nhìn thấy sử kiện cả “trăm năm trước”: Trong khi Yelikiy Knyaz bỏ bút thì cụ Lê Quý Đôn viết khỏe như vâm. Tuy nhiên với sử biên niên, cụ sống thời hậu Lê, Lê Lợi thời tiền Lê, sử kiện ắt có nhiều khuất tất là cái chắc. Huống chi Nguyễn Huệ nhè nằm tuốt luốt mấy trăm sau nên mụ sử tôi đồ là sử liệu có những khuất lấp này nọ. Nhưng cụ là sử quan, với văn kiến súc tích, sở kiến cao minh để tôi kiến văn sở thị thì hay biết mấy. Bèn thưa với cụ rằng mụ sử tôi đọc ở đâu đó cụ ngự sử văn đàn như thế nàyi để cụ thông sử cho..

Theo Lê Quý Đôn trong Đại Việt thông sử: Quân Minh biết Chí Linh là chỗ Lê Lợi lui tới, đem binh vây đánh. Vương hỏi các tướng rằng : Có ai làm được như người Kỷ A Tín chịu chết thay cho Hán Cao Tổ không? Bấy giờ có Lê Lai xin mặc thay áo ngự bào, ra trận đánh nhau với giặc. Quân Minh tưởng thật, xúm lại bắt sống Lê Lai dẫn về thành Đông Quan giết chết.

Nghe thủng rồi, không trả lời ngay, cụ móc trong bị vải nhang nhác như cái túi Tây ba lô ra hai hòn đá cọc cạch, một bó bùi nhùi rơm, và cái…không phải cái điếu bát, điếu cày mà là cái điếu ống (xưa các quan ta đi vi hành, vì ngồi võng nên dùng cái điếu ống này). Cụ làm một hơi thuốc lào cho nhân sinh quý thích chí rồi thong thả thông điếu, thông sử…

Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú kể: “Lúc mới khởi binh, bị tướng Minh vây ngặt, vua hỏi các tướng, bàn xem có ai đổi áo đánh lừa giặc, như Kỷ Tín ngày xưa. Ông xin đi. Bèn mặc áo bào, đem quân xông vào hàng trận, đánh đến đuối sức, bị bắt

Theo bản chức, điều ngạc nhiên các sử quan về sau đều chép truyện Lê Lai liều mình cứu chúa, trong khi sử quan đời Lê không ghi truyện này. Sự thực ra sao? Quân Minh có giết Lê Lai không? Theo bản chức chắc chỉ có Nguyễn Trãi. Vì…

Sách Lam Sơn thực lục của Nguyễn Trãi được chính Lê Lợi đề tựa, kể rằng:

Bấy giờ thế giặc đang lớn mạnh, vua nói: Ai có thể mặc áo bào thay ta đem quân đi đánh thành Tây Đô? Các tướng đều không dám nhận, chỉ có Lê Lai. Nguyễn Trãi cho biết Lê Lai bị quân Minh bắt sống và bị tra tấn dã man.

Hoàn cảnh của Nguyễn Trãi không cho phép ông viết sự thật lúc Lê Lợi còn sống. Bản chức cho là vậy, tôn ý các hạ thấy sao? Vì…Đại Việt sử ký toàn thư chép :Giết Tư mã Lê Lai, tịch thu gia sản, vì Lai cậy có công đánh giặc, nói ra những lời ngạo mạn nên bị giết.

Rõ ràng Lê Lợi hạ lệnh giết Lê Lai. Ngô Sĩ Liên, sử thần nhà Lê, chép lại cho hậu thế một sự kiện lịch sử. Ông giữ đúng tác phong của một sử gia cẩn trọng. Không hiểu sao sử quan đời sau lại quên chi tiết này của ông nhận xét về Lê Lợi: Vua dấy nghĩa binh đánh giặc Minh, 10 năm mà thiên hạ đại định. Đến khi lên ngôi, định luật lệ, mở khoa thi, lập phủ huyện. Có thể gọi là có mưu lớn sáng nghiệp. Song đa nghi hay giết quần thần tôi trung, đó là chỗ kém.

