T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không : Thiên mã cùng đồ

clip_image002

Tiếng chó sủa đêm –Tranh : Trần Thanh Châu

Nhớ hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng khi xưa lại hoài cố cựu đến…ông Lành.

Chả là khươm mươi niên trước, khi trưa phơi sách khi chiều tưới cây, tôi nao nuốt đi tìm…cây táo ở biệt thự 76 Phan Đình Phùng. Trong tâm trạng của một kẻ táo bón kinh niên chữ nghĩa, trong cơn đồng thiếp tôi búi bấn một bài viết thuộc thể loại…hoa mơ nào chả trắng, vườn cam nào chả vàng. Với chuối sau cau trước, tôi vay mượn cụm từ đầy biền ngẫu của những nhà làm văn trong nước để văn bài có tựa đề: Ông Lành như tôi biết. Mới nhập thế cục bất khả vô văn tự với “Ông Lành như tôi biết”, với dĩ thiểu kiến đa là lấy ít hiểu nhiều, nói cho ngay, tôi biết khỉ gì về ông Lành! Vì vậy phải hồi cố quận gặp…nó.

Về Hà Nội chuyến này, sau mấy chục năm làm người di tản buồn, tôi gặp lại thằng em họ. Ăn cơm mới nói chuyện cũ về lại năm 54, tôi láo ngáo đeo tầu há mồm vào Nam, nó lớ ngớ ở lại theo kháng chiến cuối…mùa thu chết. Sau 75, may mà nó…chưa chết, với cái nợ văn chương, tôi tạt qua người anh em xã hội chủ nghĩa nhờ nó dẫn đi thăm…cây táo.

Số là với chức phó biên tập bự sự như cái mả liệt sĩ to vật, trộm nghĩ một người làm quan cả họ thơm lây. Tôi hơi hám hỏi nó: Chú làm gì mà…cây đa cây đề quá thế vậy? Thằng em êm ả hoa rơi cửa Phật rằng: Báu gì, phó nào khác gì phó rèn, phó cối, chuyện bình thường mà. Chuyện không bình thường là họ không có chó bắt…em ăn cứt vậy thôi. Tôi một mình về thăm ký ức thì thằng em ở nhà quê theo cái cày ngắm đít trâu một dạo. Ngồi không gõ vào trí nhớ nó học hết lớp ba là hết đất rồi đi bộ đội. “Đột biến” thằng em được điều động về Hà Nội tới trường Nguyễn Du học làm nghề viết văn.

Ngồi trên xe con tới phố Tây với những biệt thự rêu phong ẩm ướt…Thằng em làm văn búng lưỡi chuyện văn chương thiên cổ sự truyện: “Cây táo nhà ông Lành”.

(…) Tên thật ông là gì, nhiều người không biết. Từ lâu, người ta vẫn quen gọi ông là ông

Lành. Vì tính ông lành. Lâu dần thành ra tên của ông.

Vườn nhà ông khá rộng, có nhiều cây ăn quả như chuối, mãng cầu, vú sữa, táo…Ông Lành thú nhất là cây táo lai. Nó đứng ở góc vườn, trùm cái tán khum khum lên một vạt đất chừng dăm tấm chiếu. Cạnh cây táo quý ấy, ông đã cất lên một căn nhà ba gian, hai chái, chung quanh tường xây gạch. Nhiều khi đứng trong cửa sổ nhìn ra, ông thấy lũ trẻ lấy gạch đá hoặc que khăng ném cho táo rụng xuống để nhặt. Ông cũng chẳng la mắng chúng nó làm gì. Chỉ những đứa trẻ nào nghịch quá, ném vung đất đá rơi xuống mái ngôi nhà mới của ông, ông mới nhẹ nhàng bảo chúng đừng ném nữa. Lũ trẻ cũng biết nể ông, chúng ngoan ngoãn rủ nhau kéo đi. Chúng vừa đi, vừa nhồm nhoàm ăn táo, rồi chúng hát nghêu ngao…tạo cho ông niềm vui ngầm trong bụng.

Những đêm sương nặng hạt, nằm không ngủ được, lắng nghe tiếng táo rụng lộp bộp ngoài vườn lẫn với tiếng sương rơi, ông Lành chỉ mong chóng sáng để được thấy lũ học trò đi qua nhặt táo…Nhưng một buổi sáng ông đang hí húi buộc cái nạng, chống cho cây táo đỡ ngả xuống vườn vì nặng quá, thì bỗng “bộp!”, một hòn đất rơi trúng đầu ông, tung toé cả lên vai, lên gáy! May mà hòn đất bở, không to lắm, chứ không thì có lẽ ông đã vỡ đầu rồi. Thế mà cũng choáng váng mất một lúc.

Vừa ngẩng lên, ông Lành thấy thằng Thìn đang trân trân nhìn ông. Nó lắp bắp:

– Cháu…cháu lỡ!… Ông tha…
Đang cơn bực mình, ông Lành ném cây rựa xuống sân đánh “bịch”, đứng phắt lên:
– Ông, ông cái con khỉ!…(…)

Thằng tôi ngộ chữ đang định buông tuồng: “Khỉ thật” thì thằng em làm văn bổm bảm…

Gần 30 năm trước, một truyện ngắn in trên tuần báo Văn Nghệ đã làm xôn xao dư luận. Tác giả của nó, cây bút trẻ Hoàng Cát đã họa vô đơn chí rơi vào cái “nghi án” văn chương. Và, đằng đẵng 15 năm không có tác phẩm nào được in…

Nghe cái tên “cát vàng, cát trắng”, tôi tú ụ ai vậy? Nó búng lưỡi tách một cái…

Hoàng Cát, một “tình trai“ của Xuân Diệu, khi lên đường vào B được Xuân Diệu tặng thơ với lời yêu đương thao thiết:

Ôi Cát! Hôm vừa tiễn ở ga
Chưa chi ta đã phải chia xa
Nhưng bóng em đi đã khuất rồi
Đứt lìa khúc ruột của anh thôi!
Tình ta như mối dây muôn dặm
Buộc mãi đôi thân, dẫu cách vời

Ấy thế mà khi chàng Cát trở về Hà Nội viết truyện cây táo trong sân nhà ông Lành đăng báo Văn Nghệ bị “đánh” đòn hội chợ, Xuân Diệu đã làm mặt ngó lơ.

