T.Vấn

& Bạn Hữu

Văn Học và Đời Sống

Ngộ Không: Tác Giả và Tác Phẩm – Hoàng Cầm (II)

clip_image002

 

Nhân Văn Giai Phẩm với Hoàng Cầm

Thụy Khuê thực hiện

I. Thời kỳ làm báo Giai Phẩm và Nhân Văn

Thụy Khuê: Thưa anh Hoàng Cầm, sau hiệp định Genève, về Hà Nội anh làm gì?

Hoàng Cầm: Lúc bấy giờ tôi cũng ở quân đội về tiếp quản thủ đô, tôi phụ trách một đoàn văn công. Lúc bấy giờ văn công quân đội chia làm ba đoàn: Thủ đô, Khu ba và Khu bốn. Tôi phụ trách đoàn 1, về tiếp quản Hà Nội. Trong giai đoạn đầu cuộc tiếp quản thủ đô -độ 3 tháng- thì lúc bấy giờ việc làm thơ của tôi cũng không tiến hành được bao nhiêu, bởi vì công việc của đoàn văn công choán khá nhiều thời giờ. Nhưng đến Tết, cái Tết năm 1955 sang 1956, tôi và anh Lê Đạt bàn nhau là bây giờ ta phải tiến hành một cuộc đổi mới thơ đi. Mà tiến hành đổi mới thơ thì trên các báo của nhà nước nó chật chỗ quá, mình không thể mở rộng được những ý kiến của mình. Lúc bấy giờ nhà nước vẫn còn để cho các nhà in tư nhân cũng như các nhà xuất bản tư nhân được hoạt động. Thì có nhà xuất bản Minh Đức mà người chủ là anh Trần Thiếu Bảo, đã từng là một nhà xuất bản đi theo kháng chiến chống Pháp; ở Khu bốn, anh ấy đặt trụ sở ở Thanh Hóa. Trong thời ấy anh ấy đã in nhiều sách phục vụ kháng chiến chống Pháp. Về hòa bình, anh lại tiếp tục công việc xuất bản. Anh ấy cũng không có vốn gì lớn lắm, đi vay bè bạn thôi, cũng có thể thỉnh thoảng ra được một vài quyển sách có ích cho lúc bấy giờ. Chúng tôi mới đề nghị với anh Minh Đức là in một tập văn thơ vào mùa xuân năm 56. Cái số đó chúng tôi định ra vào dịp Tết âm lịch tức là sang năm 56 rồi.

T.K.: Thưa anh, Giai phẩm mùa xuân có những ai cộng tác?