Đến tao đọan này, cụ cứ “bản chức” với “các hạ” khiến mụ sử tôi càng bí sử thêm vì không biết Lê Lợi là người thế nào? Gốc gác ra sao? Là kẻ hậu sinh nhè vào thời hậu hiện đại, nên mạo muội với cụ theo mụ sử tôi góp nhóp thi…

BBC phỏng vấn giáo sư người Mỹ Keith Weller Taylor, giảng dạy lịch sử Việt Nam tại đại học Cornell, Hoa Kỳ. Theo ông nhiều người có tên trong lịch sử như Hai Bà Trưng, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Lợi đều ở vùng miền núi. Ông dựa vào năm 1925, tạp chí Nam Phong cho hay những thủ lãnh miền núi được gọi là quan lang gồm Hùng Vương, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh… Quan lang là tước hiệu của người lãnh đạo người Mường.

Cụ cười hun hút mà rằng sử phẩm này cụ biết từ đời tám hoánh nào rồi. Mặc dù cụ dậy vậy, mụ sử tôi cũng đắng đãi thêm một ông cố đạo Tây nữa cho óach…

Linh mục Léopld Cadière là một sử gia và nhà ngôn ngữ học, trong biên khảo Dialectes du Annam (1902) kết luận hai sắc dân Mường-Việt vốn cùng một chủng tộc nhưng chia làm hai theo cổ thuyết con rồng cháu tiên: Một đằng (Lạc Long) ở đồng bằng, duyên hải. Một đằng (Âu Cơ) ở cao nguyên, miền núi Bắc Việt. Tên Âu Cơ là tên Việt hoá. Tên Mường là Ngu Cơ.

Được thể mụ sử tôi nói chữ: Lạc Long, Âu Cơ là huyễn sử với huyễn là ảo không có thật. Còn các cụ vua ta là người Mường là huyền sử, tức mơ huyền chưa rõ rệt. Mụ sử tôi trình cụ dật sử sau đây có thể “đúng” có thể “sai” với người Mường, sau này có thể là…chính sử…

Theo Tam Quốc diễn nghĩa, Gia Cát Lượng thu phục Mạnh Hoạch, lúc rút quân dừng lại sông Lư Thủy, làm lễ tế cho các tử sĩ trong cuộc Nam chinh, trong bài văn tế có câu:

Từ khi giặc xâm lăng cõi Thục
Binh khởi đất Mường

Đất Mường ở đây cho thấy Man vương (Man-Mường) Mạnh Hoạch là người cầm đầu các tộc người Mường Mán ở nước ta. Sông Lư Thủy có thể là sông Lô, Lư và Lô là 2 cách phát âm khác nhau của cùng một chữ, chỉ dòng sông chảy vào Hà Giang ngày nay. Khổng Minh từ Vân Nam vượt sông Lô, tiến vào bình Mạnh Hoạch ở vùng rừng núi tây bắc nước ta (Cao Bằng). Trong thần tích Hương Ngải cũng nói rõ khi Lưu Bị lên ngôi Hán Trung vương, khi đó nước Việt ta thuộc về triều Thục Hán của Lưu Bị. Chứ không sai bét theo sử cũ nước ta thuộc nhà Ngô của Tôn Quyền ở Giang Đông. Hoặc giả như thiếu gì sử gia ta bắt quàng làm họ: Triệu Đà là vua nước ta. Vì nước ta sau khi Mạnh Hoạch đầu hàng Khổng Minh, nước ta thuộc triều Thục. Như vậy có thể Lưu Bị được sử Việt chép dưới tên…Lý Bí hoặc…Lý Phật Tử.