Và thằng em làm văn hành ngôn hành tỏi…

Truyện được biên tập, rồi in. Cây táo của ông Lành đã gây xôn xao trong giới nhà văn. Mọi người đều hiểu rằng truyện ngắn nói trên đã mắc một cái tội tày đình là…“phạm húy”. “Ông Lành” là tên gọi của nhà thơ Tố Hữu. Họa vô đơn chí bởi một nghi án văn chương. Người “nổ phát súng” đầu tiên là một nhà phê bình có cỡ, ông viết một bài dài, phê phán tình hình văn nghệ lúc bấy giờ, rồi lấy ví dụ cụ thể là truyện ngắn cây táo đăng trên báo Nhân Dân (người ta đã ngại tới mức…không dám viết hai chữ “ông Lành”). Rồi một bài xã luận nữa rất “căng” quy chụp cho Hoàng Cát nhiều “tội danh” rất nặng nề. Sau cùng, anh bị treo bút mà không biết mình bị “tội” gì. Cũng vì chẳng có toà nào “tuyên án”, nên cái “nghi án” văn chương cây táo cứ lơ lửng trên đầu Hoàng Cát. Nhiều người lo ngại, sợ hãi khi tiếp xúc với anh, mà chẳng biết ngại gì và sợ điều gì? Bạn bè đến chơi nhà anh thưa vắng dần… Suốt 4 năm liền Hoàng Cát sống trong tình trạng “dở cười dở mếu” như thế. Dù năm đó Hoàng Cát mới chỉ có 37 tuổi. Cũng vì không được hưởng chế độ hưu, nên Hoàng Cát mất luôn chế độ trợ cấp thương tật của một thương binh. Mặc dù anh chỉ còn mỗi chân phải. Và một mảnh đạn nhỏ vẫn còn nằm trong hộp sọ của anh…Mấy chục năm qua, để kiếm sống, Hoàng Cát đã phải bán nước chè chén vỉa hè, nuôi lợn, nuôi gà công nghiệp, cuộn thuốc lá bỏ mối thuốc lào, nuôi chim vẹt cảnh, nấu kẹo vừng.

Phải đợi đến khi không khí văn nghệ đã mở, Phùng Quán in ở báo Tiền Phong “Ngày Tết xông đất nhà thơ Tố Hữu”… Hoàng Cát mới quyết định đến gặp Tố Hữu. Sau đó Hoàng Cát đã viết bài thơ “Em về quê anh”, với sự xúc động chân thành và gửi tặng Tố Hữu. Trong đó có những câu: Em về quê anh – Một chiều mùa hạ – Trời xanh gió xanh – Con nít, mẹ già – Giống quê em quá...Không ai nhắc đến chuyện cây táo với ông Lành nữa. Vậy là sau đúng 25 năm, nghĩa là một phần tư thế kỷ, một khoảng thời gian đáng kể của đời người, nghi án văn chương cây táo được xóa bỏ. Hoàng Cát tâm sự: Chuyện gì đã qua cứ cho nó qua đi. Ai chẳng phải cố gắng để vượt lên chính mình và số phận cuộc đời. Quan trọng là mình vẫn đứng vững trên đôi chân của chính mình, cho dù mình chỉ còn… chân phải.

Thằng tôi ngộ chữ…ngộ ra rằng may mà chàng “tình giai“ của Xuân Diệu, không viết về cây vú sữa của ông Hồ. Nếu viết thì bị đánh cho sặc gạch vì đánh chó phải kiềng mặt chủ nhà. Như Tố Hữu “đánh” nhóm Nhân văn Giai phẩm. Dậu đổ bìm leo, tôi vun chuyện với nó chuyện…con chó của nhà văn Kim Liên mà thằng tôi góp nhặt sỏi đá được:

Thế còn truyện ngắn “Con chó xấu xí”?

– Tôi viết Con chó xấu xí là viết sau khi xảy ra chuyện Nhân văn Giai phẩm. Tuy tôi (Kim Lân) không bị liệt vào nhóm Nhân văn Giai phẩm nhưng lúc bấy giờ Tố Hữu xướng ra việc đấu tố Nhân văn Giai phẩm có 5 người không tham gia gồm có: Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyên Hồng và tôi. Chúng tôi không viết bài “đánh”…vì cho rằng đó đều là anh em mình cả. Chúng tôi chỉ muốn, nếu thực sự họ sai thì phải thuyết phục họ, vì tất cả đều mới ở trong kháng chiến mà ra cả (Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt…). Nhưng chính vì không tham gia, nên người ta ghét chúng tôi.

Con chó xấu xí ông viết để tự bạch tâm trạng của mình lúc bấy giờ?

– Đúng thế! Tôi chỉ muốn nói rằng, tuy tôi có là con chó xấu xí nhưng vẫn trung thành với chủ. Nguyễn Công Hoan đọc xong bảo: Thằng này ngu bỏ mẹ, tự nhận mình là con chó. Ông Văn Cao nhận xét: Gớm cậu đánh võ kín quá làm tôi sợ. Thực ra mình chỉ muốn làm kẻ đội đơn quỳ dưới công đường nói rằng: Tôi bị oan.

Nhưng ông đâu có bị “đánh” mà kêu oan?

– Cũng bị đánh chứ, vì khi đó tôi có viết một truyện ngắn “Ông lão hàng xóm”, ngày ấy cũng là chuyện nói về sai lầm trong cải cách ruộng đất. Lúc bấy giờ in ra, nhiều người thích vì cho rằng viết thế là liều lĩnh. Cộng với mình lại thêm tội “không chịu viết bài để đánh Nhân văn Giai phẩm” thế là người ta đánh tôi luôn.

Nghe thủng chuyện thằng tôi bật rật đến đây, làm như chăn trâu nhân thể dắt nghé thằng em làm bàm: “Dào! Nào có khác gì chuyện ông Nguyễn Khải”. Rập ràng xong, nó cười sần sật. Cái thằng cười đến hay, như chó khạc xương ấy…

Sau cuộc hội nghị nhà văn đảng viên, bản đề cương của Nguyên Ngọc cũng bị Tố Hữu đánh. Nguyễn Khải vốn nhất trí với Nguyên Ngọc trong vụ này, nên sợ quá.

Anh nói thẳng với Nguyên Ngọc:

– Tao nhát lắm, chưa đánh đã khai. Cho tao chạy đi thôi, đừng khai tao ra nhé.

Chưa biết Nguyễn Khải chạy đi đâu thì xe con…chạy tới nhà số 76 Phan Đình Phùng. Trộm thấy thằng em…trồng táo. Thấy người ta trồng khoai cũng vác mai đi đào. Thằng tôi ngộ chữ đào xới nhà ông Tố Hữu qua bài viết của chính cháu ông như thế này đây…

(…) Mọi năm, trên đường đi chúc Tết, tôi (Phùng Quán) thường vẫn đi xe đạp ngang qua trước cổng biệt thự của nhà thơ trên đường Phan Đình Phùng. Cảnh tượng tưng bừng, tấp nập trước cổng biệt thự tôi không tả nổi, chỉ đoán chắc cả Hà Nội cũng chỉ năm bảy nhà sánh kịp mà thôi. Ôtô đủ màu sắc, nhãn hiệu, choáng lộn như vừa xuất xưởng, đỗ một hàng dài san sát. Công an mặc lễ phục đi lại dọc vỉa hè. Lính cảnh vệ oai nghiêm bồng súng đứng gác bên cổng sắt đồ sộ. Người ra người vào nườm nượp, mặc toàn đồ lớn, đầy vẻ trịnh trọng có pha chút khúm núm. Ngang qua đó, không hiểu sao tôi cứ có cảm giác sờ sợ, đầu trống không khiến chân cứ tự động đạp xe dạt sang bên kia đường.