H.C.: Cái Giai phẩm mùa xuân ấy chỉ có mỗi tôi và anh Lê Đạt, bởi vì lúc bấy giờ anh Trần Dần và anh Tử Phác là hai người bạn thân mà cũng là những người muốn đổi mới văn học nghệ thuật, thì hai anh ấy đi công tác Cải cách ruộng đất cách Hà Nội 12 cây số tức là ở bên Yên Viên, không có nhà. Chỉ có tôi với anh Lê Đạt làm. Tập hợp được một số anh em viết bài cho, ví dụ như anh Trần Lê Văn, anh Quang Dũng, anh Hữu Loan, anh Phùng Quán, anh Văn Cao… Lúc bấy giờ tôi và cả anh Lê Đạt đều có giữ một bản thảo một bài thơ dài của anh Trần Dần tức là bài Nhất định thắng. Chúng tôi lấy bài đó làm cái xương sống đã, rồi mỗi anh em lại thêm vào đó một số bài. Thì anh em có giao cho tôi nhiệm vụ là thúc đẩy anh Văn Cao làm thơ, bởi vì từ ngày về Hà Nội anh Văn Cao cũng thôi không làm ca khúc nữa mà anh ấy chuyển sang vẽ. Tất nhiên vẽ cũng là một cách tự biểu hiện mình. Nhưng tôi thấy rằng khả năng làm thơ của anh Văn Cao có thể vẫn còn nhiều. Tôi và cả anh Lê Đạt đều biết là anh ấy có khả năng thơ. Bởi vì trước 45, anh ấy có một số bài thơ cũng khá, ví dụ bài Chiếc xe xác đi qua phường Dạ Lạc chẳng hạn. Đó là một bài thơ có nhiều suy nghĩ mới ở trong thơ ca, mặc dầu cả bài còn nhiều ảnh hưởng rơi rớt của Vũ Hoàng Chương hoặc rơi rớt của Tự Lực Văn Đoàn. Chúng tôi biết thế, cho nên thúc đẩy anh ấy làm thơ chứ không phải là vì một lẽ gì đâu. Mà chính là vì anh ấy cạn kiệt cảm xúc âm nhạc. Đấy là theo ý nghĩ riêng của tôi. Có thể tôi sai. Nhưng tôi cứ nói thật ý nghĩ riêng của tôi lúc bấy giờ không phải là Văn Cao lười, mà cũng không phải là vì một lẽ gì khác mà chính là vì anh ấy cạn kiệt cảm xúc âm nhạc. Thế thì lúc bấy giờ tôi với anh Lê Đạt cứ đùn đẩy nhau về cái việc đối với Văn Cao. Anh Lê Đạt bảo là anh ấy chưa có tiếng tăm gì và trong số bạn chơi với nhau thì anh ấy là người ít tuổi nhất, tất nhiên là chưa có uy tín gì trong số anh em về mặt sáng tác cả. Cho nên anh ấy không muốn thúc đẩy Văn Cao, anh ấy bảo là sợ anh Văn Cao bảo là hỗn, mày nhỏ tuổi thế mà mày thúc đẩy gì tao. Thế hoặc giả anh Văn Cao có thể có ý nghĩ gì khác chăng? Thành ra anh Lê Đạt giao cho tôi, anh ấy bảo: Bởi vì tôi đối với anh Văn Cao là ngang vai phải lứa thì có thể thúc đẩy anh ấy được. Tôi đành phải nhận. Vì tôi biết là Văn Cao cũng khó lắm, bởi vì anh ấy đã thích một cái gì đấy thì khó lay chuyển anh ấy lắm. Anh ấy đang thích vẽ mà. Sau đó tôi đến thúc đẩy một tuần thì quả nhiên anh ấy cũng làm được một bài đăng ở Giai phẩm mùa xuân tức là bài Anh có nghe thấy không.

T.K.: Thưa anh, như vậy là trong số Giai phẩm mùa xuân 56 thì chỉ có một bài thơ của anh Văn Cao, thế còn những bài khác là của những ai?