Nghe thủng rồi làm như tương đắc, tương bần lắm, cụ xắng xả: Hơn 9000 người Đông Kinh (Thăng Long) hợp tác với người Minh. Nguyễn Trãi cố thuyết phục họ theo Lê Lợi. Nhưng họ nhìn Lê Lợi như một kẻ nhà quê. Lê Lợi là người nhà quê, là người Mường vẫn còn nhiều khuất tất? Bởi bất sĩ hạ vấn, là chả mất sĩ diện gì phải hỏi…Cụ búi bấn như chuyện Tam Quốc chí, Lưu Bị tam cố thảo lư tìm Khổng Minh, thì Nguyễn Trãi hai lần tìm Lê Lợi :

– Ấy đấy thưa các hạ, theo Tang thương ngũ lục của Phạm Đình Hổ kể rằng Nguyễn Trãi (và Trần Nguyên Hãn) đến tìm Lê Lợi để mưu đồ đại sự. Lần đầu gặp ngày giỗ, Nguyễn Trãi thấy Lê Lợi là hào trưởng miền núi, vừa cắt thịt ăn ngồm ngoàm vừa uống rươu nên thất vọng bỏ về. Lần thứ nhì trở lại, gặp Lê Lợi thức khuya nghiền ngẫm binh thư, ông mới vào ra mắt.

Thấy tôi vừa nghe vừa dòm cái túi Tây ba lô, cụ tặc lưỡi bày tỏ khí vị:

– Bản chức thửa cái của nợ này trên đại lộ Lê Lợi. Ở đây đại lộ Lê Lợi và đường Lê Lai cùng “nằm gai nếm mật”, suýt oằn mình đụng đầu nhau tại bùng binh…chợ Bến Thành.

***

Cụ đang ngồi với tôi ở đất tạm dung luận sử…mà hồi nãy tôi trộm vía sau lưng cụ : Nguyễn Huệ ở mấy trăm sau chắc cụ chả thông hanh mấy. Nay cụ vạy vọ Lê Lợi, Lê Lai suýt đụng đầu ở chợ Sài Gòn. Nhè vào thiên niên kỷ 21 lại có chuyện Tôn Ngộ Không đằng vân giá vũ sao! Tôi nắn no với cụ về chuyện phong thần ít thấy này, cụ cười cái bép…

– Chẳng dấu gì các hạ, bản chức là người thiên cổ, là người cõi trên ở chốn thiên đàng. Bản chức giống thiên thần suốt ngày bay tới bay lui. Lắm khi bản chức bay tới cả nghìn năm trước, buồn buồn bay lui lại trăm năm sau mà chữ nghĩa gọi là “lỗ hổng thời gian” ấy mà.

Vồ được chuyện cụ bay tới cả…ngàn năm mây bay mà mụ sử tôi nào có thể…”nhìn thấy cổ sử” hình thù cổ quái như thế nào?! Mà chả cần ngàn năm, đếm trên đầu ngón tay sau Lê Lợi khỏang…360 năm là tới Nguyễn Huệ. Quên tiệt cụ là…cụ Lê Quý Đôn, tôi cơm niêu nước với cụ viết về Nguyễn Huệ chả ngon ăn cho mấy. Cụ dòm tôi bằng nửa con mắt rùa…

– Chuyện về Nguyễn Huệ bí ngô bí khoai lắm. Các hạ để bản chức diễn sử từ đầu chí cuối cho ra ngô ra khoai nha.

Nói rồi cụ cà hai hòn đá vào nhau cọc cạch cho…tóe khói, tóe lửa vào con cúi rơm. Cụ mồi lửa cái lạt tre tre để mồi thuốc cho cái điếu ống. Cụ vít cái xe điếu trúc bịt đồng cong vòng xuống làm một hơi cho đã điếu để thông điếu, thông sử cho mụ sử tôi:

Dựa vào Thái Văn Kiểm: Ông tổ 4 đời Nguyễn Huệ họ Hồ gốc Nghệ An. Sau Hồ Phi Phúc vào Bình Định sinh 3 con trai, vì nhớ đất cũ có núi Đại Nhạc, Đại Huệ, và Lữ Sơn nên ông lấy họ Nguyễn vợ mình đặt tên con là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ.