Nhưng Tết này, trước cổng biệt thự của nhà thơ quang cảnh vắng teo. Không chiếc ôtô nào, không công an cũng chẳng lính cảnh vệ. Cái cổng sắt mọi ngày nom như hẹp hẳn lại, hai cánh cửa khép hờ, ai vào cứ việc đẩy cửa mà vào y như thể dân thường. Hai vợ chồng chúng tôi xuống xe đạp đửng tần ngần một lúc trước cổng sắt. Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo, nền cũ lâu đài bóng tịch dương, hai câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan bỗng đột ngột hiện ra trong trí nhớ của tôi với toàn bộ vẻ đẹp u trầm và sâu sắc đến kinh người.

“Tết này là đúng ba mươi hai cái Tết anh không đến chúc Tết cậu”, tôi nói với vợ, tay khẽ khàng đẩy cánh cổng sắt. Chúng tôi dắt xe qua khoảng sân lốm đốm những mảnh rêu, dựa xe vào tường dãy nhà ngang dài tít tắp, cuối dãy nhà là gara ôtô. Dãy nhà ngang này, mới năm ngoái năm kia, còn người ra người vào tấp nập, trong gara ngự một chiếc ôtô đen choáng lộn, nhìn thắng ra cổng với cặp mắt đèn pha sáng quắc, uy nghi. Bây giờ các cửa phòng đều đóng kín, trong gara đậu một chiếc xe con nhỏ thó, màu trắng đục.
Tôi bâng khuâng đưa mắt nhìn cây táo già sát bên rào sắt trước tiền sảnh biệt thự. Đây là cái cây nổi tiếng đã đi vào thơ: Cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt – Quả son nhún nhẩy đèn lồng cành tơ. Nhìn cây táo tôi bỗng chạnh nhớ đến anh lính trẻ thương binh Hoàng Cát viết văn. Chỉ vì cây táo này mà anh phải mang họa vào thân. Anh đã bị trừng phạt vì có dụng ý nói xấu cán bộ lãnh đạo cao cấp.

Vợ chồng tôi xin phép cậu ra về. Nhà thơ khoác vai tôi một bên, vợ tôi một bên lững thững đi ra cổng. Nhà thơ nói với vợ tôi: “Thằng Quán nó dại…”. Khi ra gần đến cổng sắt, nhà thơ dừng lại, nói tiếp như vẫn không dứt dòng suy nghĩ của mình: “Mà cậu cũng dại…”. Mấy ly rượu Tết làm cái lưỡi tôi trở nên phóng túng, tôi bật cười to: “Thưa cậu, thì chính cậu đã viết điều đó trong thơ: Ai nên khôn mà chẳng dại một đôi lần. (…)

Khi rày, tôi và thằng em cũng đang đứng trước cổng biệt thự…cũng vắng teo vắng ngắt…không có chiếc ô tô nào. Bất giác tôi nghĩ đến ông Tố Hữu chỉ sau thất bại cuộc bầu vào Trung ương khoá VI, mới tỉnh ra, thấy bơ vơ, sau này mới có bài “Một tiếng đờn”. Nghe kể, khi biết mình không trúng cử, ông thất thần, mất hồn, đến mức xe ô tô của ông đến đón, đỗ trước mặt, ông không nhận ra, cứ ngơ ngơ ngác ngác.

Chợt ngơ ngác nhìn trời nhìn đất, thằng tôi ngộ chữ ngẫu hứng ư hử câu thơ ai nên khôn mà chẳng dại một đôi lần… Tai như tai đất, thằng em làm văn quệch quạc…

Bác chả biết đếch gì sất! Ông Tố Hữu là người ngồi ở ngôi cao trong hàng ngũ lãnh đạo của đảng, xém chút nữa làm tổng bí thư. Vì vậy với thơ ông là thủ lĩnh, là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng hiện thực XHCN như những nhà phê bình có tên tuổi khẳng định. Về nghệ thuật thơ cũng vậy: “Thơ mình thì đòi giải nhất, không chịu nhường cho ai” (tập “Việt Bắc”, 1956) như một nhà thơ lão làng đã viết. Câu thơ: “Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam – Hoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng ” theo phân tích của nhà thơ nọ là hai câu thơ mẫu mực, vì ai dám cãi hoa mơ không trắng vườn cam không vàng.

Và nó xẵng xớm: Bác không biết ấy chứ…chứ có giai thoại kể khi Trần Đăng Khoa độ 10 tuổi, bằng thái độ hồn nhiên phê bình thơ Tố Hữu trong bài thơ “Ta đi tới” có câu…

Ta đi giữa ban ngày

Trên đường cái ung dung ta bước

Đường ta rộng thênh thang tám thước

Trần Đăng Khoa lý giải câu: “Đường ta rộng thênh thanh tám thước phải sửa lại. Vì đã coi là thênh thang, làm gì có giới hạn. Nếu nói 8 thước, không thể gọi là thênh thang được”.

Tất nhiên lời phê bình của Trần Đăng Khoa bị “ghì vào sổ” vì “mới nứt mắt mà đã kiêu căng”. Nên vừa mới 17 tuổi, Trần Đăng Khoa đã…may mắn trúng tuyển nghĩa vụ quân sự.

Bỗng dưng nó lưỡi đá miệng…

Ấy đấy, ngày ở chiến khu Việt Bắc, anh em văn nghệ rỉ tai nhau một lần Tố Hữu định đọc thơ cho Văn Cao nghe, nhưng ông Văn Cao gạt đi: “Thơ cậu như vè có gì mà đọc.

Với thằng tôi ngộ chữ chuyện rỉ tai về Tố Hữu nhiều lắm. Nhất là cái hồi ông Tố Hữu làm phó thủ tướng, rồi đồn thổi ông có thể làm tổng bí thư. Cái bả vinh hoa ấy của ông Duẩn, ông Thọ đưa ra, làm nhà thơ choáng váng trong hy vọng, nên đã phải biểu lộ cư xử với tướng Giáp để chứng tỏ mình đứng về phía bên nào, nên ông đã xoá câu thơ của mình về tướng Giáp trong bài “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”. Về cái hách. tác giả Nhật Hoa Khanh nói khá kỹ chuyện này: Có lần trên màn tivi, quay cảnh đón phó thủ tướng Tố Hữu công cán ở nước ngoài về. Nhiều cán bộ cao cấp có mặt ở sân bay. Lần lượt Tố Hữu đi bắt tay từng người. Đến ông Giáp, khi ông Giáp giơ tay thì Tố Hữu lại quay đi chỗ khác như mải nói chuyện với ai. Những người ngồi xem tivi cùng tôi bình phẩm: Quá lắm! Hách quá lắm!