Nhưng gần đây qua nhà sử khảo kỳ cổ không phải là 3 mà là 4…

Nguyễn Quang Hoa (mất sớm, có con là Nguyễn Quang Hiển), Nguyễn Quang Nhạc, Nguyễn Quang Bình (tức Nguyễn Huệ), và Nguyễn Quang Thái (tức Nguyễn Lữ).

Tác giả Tạ Chí Đại Trường trong một biên khảo tương đối đầy đủ về gia đình Nguyễn Nhạc cũng nêu lên những bất nhất trong sách vở về thứ bậc và nguồn gốc anh em Tây Sơn.

Đến trần ai khoai củ này tôi ớ ra vì há có cái lý ấy sao, cụ mắng tôi như vặt thịt là đa thư loạn mục, là đọc nhiều quá đâm rối mắt nên…hóa mụ. Vì.theo Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn viết: Việp Quận Công còn cho em Nguyễn Văn Nhạc là Nguyễn Văn Bình làm chức Tướng-quân Tiền-phong”. Với nhà sử khảo kỳ cổ qua một tài liệu của Nguyễn Huệ gửi lên Càn Long năm Mậu Thân (1788) : Khi ông sai quan trấn thủ Văn Uyên là Hoàng Đình Cầu và Nguyễn Đình Liễn đem lễ vật đi tiến cống cũng đã đóng dấu tên là Nguyễn Quang Bình”.

Đợi cụ xong chuyện tên của cụ vua ta, mụ sử tôi xuôi dòng sử Việt thời cận đại…

Tác giả Bùi Thiết trong Đối thoại với sử học: “Cuộc hành quân của Quang Trung ra Bắc năm 1789. Ông ấy đi thế nào ra được Hà Nội nhanh như vậy? Từ Huế ra Hà Nội đi bộ mất khoảng 40 ngày vậy mà ông ấy chỉ đi 20 ngày. Sáu trăm cây số mà đi bộ như thế tức là một ngày đi 30 cây số. Tôi nghĩ rằng các đại quân của Napoléon và những danh tướng lừng lẫy châu Âu đi bộ tối đa, ngày khoảng 15 cây số. Vì vậy tôi cho rằng Quang Trung đi 40 ngày nếu một ngày đi 15 cây số. Tuy nhiên voi đi chậm hơn người, cứ 3 ngày phải cho nó nghỉ 1 ngày vì như người vậy, nó…mệt. Khổ quá, lại thêm chuyện Quang Trung cho cáng võng nữa…

Tôi đã cáng người nhà lên huyện khám bệnh. Thằng nằm trên võng đã khổ mà hai thằng cáng cũng khổ. Cùng chiều dài con đường lên huyện tôi thấy đi bộ nhanh hơn cáng võng…”

Tôi thưa với cụ chuyện hai người cáng võng một người của cụ vua ta cũng như thế đấy. Thế là cụ mắng cho rỗ mặt vì chuyện này của Ngô văn gia phái. Theo cụ, Hoàng Lê nhất thống chí là lịch sử tiểu thuyết viết theo truyện “Tam quốc diễn nghĩa” của Tàu. Sách miêu tả những nhà nho ẩn dật như Giáo Hiến, Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, được đưa vào Hoàng Lê nhất thống chí trở thành “nguyên mẫu” của Khổng Minh, Bàng Thống, Từ Thứ. Dần dà người viết, người đọc coi là…thật, rồi đến trăm năm sau trở thành sự thật lịch sử.

Cụ quơ cái điếu ống làm một bi thuốc lào nữa và nhả khói…

Số lượng quân của bên phía người Trung Hoa, theo sử liệu của triều đình nhà Thanh trong đó giữ lại tất cả những thư từ, chiếu biểu của Càn Long và quân cơ liên lạc với các nơi.. Họ luôn luôn nhắc lại con số trong Đại Thanh thực lục là một vạn quân mặt đông và 8 ngàn quân mặt tây đưa con số 18.000 cho cả hai mặt. Vì vậy số quân Trung Hoa được gửi sang thấy rằng không nhiều như những sử gia ta viết hơi quá với con số…50 chục vạn.

Cụ vừa ho “khục khục” như cóc say thuốc lào, cụ vừa bỗ bã trong khói thuốc…

Trong trận Ất Dậu, Sầm Nghi Đống không thắt cổ tự tử trên cây đa mà bị tử thương trong trận Ngọc Hồi. Qua lời người có chức vụ và tên Thủ bị Lao Hiển bị bắt làm tù binh, khi được trao trả đã khai với quân cơ nhà Thanh: ”Thượng tổng binh, Vương tham tướng (tức Sầm Nghi Đống) bị qn giặc y, sau bị chém đứt một cánh tay, ngã ngựa rồi bị giết”.

Bởi nghe chuyện cụ vua Quang Trung sang Tàu là chuyện có thật…Thế nên mụ sử tôi vấn cụ sử liệu có những khuất lấp ra sao. Cụ trích lục đề văn…

Người dẫn đầu phái bộ ta sang dự lễ bát tuần đại khánh của Càn Long chính là Quang Trung. Tuy nhiên vì tình hình còn nhiều bất trắc, quân sư Ngô Thì Nhậm của ông tung ra “màn khói” người đi qua Tàu là giả vương cốt để cho những kẻ thù nghịch trong nước e dè những hư hư thực thực mà không dám vọng động trong khi vua Quang Trung đang ở bên Tàu. Vì nếu là gỉa vương, như Phan Huy ích đã tiên liệu: Lê Chiêu Thống và cận thần khi ấy đang ở bên Tàu sẽ cho Càn Long hay ngay. Ngòai ra, trước đó phái đòan nhà Thanh khi sang Thăng Long phong vương cho Nguyễn Huệ, họ cũng đã biết mặt Nguyễn Huệ Quang Trung.

Sau lễ Bát tuần đại khánh, bức tranh do Càn Long sai vẽ truyền thần tặng vua Quang Trung có ghi rõ: An Nam quốc vương Nguyễn Quang Bình. Khuất sử cho đến khi ấy, sử ta và những nhà biên khảo ít ai biết tên thật của Nguyễn Văn Huệ là Nguyễn Quang Bình.

Va vào đầu bức tranh truyền thấn, nói cho ngay hình dáng cụ vua ta, tôi chỉ được biết qua ông Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến; “Tóc quăn, mặt mụn đầy, tiếng nói sang sảng như chuông. Còn chuyện bức vẽ tôi cũng đã tùng nghe rồi, nên tôi khoe nhắng với cụ chuyện bên lề: Thọat kỳ thủy theo sử ta Càn Long tặng cho cụ vua ta bức tranh truyền thần của chính Càn Long để làm kỷ niệm. Người thời VNCH ngỡ ấy là tranh vẽ vua ta nên in giấy bạc 200 đồng. Ấy là bức tranh vẽ Càn Long cưỡi ngựa được họa sĩ Ý tên Giuseppe Castiglione vẽ năm 1739.

clip_image004clip_image006clip_image008

Mới đây người Hà Nội tên Trần Quang Đức tìm được bức truyền thần vẽ cụ vua ta có ghi rõ: An Nam quốc vương Nguyễn Quang Bình là thế. Như cụ dậy vậy.

Đợi tôi huếch xong, cụ gọ gạy tôi có hay chuyện ta đòi đất Quảng Đông Quảng Tây chăng? Tôi chưa kịp trả lời : “Dạ biết“, cụ nói không phải…Quảng Đông Quảng Tây mà là:

Trong di văn của Ngô Thì Nhậm có tờ biểu của vua Quang Trung gửi lên Càn Long yêu cầu nhà Thanh: Trả lại 7 châu thuộc Hưng Hoá. Khi tờ biểu gửi qua cho Phúc Khang An thì ông này được Càn Long sai đi chiến trận ở phía nam Tây Tạng là một bộ lạc thuộc Nepal. Cuộc chiến kéo dài từ năm 1791 đến 1792 mới chấm dứt nên việc đòi đất không tiếp tục.