Tôi cũng răng cắn lưỡi: Ông Tố Hữu hách lắm phải không? Thế là nó tuồm luôm…

Năm 1983, một cuộc hội thảo ba ngày về văn học nghệ thuật rất đông văn nghệ sĩ thuộc các ngành nghệ thuật khác nhau. Hôm ấy tôi (Nguyễn Đăng Mạnh) được chứng kiến Nguyễn Đình Thi sợ Tố Hữu như thế nào.

Giới văn nghệ nói chung rất phục Nguyễn Đình Thi vì anh có thuật nói hấp dẫn. Anh bước lên, đứng trước cái bàn có phủ khăn. Đứng im, không nói gì. Mọi người im phăng phắc chờ đợi. Tưởng như con muỗi vo ve cũng nghe thấy. Bỗng anh bước ra khỏi bàn, vung tay hỏi hội nghị: Chúng ta đang làm cái gì thế này? Mọi người ngơ ngác tự hỏi: Họp ba ngày, không biết mình làm cái gì nhỉ? Càng cảm phục và chờ đợi”. Thi vung tay nói lớn: Chúng ta đang làm một nền văn nghệ lớn. Và chúng ta cũng lớn!

Đúng lúc ấy Tố Hữu đi vào, ăn mặc xuềnh xoàng, áo sơ mi bỏ ra ngoài quần. Người nhỏ bé. Nguyễn Đình Thi đang hùng hồn bỗng cụt hứng, xỉu hẳn lại, không nói được nữa.

Tố Hữu ngồi ngay ghế đầu, vẫy tay nói với Thi: Anh cứ nói tiếp đi!

Nhưng Thi chỉ nói lý nhí mấy câu gì đó không nghe rõ, rồi bỏ đi xuống. Tôi hình dung con cua đang giơ hai càng một cách hiên ngang như muốn thách thức với cả trời đất. Con ếch tới, vỗ nhẹ vào mai một cái, con cua vội co dúm người lại.

Nguyễn Đình Thi là con cua, Tố Hữu là con ếch.

Hình dung đến Tố Hữu là con ếch…Thằng tôi bật cười ông ổng như chó cắn ma. Đợi tôi cười đầy đủ lễ bộ rồi, thằng em làm văn cách rách…

Em nghe Nguyễn Khải kể hôm ấy anh ngồi chủ tịch đoàn. Có một bạn nói nhỏ với anh:

– Ông Lành đang nói sao cậu lại cười?

Khải sợ quá, vội chối:

– Không, răng tôi nó đấy chứ, tôi có dám cười đâu!

Thế là thằng tôi chả dám cười nữa! Mà chả nhẽ không biết làm gì là làm thinh. Số là gần đây có nghi vấn văn học về Nguyễn Khải phản tỉnh với “Đi tìm cái tôi đã mất”. Giống như Chế Lan Viên qua “Di cảo thơ I, II, III” trong đó có bài thơ “Cái bánh vẽ”. Tố Hữu cũng vậy với tập tài liệu “Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng”. Hay còn một cái tên khác là tập di cảo “Những tâm sự của nhà thơ Tố Hữu” lúc cuối đời mà trong chốn làng văn xóm chữ có nghi vấn chả hiểu Tố Hữu phản tỉnh “giả hay thật” đây! Bèn hỏi thằng em làm văn…

Cái thằng quái, hỏi một đàng trả lời một nẻo, nó giã chầy giã cối cho ra ngô ra khoai với tiếng Tây tiếng u là cứ theo một câu châm ngôn của người phương Tây: Quis’excuse s’accuse nghĩa là kẻ nào tự thanh minh là tự thú nhận.

Và thằng em phăm phở với tập tài liệu được ghi lại qua cuộn băng ghi âm…

Nhắc đến các văn nghệ sĩ Nhân văn Giai phẩm bị đánh tơi bời như Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Hữu Loan, Quang Dũng, sau khi khen từng người cùng những tác phẩm của từng người, Tố Hữu nhận xét:

Tất cả 6 anh đều góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng một nền văn học Việt Nam giàu tính hiện thực, tính phê phán, tính hiện đại và tính truyền thống. Tất cả 6 anh đều bền bỉ tiến bước dưới ngọn cờ cách mạng. Tất cả 6 anh đều là những nhà văn nghệ luôn luôn giữ vững phẩm vàng đạo đức của người cầm bút. Tất cả 6 anh đều xứng đáng được trao tặng những giải thưởng cao quý và những huân chương cao quý. (trg 34. Lời tâm sự)

Tiếp, thằng em mà rằng…rằng ông Tố Hữu còn nói về nhiều anh chị em khác, toàn khen là khen, với lời rất tốt đẹp. Nhưng qua cuộc chống nhóm Nhân văn Giai phẩm do chính Tố Hữu viết, với tiêu đề “Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại Nhân văn Giai phẩm trên mặt trận văn nghệ”, đã in thành sách, nhà xuất bản Văn Hoá, 1958, trong thư viện quốc gia. Nhận định tổng quát về Nhân văn Giai phẩm, Tố Hữu viết:

Lật bộ áo Nhân văn Giai phẩm thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, lưu manh, trốt-kít, tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái

điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm. (trg 9. Sđd)

Ấy thế mà với Hoàng Cầm, nó chan canh đổ mẻ qua cái nhìn của Tố Hữu…

Bên kia sông Đuống” đồng nghĩa với sự bất tử. Chỉ riêng Bên kia sông Đuống cũng đủ đưa Hoàng Cầm lên đài danh dự. Tôi đã đọc Kiều Loan trong ba thời điểm khác nhau sau giải phóng miền Nam. Cả ba lần, tôi đều chỉ có một ý nghĩ: Sau giải phóng Miền Nam đến nay chưa ai dựng kịch Kiều Loan là một thiếu sót lớn. Chúng ta biết: Trong khoảng sáu mươi năm nay, Hoàng Cầm là tác giả mấy chục tác phẩm thuộc nhiều loại hình nghệ thuật.

Tôi đặc biệt cảm ơn nghệ sĩ Hoàng Cầm về những lời phê bình sắc sảo, chính xác và chân thành của anh bốn mươi năm trước đây đối với tập thơ “Việt Bắc”.

Đột dưng thằng em làm văn bổm bảm: Bác ăn chữ mẻ bát thiên hạ nhưng bác có hay biết cụ Hoàng Cầm phê bình sắc sảo, chính xác như thế nào chăng? Như thế này nhá…

Với tập thơ “Việt Bắc”, Hoàng Cầm một lần đã chê thơ Tố Hữu thiếu chất sống thực tế, “nhạt nhẽo”, “hời hợt”, chỉ “lởn vởn” ở bên ngoài chứ không đột phá vào một khía cạnh nào của tâm hồn, những câu văn “đèm đẹp” “rủ rỉ” một lát rồi thôi, chỉ thấy những hình ảnh chung chung, gặp bất cứ ở chỗ nào, khi ca tụng lãnh đạo thì “đao to búa lớn”, bài “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” giống như một vại nước to, tràn đầy, loãng quá.