Cụ rối tinh thêm: Càn Long năm 1769 nhằm vào thời vua Lê Hiển Tông, thổ mục Hoàng Công Toản cai quản đất Hưng Hóa chạy qua Vân Nam đem dâng cho nhà Thanh 7 châu Hưng Hóa: Tung Lăng, Lễ Tuyền, Hoàng Nham, Tuy Phụ, Hợp Phì, Lai Châu, Khiêm Châu. Châu đây nhỏ nhưlàng hay …động (bản làng). Việc mất đất từ đời Mạc (bốn động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát), đời Lê (ba châu Vị Xuyên, Bảo Lạc, Thuỷ Vĩ). Đến đời Tây Sơn đòi lại…7 cái làng còn chưa được huống chi…2 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, thưa các hạ.

Từ đòi Trả lại 7 châu thuộc Hưng Hoá, cụ bắt qua “Cống người vàng, cống voi”…

Phúc Khang An lại ra điều kiện đòi triều Tây Sơn phải đúc người vàng đem cống như các triều đại trước. Ngô Thì Nhậm viết cho Phúc Khang An bức thư: “Nay đại nhân theo lệ cũ của Trần, Lê, Mạc bắt cống người vàng, như vậy chẳng hóa ra vua nước tôi bị coi như hạng ngụy Mạc hay sao?. Như thế cũng bị coi như việc nhà Trần bắt Ô Mã Nhi, nhà Lê giết Liễu Thăng hay sao?.Mong đại nhân miễn cho nước tôi lệ đúc người vàng để tiến cống.

Cụ một ngắn hai dài trước khi Ngô Thì Nhậm lên ải Nam Quan, Phúc Khang An thông báo nước ta muốn “đấu hàng“ (cầu hòa) phải cống voi và Nguyễn Huệ phải lên Nam Quan tạ tội. Sau đó xin cầu phong, Phúc Khang An lại đòi Nguyễn Huệ cũng phải đích thân lên Bắc Kinh. Vua Quang Trung không muốn lập lại hành động mất quốc thể nên biện báo sẽ đưa một nhân vật thân thích “tuy đại do thân” (thay mặt như chính mình) đem tờ biểu cầu phong sang Bắc Kinh. (Nguyễn Quang Hiển thay mặt đem biểu tiến kinh)

Theo cụ, vua thời trước đích thân sang chầu vua Tàu chỉ xảy ra một lần vào đời Lý khi lên Nam Quan làm lễ thụ phong. Còn cống “một“ hay “hai“ người vàng tùy theo triều đại, như đời Lê cống một tượng người vàng,.đời Trần cũng vậy. Việc triều cống hai tượng người bằng vàng ròng bắt đầu vào đời Minh để thế mạng cho Liễu Thăng và Lương Minh.

Gì chứ chuyện cống người vàng, tôi…bắt cóc bỏ đĩa cái một, nên len chân vào chuyện theo lệ cũ nhà Lê cống hai tượng không cúi đầu. Nhà Mạc phải cống hai tượng cúi đầu thay cho Mạc Đăng Dung, Mạc Phúc Hải cúi đầu tạ lỗi vua Tàu vì tội đã cướp ngôi nhà Lê. Thế là chuyện cống voi, cống người vàng…êm ru bà rù. Chợt nhớ cụ dậy Hoàng Lê nhất thống chí vẽ chuyện Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích là ‘’âm bản’’ của Khổng Minh, Phụng Sồ.

Dẫn chứng thì Phan Huy Ích vì Càn Long nể trọng nên được ban mũ áo hàng tam phẩm. Ngòai ra sau lễ Bát tuần đại khánh, Càn Long cho họa sĩ vẽ chân dung ông cùng lúc với vua Quang Trung. Bức truyền thần này được thờ tại nhà từ đường họ Phan ở làng Thuỵ Khuê, nhưng bị thất lạc vì binh lửa, chỉ còn lưu lại bức hình ở bìa quyển Chinh phụ ngâm bị khảo của Hòang Xuân Hãn. Được thể tôi một tấc tận giời quân sư Ngô Thì Nhậm của cụ vua Quang Trung ta nào khác gì Khổng Minh quân sự của Lưu Bị

Nghe rồi làm như lãng tai nên không nghe, cụ hấm húi thời Nguyễn: Triều đại Quang Trung chấm dứt, 60 năm sau, Bùi Đình Trí dâng sớ lên Tự Đức xin viết về thời Quang Trung rồi lại thôi. Có thể hồn ma bóng quế hoạn quan Tư Mã Thiên còn hẻo lánh trên những trang sử nhà Nguyễn…Vì vậy chữ nghĩa viết về nhà Tây Sơn vẫn còn bị “cầm tù” trong Quốc sử quán nhà Nguyễn. Tuy nhiên nói thì nói cho đúng: sử nhà Nguyễn qua tập Trịnh Nguyễn diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm không nói gì nhiều về nhà Lê, nhà Tây Sơn. Ngay cả Tây Sơn ai tư vãn truyện của Vũ Đình Ninh cũng vậy. Ấy là truyện hư cấu của tác giả qua một giấc mơ ở núi Bà về cuộc đời bà Ngọc Hân công chúa. Cụ tặc lưỡi một cái ‘’tách’’ như thạch sùng kêu: ‘’Tây Sơn ai tư vãn truyện’ là chuyện thơ nên…dài hơn truyện Kiều đúng…hai câu.

Nói xong, cụ lấy hai hòn đá cọc cạch cọ vào nhau cái ’’cạch’’ tóe lửa, và tiếp…

Nguyễn Quang Thùy theo cha đi dự lễ Bát tuần đại khánh, Càn Long hạ sắc thư ban cho danh hiệu “thế tử”. Vì Nguyễn Quang Tỏan là anh lớn ở lại Nghệ An để lo việc nước. Sau vua Quang Trung cho biết Nguyễn Quang Thùy không phải con ruột nên Càn Long lấy lại “ân huệ” trao cho Nguyễn Quang Tỏan, là con của chánh cung hoàng hậu. Qua thư của giao sĩ Girard gửi giáo sĩ Boiret: Nguyễn Quang Thùy là con của một nàng hầu của vua Quang Trung.

Rít một hơi, thở ra khói, cụ gật đầu tắp lự: Nhờ giáo sĩ Girard, cụ mới hay vua Quang Trung có…7 vợ. Cụ thở ra: Ấy vậy mà không có ai là người Chàm trong 7 bà vợ của ông.

Nghe cụ vua ta có vợ, tôi ngẫm nguội gần nửa đời cụ vua ta đánh đông dẹp bắc lấy đâu ra thì giờ để lấy tới 7 bà. Ấy cũng là một ẩn khuất của bài phiếm sử này. Nhất là câu bỏ lửng của cụ: “Không có ai là người Chàm“ trong 7 bà vợ. Nghe lạ! Nhưng chưa kịp rõ mồm hỏi thì cụ bỏ hai hòn đá cọc cạch và cái cúi rơm vào túi vải và hỏi mụ sử tôi có thêm thắt gì cho có chiều dầy lịch sử chăng? Trộm nghĩ thời Tây Sơn chỉ cách đây mấy trăm năm, hẻo quá. Trong khi đang căng óc nặn chữ véo câu, cụ lại cụ bỏ gói thuốc lào vào túi Tây ba lô…Biết cụ sắp về với cõi trên có thiên thần bay ngang bay dọc đến chóng mặt nên tôi lóng chóng:

– Xin hỏi tiên sinh chứ…Chứ trên thiên đàng vui không?

Cụ đáp:

– Lên chơi thì được, ở lâu chán lắm!