Tiếp đến nó đùm đậu chuyện cụ Hoàng Cầm qua bài viết nhà báo Hoàng Hưng…

Ngày 20/8/1982 đến lượt Hoàng Cầm bị bắt. Sau khi tôi (Hoàng Hưng) và Hoàng Cầm bị bắt. Tôi không thể nào quên cái buổi sáng ấy trong Hỏa Lò, người công an đưa tôi vào phòng hỏi cung, nhưng không có ai trong đó. Mà lại có một tập giấy viết sẵn để trên bàn. Tôi tò mò giở ra, thì…đó là bản tự khai của Hoàng Cầm. Tôi đọc lướt, càng đọc càng hoang mang vì ông nhận tuốt tuột các ý tưởng chống đảng, đả kích chế độ trong tập thơ. (trong đó có ba bài “có nội dung xấu” là: Cây tam cúc, Lá diêu bông, Quả vườn ổi). Để cho tôi một mình đọc xong, người ta mới đưa tôi trở lại phòng giam. Và họ bố trí rất khéo, để như tình cờ tôi gặp Hoàng Cầm đang ngồi ở cổng chờ (giữa khu trại giam và khu “làm việc” có cái cổng lớn, sau khi “làm việc” xong phạm nhân ngồi đó chờ “quản giáo” ra nhận để đưa vào buồng giam). Tôi đến bên ông, hỏi gay gắt: Anh nhận tội phản động thật à? Sao lại thế?. Hoàng Cầm cúi đầu xuống, không nói gì, từ khóe mắt ông lăn ra những giọt nước mắt. Đến tận hôm nay, nhớ lại những giọt lệ tủi nhục của nhà thơ đàn anh, lòng tôi vẫn còn đau. Với tôi, tự buộc mình phải hèn để có thể tồn tại là điều không gì đau hơn cho một kẻ sĩ.

Nhưng trong lúc Hòang Cầm ngong ngóng công an thực hiện lời hứa cho về vào dịp Tết, một số trí thức Pháp do Thiền sư Thích Nhất Hạnh vận động đã gửi thư cho Lê Đức Thọ đề nghị thả nhà thơ. Tin đến tai Tố Hữu, ông “bạn thơ” quý hoá phán một câu xanh rờn:

– Nước ngoài can thiệp hả? Thế thì giam nó thêm 1 năm nữa cho nó biết!

Theo Hoàng Cầm chính Tố Hữu là người chủ trương, vì căm ghét Hoàng Cầm đã dám chê thơ ông ta (vụ phê bình tập “Việt Bắc” năm 1956).

Bỗng nó chứ bự: Bác hỏi Tố Hữu nói gì về cụ Trần Dần ấy hở? Này nhá…

Sau Hoàng Cầm, Trần Dần cũng là cây bút hạng nặng. Cũng như thơ Hoàng Cầm, thơ Trần Dần có nhiều đổi mới về nội dung và nghệ thuật, đồng thời là tấm gương phản chiếu tâm hồn dân tộc và phản chiếu cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam. Văn xuôi của anh, “Người về lớp lớp”, về căn bản, có giá trị hiện thực rất cao. Người người lớp lớp là một khẩu pháo binh chủng pháp của văn học Việt Nam thế kỉ 20. Theo tôi nên sớm tái bản.

Ngoài ra, phải kể đến Hữu Loan, Lê Đạt và Phùng Quán, ba nhà thơ ba vẻ khác nhau nhưng cùng sâu sắc, nóng bỏng tình chiến đấu nhưng không kém phần lãng mạn.

Ngỡ xong, thằng em ba điều bốn chuyện về cụ Trần Dần như thế này đây…

Hồi Hoàng Cầm cho in tập Giai phẩm mùa xuân, có đăng bài của Trần Dần. Tố Hữu triệu tập mấy người đến họp có Hoàng Cầm, Văn Phác, Chế Lan Viên…Tố Hữu cầm cuốn Giai phẩm mùa xuân và hỏi mọi người:

– Các anh thấy tập sách này thế nào?

Không ai dám trả lời, vì không đoán được ý Tố Hữu. Chế Lan Viên nhanh trí, đoán trúng ý thủ trưởng. Chế Lan Viên nói: Cuốn sách đại phản động! Tố Hữu hỏi Văn Phác: Hiện nay nó đang ở đâu? Văn Phác đáp: Thưa, anh ấy đang đi thực tế ở Yên Viên.

Tố Hữu ra lệnh cho Văn Phác mà Hoàng Cầm nhớ đúng sáu tiếng:

– Gọi nó về, bắt lấy nó!

Như xẩm vớ được gậy thằng em khong khảy…

Nhà thơ Hoàng Cầm kể rằng, nhà văn tướng quân Trần Độ trưởng ban Văn hoá văn nghệ của đại hội đảng lần VI, tổng bí thư là ông Nguyễn Văn Linh, người đẫ giúp ông Linh tuyên bố những câu đáng ghi vào lịch sử văn nghệ: “cởi trói cho văn nghệ sĩ ” – “các văn nghệ sĩ hãy tự cứu lấy mình” – “không bẻ cong ngòi bút” – “trình bày sự thật”…v..v…

Trong cái không khí cởi mở ấy của Nghị quyết 5/BCT về văn học nghệ thuật, nhà văn Trần Độ đến gặp Tố Hữu và hỏi ông về thái độ đối với anh em Nhân văn Giai phẩm bấy giờ.

Tố Hữu với giọng trọ trẹ xứ Huế đã nói:

Rất tiếc! Rất tiếc! Hồi ấy tôi đã không tiêu diệt hết chúng nó đi.

Thằng em lờ đờ như cá ngộp nắng…

Gần ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, Hội văn nghệ Việt Nam họp trên đồi Nhã Nam. Cuộc đấu tố của văn nghệ sĩ diễn ra gay gắt căng thẳng dưới sự chỉ đạo của Tố Hữu. Người ta đã vu cáo những chuyện tày trời, quyết liệt dồn cụ Ngô Tất Tố vào tận chân tường. Tác giả “Lều chõng” và “Việc làng” đã phạm tội “phục cổ” nhằm mục đích gì? Đêm 20 tháng 4 năm 1954, cụ Ngô Tất Tố đã thắt cổ tại nhà ở Yên Thế, Bắc Giang. Cái sự chết của nhà văn khắc nghiệt đến mức nghĩa trang liệt sĩ xã ở địa phương đã…từ chối không cho chôn.

Với những khắc nghiệt của nhà văn, tôi giây mơ rễ má đến Nguyễn Hữu Đang…

Chúng tôi đi lên phía bắc. Đến Đoan Hùng. Lúc đó chưa có cầu, phải đợi phà. Chúng tôi vẫn phải ngồi bó gối trong cũi xe ngựa kéo. Để tránh sự chú ý, họ lùa chúng tôi vào sâu trong con đường mòn, ở đó có một trường học. Các em học sinh và các thầy cô tò mò ra xem lũ tù bị nhốt trong cũi xe. Họ chỉ trỏ xì xào. Nguyễn Hữu Đang hỏi: “Các cháu có biết Cao Bá Quát không?”. Qua phà chúng tôi đến ngủ tạm trại giam Tuyên Quang. Lệnh: Không được cởi xích tay. Qua một đêm không thể nào ngủ được. Thằng muốn đi ỉa đi đái, phải đánh thức thằng tù đang ngủ dậy. 4 giờ sáng dậy đi tiếp. Kiểm số tù lần cuối là ông đeo kính đen, mở cái cặp đen lấy tập hồ sơ hỏi anh Đang câu hay chữ gì đó, làm tôi (Kiều Duy Vĩnh) nghĩ đến chuyện “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân trong “Vang bóng một thời”.

Chúng tôi được đưa về trại tù Cổng Trời Cắn Tỷ (1958 Nguyễn Hữu Đang bị bắt, năm 1973, được trả về theo diện “Ðại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris”). Hôm ấy, rét làm đông nước. Ở mái nhà nước đóng thành băng. Cứ lạnh âm “zê-rô” độ là họ gọi đi xà lim. Xà lim là một cái quan tài bằng đất dầy một mét, cùm “răng cá sấu” cắn chân không bao giờ được mở, và có khi bị bỏ đói cho đến chết. Quản giáo Nhân từng tuyên bố vào mặt chúng tôi: “Cái sống chết của các anh ở trong tay chúng tôi. Đừng có mơ tưởng hão huyền gì. Cho dù có động trời, động đất xảy ra, thì trước khi chuyện đó đến với các anh, nó phải tới cái trại đặc biệt này. Nghe cho rõ mà nhớ lấy. Trước khi mọi điều vi­n vông, vi­n tưởng các anh mong đợi xảy ra, các anh đã không còn ở cõi đời này nữa, các anh đã là những cái xác chết rồi”. Chúng tôi nghe và cũng hiểu đúng như vậy. Cho nên, động đất, chiến tranh ai chết. Mặc. Với chúng tôi: Stalin chết, John Kennedy bị bắn, Ngô Đình Diệm chết, Kroutchov bị hạ bệ, chả có gì quan trọng cả. (cuối cùng tù Cổng Trời Cắn Tỷ có 72 người, sống sót 11 người)

Chợt nom dòm thằng em đang lào phào ở cái tuổi “nói tiếng đất, quên tiếng trời”, vừa dẫn nó lên Cổng Trời Cắn Tỷ rồi, sống qua ngày, chờ qua đời, sợ nó quên…Thằng tôi ngộ chữ mọt sách ăn giấy đẩy đưa nó về Phủ Lý với cái chết của nhà thơ Nguyễn Bính…

Trong tuần báo “Trăm Hoa”, Nguyễn Bính viết về giải thưởng thơ:

“Khi bắt đầu đặt giải thưởng văn học toàn quốc 1954-55, anh chị em văn nghệ gặp nhau thường hay nói đùa một câu: Giải thưởng này, cái gì thì không biết, chứ tập thơ “Việt Bắc” thì chém chết cũng được giải nhất rồi!. Tất nhiên ai cũng hiểu câu nói đó không phải câu tán dương. Anh em còn nhớ mãi cuộc tranh luận về quyển thơ “Việt Bắc”, chưa ngã ngũ ra sao thì các ông trong hội Văn nghệ đã vội vàng đưa ra mấy bài “bịt lỗ châu mai” lại. Ông Hoài Thanh phát biểu: “Ðịch nó không mong gì hơn là ta chê thơ Tố Hữu”. Ông đem cả địch ra mà bảo vệ cho thơ Tố Hữu. Cái lối nịnh trên nạt dưới ấy tất nhiên Hoài Thanh phải đem sử dụng vào việc chấm giải. Vì ông Tố Hữu là lãnh đạo văn nghệ, là th trưởng. Trong các thi sĩ có tác phẩm in ở nhà xuất bản của hội Văn nghệ, chỉ duy có thơ Tố Hữu là được sắp vào loại A, và được tính tiền bản quyền tác giả cao nhất. Nguyễn Bính nêu những đề nghị cụ thể: “Muốn cho giải thưởng văn học 1954-55 có giá trị, chúng tôi có ý kiến đề nghị cụ thể là về giải thơ: Nên đưa tập thơ Việt Bắc xuống giải nhì, chưa xứng đáng được giải nhất”.

(Giải thưởng cho hội viên chiếm giải nhất: 30 đồng. Thời giá năm 1854-55 một bát phở: 3 đồng, tức 10 bát phở. Riêng giải nhất với riêng Tố Hữu: 500 đồng).

Năm cùng tháng tận, tôi quanh quéo nó về huyện Lý Nhân, Phủ Lý với Trần Mạnh Hảo…

Đã 46 năm kể từ trưa 29 tết, năm Bính Ngọ, 1966, nhà thơ Nguyễn Bính đã chết trong nghèo đói, bệnh tật tại nhà ông lang Hứa. Tôi (Trần Mạnh Hảo) có gặp ông tại tư gia nhà thơ Vũ Quốc Ái ở Nam Định. Ông lang Hứa làm thơ, bút hiệu Tân Thanh kể rằng:

Sau 1958, Nguyễn Bính bị nhà nước đuổi về quê vì làm báo “Trăm Hoa”. Nguyễn Bính về quê làm nhân viên hợp đồng sửa bản in cho ty văn hoá Nam Định nên đói khổ lắm. Sau cơ quan ty văn hoá sơ tán lên huyện Lý Nhân, nên Nguyễn Bính hay đến nhà ông lang Hứa ở thôn Mạc Hạ (một người mê thơ Nguyễn Bính) tá túc. Tết đến, không có tiền, Nguyễn Bính tới nhà ông Hứa mượn đỡ chút tiền về cho vợ con có chút tiền ăn tết. Bà Lai làm nghề đan len nuôi chồng con nên rất cực. Trưa 29 tết, Nguyễn Bính do đói quá, lại làm tí rượu, chóng mặt, ra bờ ao nhà ông Hứa rửa mặt, rơi xuống ao. Ông Hứa và người nhà vớt Nguyễn Bính lên bờ. Nhà thơ thổ huyết, tắt thở. Nguyễn Bính mất khi mới 48 tuổi.

Về cái chết của Nguyễn Bính, Tô Hoài nói khác, cho rằng Nguyễn Bính chết no, chứ không phải chết đói như bọn “diễn biến hoà bình” xuyên tạc. Tô Hoài được giao nhiệm vụ “thuyết phục” Nguyễn Bính ra báo tư nhân “Trăm Hoa” để có tiếng nói chống báo Nhân Văn.

Đang gánh bùn sang ao đến đây, nó rất tâm trạng với “cú rằng có, vọ rằng không” rằng…

Cuối năm 1956, nói đến báo Nhân văn và tập Giai phẩm, ông Hồ ra chỉ thị: “Đó là những hạt giống xấu gieo trên miếng đất của những tư tưởng sai lầm”. Theo chỉ thị miệng của ông Hồ, Tố Hữu tuyên bố: “Nhân văn Giai phẩm là những hạt giống xấu, phải dọn lại đất cho tốt”. Tố Hữu thực hiện ý nghiã thâm sâu của cuộc thanh trừng: “Nhổ cỏ phải nhổ tận rễ”.