Ắt hẳn cụ chán mụ sử tôi rồi, hay…cụ và mụ sử tôi cả hai đều chán nhau cũng nên…Nên cụ kết sử để kết thúc dùm tôi chuyện Góp nhặt một vài khuất sử

– Đến năm 1988 có 1.623 công trình viết về nhà Tây Sơn đầy rẫy những khuất lấp và gần như sử phẩm nào họ đều vay mượn từ Hoàng Lê nhất thống chí. Sử viết về Lê Lợi, họ dựa dẫm vào Đại Việt sử ký tòan thư có nhiều khuất sử…

Đúng lúc tôi lấy ngắn nuôi dài: cho đến lúc này mụ sử tôi…mụ ra thời Lê Lợi, Nguyễn Huệ có ba ngẫu sự: Một là cả hai đều có chuyện “giả vương”…lững thững đi vào chính sử. Vì cho đến nay ít ai hay biết cụ vua ta đi Tàu là Quang Trung thật qua nhà sử khảo kỳ cổ. Hai là Lê Lợi là người Mường, với nhà sử khảo kỳ cổ: Nguyễn Huệ là người Chàm. Ba là qua tài liệu của các nhà truyền giáo Dòng Tên ở La Mã thì Nguyễn Huệ mắt như đèn pha, Lê Lợi, qua Phạm Đình Hổ, tôi…mụ chứng ra Lê Lợi là hào trưởng miền núi, mắt trắng như con tinh

Về thân thế cụ vua ta, Tạ Chí Đại Trường viết: “Trong biểu văn trần tình Nguyễn Huệ khẳng định không có liên hệ quân thần với nhà Lê mà chỉ có ràng buộc hôn nhân (với công chúa Ngọc Hân). Nguyễn Huệ cũng nhắc đi nhắc lại gia đình ông đã chín đời” vào đất Tây Sơn và đôi khi tiết lộ mình thuộc hoàng tộc Chiêm Thành”. Vời nhà khảo sử kỳ cổ: khi gặp Càn Long trong lễ bát tuần đại khánh, cụ vua ta tâm sự vụn ông gốc Chiêm Thành. Với Càn Long, ông luôn luôn xưng là kẻ bạch đinh (nguyên bản bố y là áo vải, với nghĩa không có quan tước, quần áo không có phẩm phục). Cụ vua ta nói quanh là “hòang tộc Chiêm Thành” để phủ nhận mọi liên hệ với “triều đình An Nam”, và độc lập với Đàng Ngòai. Những chuyện trò trong lúc trà dư tửu hậu, một là cụ vua ta không phủ nhận với Càn Long ông họ Nguyễn. Vì chính Càn Long cho ghi trên bức truyền thân: An Nam quốc vương Nguyễn Quang Bình, với ‘’Nguyễn’’ từ họ mẹ gốc Bình Định, bố họ “Hồ” gốc Nghệ An. Nếu như ông là…người Chiêm Thành thì phải có tên Chàm. Nhưng không. Vì người Chàm gọi ông với tên: vua Hồ (Po Hồ). Hai là cụ vua ta không chối bỏ ông là người An Nam rặt vì rõ ràng cụ vua ta đâu có…vợ Chàm.

Chưa kịp thưa thốt với cụ những gì để có chiều dầy lịch sử thi…Thì sấm chớp đùng đùng ngòai Thạch trúc gia trang. Hốt nhiên trong nhà điện phụt tắt. Tối thui. Rồi có điện trở lại.

Cụ…thăng.

Cái túi Tây ba lô cũng biến theo cụ. Trong đó có hai hòn đá cọc cạch, cái cúi rơm, và gói thuốc lào. Thế nhưng khổ nỗi cụ lại để quên trên bàn…cái điếu ống.

Thạch trúc thảo lư

Kỷ Hợi 2019

Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

 

Nguồn: Nguyên Nguyên, Bùi Thiết, Nguyễn Duy Chính,

và một, hai tác giả khác nữa nhưng quên ghi danh tính.

 

 

 

 

©T.Vấn 2020

Bài Mới Nhất
Search