Thấy tôi ớ ra vì lý sự gì với cú rằng có vọ rằng không? Thằng em chẻ hoe trắng phớ…

Sau này Trường Xuân đến họp ở đại hội nhà văn cho hay ông Hồ cũng có “cảm tình” với Nhân văn và nói không nên dùng dao mổ trâu để giết gà. Trường Xuân đã phản ảnh chỉ thị ở “cấp trên cùng”, bởi không ai ngoài Tố Hữu dám “bịa” chuyện “nhổ cỏ” như thế. Đã từ lâu, nhiều người rất mong muốn Tố Hữu hãy xin lỗi anh em Nhân văn Giai phẩm lấy một tiếng. Như nhà viết kịch Bửu Tiến đã làm trong một đại hội nhà văn. Gần đây nhiều anh em văn nghệ hùa theo Tố Hữu “đánh” anh em Nhân văn Giai phẩm hồi ấy, nay đã nhận sai lầm, họ đã đến từng nhà xin lỗi từng người. Cho lòng mình nhẹ nhõm, cho lòng bạn nhẹ nhõm.

Nhưng Tố Hữu đã không làm.

Hãy thành thật và sòng phẳng với những sai lầm trước đây của mình. Trong “Lời tâm sự” của Tố Hữu, tác giả Nhật Hoa Khanh đã viết: “Không thấy lời nhận lỗi hoặc xin lỗi những nạn nhân trước đây của mình, ai cũng được Tố Hữu đánh giá rất cao, rất tốt đẹp, chỉ thấy khen là khen. Những thế hệ bây giờ không biết chuyện cũ, cứ tưởng Tố Hữu rất tốt với mọi người, ông không thù ghét ai, làm sao ông Tố Hữu lại có thể đánh những tài năng văn nghệ như anh em Nhân văn Giai phẩm?”.

Vậy mà trong di cảo, sau khi thu băng xong, Tố Hữu nói với tác giả:

– Trước khi gửi đăng bài báo viết buổi trò chuyện thân mật này, anh nên gửi bản thảo đến chị Nghiêm Thúy Băng (chị Văn Cao), chị Quang Dũng, gia đình các anh Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, v.v. Ngoài ra, nên gửi đến các anh Hữu Loan, Lê Đạt, Phùng Cung…

Hốt nhiên trong trí nhớ mù sương của ngộ chữ tôi ẩn hiện Con ngựa già của chúa Trịnh đã “trơ xương cùng tuế nguyệt” trong nhà tù Hỏa Lò, Bất Bạt, Phong Quang 12 năm trời. Mặc dù Phùng Cung không “được” đem ra xử như Nguyễn Hữu Ðang (15 năm), Thụy An và Trần Thiếu Bảo, nhưng Phùng Cung bị tù đày, và đã bị vùi dập cho đến cuối đời. Với trần ai khoai củ này, thằng tôi ngộ chữ phải hỏi cho ra nhẽ.

Được thể thằng em làm văn nuốt câu nhả chữ theo Tố Hữu trong tập tài liệu…

Nhà văn Phùng Cung cũng cần được minh oan cùng với truyện ngắn “Con ngựa già của chúa Trịnh”. Cần lắm. Con ngựa già của chúa Trịnh chỉ là con ngựa già của chúa Trịnh mà thôi. Không có ẩn ý gì xấu như bốn mươi năm trước đây một số người lầm tưởng. Ngay từ những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, Phùng Cung đã được đồng nghiệp nhìn nhận như một cán bộ văn nghệ đầy nhựa sống, và rất chân thành. Với những ưu điểm nổi bật ấy, suốt cuộc đời mình, anh đã đi cùng dân tộc, đi cùng cách mạng.

Như ăn khoai môn ngứa miệng hay sao ấy, tôi mọt sách ăn giấy tới cụ Văn Cao. Thằng em vót chữ bẻ câu theo tập tài liệu của Nhật Hoa Khanh…

Thiên thai là một ca khúc dạt dào sức sống và thấm đậm chất lãng mạn tươi trẻ trong chuyện cổ dân gian. Thiên thai bay bổng, xa vời nhưng vẫn gắn với cuộc sống nơi trần thế.

Người Thăng Long Hà Nội rất tự hào về những bài hát trữ tình lừng danh của Văn Cao về thủ đô ngàn năm văn vật. Tố Hữu dừng lại. Tôi thấy ông thật sự lặng đi một lát. Rồi nhà thơ nói tiếp với một thoáng nghẹn ngào: “Nhớ quá Văn Cao những ngày ở Việt Bắc!”.

***

Đến tao đoạn này, thằng em dẫn thằng tôi vào nhà có…cây táo. Vào đến phòng khách, tôi bắt gặp hồn ma bóng quế ông Tố Hữu đang ngồi ở bộ sa lông tiếp khách. Khách của ông là nhà phê bình văn học cổ đại của đất Thăng Long ngàn năm văn vật…

(…) Ấn tượng khó quên nhất của tôi (Nguyễn Đăng Mạnh) là ông nói rất nhiều. Tôi nhớ ông nói từ hai giờ chiều. Nói rất bốc. Lúc đầu còn ngồi ngay ngắn, sau co chân xếp bằng tròn trên salon. Tôi ngồi sát cạnh, thỉnh thoảng ông còn vỗ mạnh vào đùi tôi, hỏi một câu gì đó. Hỏi không phải để nghe trả lời, mà là cách gây chú ý, để nghe ông nói tiếp. Thực tình lúc ấy tôi mót đi tiểu quá. Ngồi ngay cạnh ông, đứng lên không tiện. Vả lại biết đi toalét ở chỗ nào! Mà cũng nghĩ trời sắp tối. Nhưng ông cứ nói, nói liên miên, nói say sưa hào hứng. Lúc đó, thực bụng tôi nghĩ: Trên đời không có gì nhảm nhí bằng chuyện văn chương, chỉ có đi tiểu là quan trọng nhất. Không hiểu sao, ông lại còn giữ tay, nói tiếp mấy câu nữa. Sợ quá!

Hết quyền lực rồi, Tố Hữu vẫn có tật nói nhiều. Hôm báo Văn Nghệ tổ chức hội thảo về cuốn “Chân dung và đối thoại” của Trần Đăng Khoa, ông đến dự. Một mình ông nói hàng tiếng đồng hồ. Lúc Tố Hữu đã mệt nặng, Nguyễn Khải có đến thăm. Khải nói: “Ông đã mệt lắm, nói không ra tiếng, vậy mà miệng vẫn mấp máy, lắp bắp”. Đúng là mắc bệnh nói.

Những năm cuối đời, ở Tố Hữu, có chuyện này cũng lạ: Thường phủ nhận những điều mình đã nói, và đã làm. Trong cuốn “Chân dung và đối thoại”, Trần Đăng Khoa thuật lại cuộc phỏng vấn Tố Hữu về chuyện ở bên ngòai họ đang rỉ tai Tố Hữu xoá một câu thơ về Võ Nguyên Giáp trong bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”. Sau này Tố Hữu nói: “Không hề biết chuyện ấy vì đó là chuyện bịa”. Khoa nói với tôi: “Em có ghi băng hẳn hoi, đâu có bịa”.

Nhật Hoa Khanh công bố bài phỏng vấn Tố Hữu rất dài (58 trang khổ lớn). Đọc bài phỏng vấn này, tôi thấy: Tố Hữu nói ngược hẳn những điều ông nghĩ, ông viết và ông làm trước đây đối với các nhà văn thuộc nhóm Nhân văn Giai phẩm. Ngược hẳn lại như quay 180 độ, khiến rất khó tin là có thật. Khoa cho rằng: Tố Hữu hay phủ nhận những điều mình đã nói, đã làm, nhưng không đến nỗi quá quắt như trong bài phỏng vấn của Nhật Hoa Khanh. Tô Hoài thì nói: Những sự kiện, những chi tiết trong bài phỏng vấn đều có thật cả, chỉ có điều Tố Hữu nói ngược lại. Vì anh Nhật Hoa Khanh có ghi âm, còn giữ băng ghi âm”.

Sau khi chết, không thể ngờ Tố Hữu xuống giá nhanh chóng và thảm hại đến thế. Ở khoa Văn đại học Sư phạm Hà Nội nếu Tố Hữu sống lại chắc buồn lắm: Hàng năm cán bộ giảng dạy phải hướng dẫn hàng trăm sinh viên cao học, hàng chục nghiên cứu sinh làm luận án thạc sĩ, tiến sĩ. Đề tài ngày càng bí, quanh đi quẩn lại khai thác mãi những Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nam Cao, Thạch Lam, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu…hầu như đã cạn kiệt. Rất bí. Cả thầy lẫn trò đều bí.

Vậy mà không ai chịu làm về Tố Hữu. Vì vậy nếu Tố Hữu sống lại chắc buồn lắm (…)

***

Bởi nhẽ thằng tôi ngộ chữ cũng đang bí. Rất bí. Tạm hiểu là đang đói chữ, lại bị giời xiềng vào chữ nghĩa như anh tù văn với “Con ngựa già của chúa Trịnh”. Thế nên thằng tôi ngộ chữ mới gọ gạy bài viết dài hơi dầy chữ này đây có tựa đề: “Thiên mã cùng đồ”.

Với Thiên mã cùng đồ, tôi dàn trải in hịt như trong truyện “Xông đất nhà thơ Tố Hữu” của Phùng Quán. Số là hai anh em tôi đứng nghe ông Tố Hữu…ông đây ở cái tuổi “nói tiếng đất, quên tiếng trời” đang nói chuyện văn chương với nhà phê bình văn học Hà Nội từ hai giờ trưa đến bảy giờ chiều. Mà tôi đâu có khác gì nhà làm văn học cây đa, cây đề! Chả là đất sinh cỏ già sinh tật, tôi cũng có cái tật đi tiểu vặt và đái dắt, mỗi lần giật nước cái bồn tiểu lại xót xa cho cái tiền già. Nên sau khi nghe ông Tố Hữu nói liên miên, rất bốc, tôi bấm tay thằng em xin phép nhà thơ ra về vì trời đã tối đất rồi. Hồn ma bóng quế nhà thơ khoác vai tôi một bên, thằng em một bên lững thững đi ra cổng. Bước xuống bậc tam cấp, thằng em làm văn…làm như nhớ lại trong bài viết “Sự thật ở đâu” của nhà văn Hoàng Tiến: Bạn bè thân nhà văn bảo ông Tố Hữu tuy bây giờ nghỉ làm việc, nhưng thế lực còn mạnh lắm, ông ấy vẫn có thể bóp cổ anh chết tươi bất cứ lúc nào. Vì vậy nó cũng sợ vãi đái ra quần, thằng em làm văn nói chữ, nó chào từ giã theo kiểu Tây phương miền cực lạc: Hẹn gặp lại nhà thơ cách mạng lão thành. Khi ra gần đến cổng sắt, nhà thơ dừng lại, nói trống không, như không có mặt hai anh em tôi trong cõi nhân gian này: Lão, nhưng liệu có thành không chứ.

Tiếp đến ra khỏi cổng, trong cơn động kinh với chữ nghĩa, nhìn lại với một thoáng mây bay, quang cảnh đìu hiu như câu thơ của bà huyện Thanh Quan. Câu văn trong bài cậu cháu xông đất nhà ông cậu làm lớn, nhà cửa thuộc dạng “nhà mặt phố, bố làm to” vẫn còn phảng phất trong trí nhớ sương khói của thằng tôi ngộ chữ: Toàn bộ vẻ đẹp u trầm và sâu sắc đến kinh người…Như tác giả Phùng Quán, tôi không thấy công an mặc lễ phục đi lại dọc vỉa hè, lính cảnh vệ oai nghiêm bồng súng đứng gác bên cổng sắt đồ sộ. Tôi cũng không thấy hai chiếc xe con màu trắng đục, và chiếc ô-tô đen choáng lộn đâu nữa.

Tất cả đã tan loãng vào hư không. Chỉ còn lại cây táo già khú đế với một bóng người.

Với câu thừa chữ thiếu, tôi viết tiếp in hịt như trong bài ông Lành với…cây táo:

Bóng người bắt gặp thằng Thìn đang trân trân nhìn mình. Nó lắp bắp:
– Cháu…cháu lỡ!… Ông tha…
Bóng người ném cây rựa xuống sân đánh “bịch”, đứng phắt lên ư hừm:
– Ông, ông cái con khỉ!

Tôi đang bối rối như sư đẻ vì thằng em hẹn gặp lại làm khỉ gì chả biết nữa thì…

Thì thằng Thìn ù té chạy về, tay kéo quần, tay ra dấu với bạn và nói như thật:

– Tao đi qua cây táo, tưởng như mọi khi, tao vào nhặt trái rụng. Bất chợt có tiếng “ư hừm!” rõ to! Mà giọng ồ ồ kỳ lắm! Nhìn khắp nơi mà chẳng có ai hết. Tao lại nghe “ư hừm” thật to kéo dài lượt nữa. Chừng như có bóng người ngồi trên cây táo. Tao dòm lên, thì eo ôi:

– Một cái sọ dừa đen ngòm trên ấy!

Thạch trúc gia trang

Tết Bính Thân 2016

Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

 

 

Nguồn: Xuân Sách, Đặng Vương Hưng, Bá Kiên

Lại Nguyên Ân, Lý Hồng Nhân, Thụy Khuê.

 

 

 

©T.Vấn 2016

Bài Mới Nhất
Search