H.C.: Anh Văn Cao có một bài ấy thôi. Còn anh Lê Đạt thì cũng làm đâu ba bốn bài, những bài thơ ngắn. Ví dụ như là bài Đụng long mạch hoặc là bài Công nhân làm cầu gì đó, tôi quên mất đầu đề rồi. Nhưng chúng tôi dựa vào bài Nhất định thắng của anh Trần Dần là chính, thì đã có thể ra được một tập sách. Cộng với một bài nghiên cứu về dân ca của anh Tử Phác. Một bài thơ Quang Dũng. Một bài tản văn của anh Trần Lê Văn. Và một vài bài nữa của anh Hữu Loan, Phùng Quán… thì chúng tôi đã tập hợp được và đưa in luôn. Như thế là quyển Giai phẩm mùa xuân ra trước Tết âm lịch năm 1956. Anh Tử Phác và anh Trần Dần không biết là quyển sách ấy ra bởi vì các anh ấy bận công tác ở xa Hà Nội và công tác Cải cách ruộng đất lúc bấy giờ đang ở cao trào cho nên các anh ấy không có quan hệ gì với chúng tôi ở Hà Nội cả. Thành ra chúng tôi cứ ra cái đó và bài thơ của anh Trần Dần cứ xuất hiện bởi vì chúng tôi đều có bản thảo. Sau khi xuất bản tập đó được độ một tuần thì cả hai anh Tử Phác và Trần Dần đều bị một tai nạn tức là cả hai anh đều bị bắt. Cái thời gian bắt các anh ấy cũng nhanh chóng, vì cũng có những cái tình cờ, hoặc cũng có những sự việc cụ thể, chứ không phải giam giữ gì lâu lắm. Sau đó, anh Trần Dần lại về công tác ở phòng văn nghệ quân đội, nghĩa là vẫn chưa ra khỏi quân đội, cả anh Phùng Quán nữa, cũng đang ở trong quân đội. Chỉ có tôi là ra khỏi quân đội cuối năm 55. Chính vì tôi ra khỏi quân đội thì tôi mới làm Giai phẩm mùa xuân cùng với anh Lê Đạt bởi vì anh Lê Đạt lúc đó là biên tập viên của báo Văn Nghệ. Lúc bấy giờ chưa có Hội Nhà Văn mà nói chung gọi là Hội Văn Nghệ thôi, và anh Lê Đạt vẫn là một cán bộ của Tuyên huấn trung ương. Khi tôi ra khỏi quân đội rồi thì không bị gò bó bởi những công việc và kỷ luật của quân đội nữa, thành ra tôi tự do hơn một chút, vì thế mới ra được Giai phẩm mùa xuân. Nhưng điều không ngờ là chính Giai phẩm mùa xuân đó lại gây ra tai nạn cho hai anh Tử Phác và Trần Dần. Chuyện này tôi có nói rồi, hình như tôi có nói một phần ở trong bài Con người Trần Dần đăng ở số 1 báo Nhân Văn năm 56. Sau này tôi có thể viết kỹ hơn, đầy đủ hơn những diễn biến của vụ đó. Sau khi tờ Giai phẩm mùa xuân được giải quyết rồi, tức là thu hồi này, rồi thì anh ấy bị kỷ luật một thời gian ngắn, rồi sau lại ra làm việc, thì các công việc mọi người cứ đâu lại làm đấy. Tôi vẫn phụ trách phó giám đốc nhà xuất bản Văn Nghệ. Anh Trần Dần vẫn ở quân đội cũng như anh Tử Phác và Phùng Quán. Anh Lê Đạt vẫn làm việc ở Tuyên huấn, lúc bấy giờ lại còn là bí thư chi bộ của tuần báo Văn Nghệ nữa, đấy là anh Lê Đạt. Mọi công việc nhà nước vẫn tiến hành bình thường.

T.K.: Thưa anh, nhiều người cho rằng hồi ấy các anh chủ trương Giai phẩm mùa xuân là do ảnh hưởng tình hình Liên Xô và Trung Quốc, nhất là từ phong trào Trăm hoa đua nở của Trung Quốc, thưa anh việc ấy có đúng không?

H.C.: Tình hình thế giới bắt đầu có những biến chuyển về mặt văn học, ở Liên Xô ông Khrouchtchev làm một cuộc chống tệ sùng bái cá nhân, cụ thể là chống những sai lầm của Staline. Ở Trung Quốc có việc chống phái hữu, rồi thì những gì gì đó mà chúng tôi không được đọc báo, nhất là việc Trung Quốc thì cũng chỉ nghe tin tức chung chung thôi chứ không được theo dõi kỹ lắm, đâáy là vào khoảng tháng 5, tháng 6 năm 56, tức là Giai phẩm chúng tôi ra rồi, ra từ đầu năm cơ. Sau này Lê Đạt đi Pháp về có nói rằng anh ấy có phản đối cái nhầm của ông Boudarel khi viết rằng Nhân Văn chúng tôi là chịu ảnh hưởng Trăm Hoa Đua Nở của Trung Quốc. Cái đó ông Boudarel rất nhầm. Bởi vì chúng tôi đã có ý định cải cách, hoặc canh tân thi pháp, hoặc đổi mới thi ca từ đầu năm 1956. Lúc bấy giờ chúng tôi chưa hề biết chuyện ở bên Trung Quốc về văn học có những cái gì, có những phong trào gì. Mãi sau mới có cái Trăm Hoa Đua Nở, sau Trăm Hoa Đua Nở thì đến chuyện Đấu tranh chống phái hữu. Mà phái hữu trong văn nghệ Trung Quốc thì có Đinh Linh và Trần Sĩ Hà là nổi bật lên. Chúng tôi chỉ nghe tin một cách sơ sài thế thôi. Còn nội dung là gì thì chúng tôi không biết lắm. Vậy thì chúng tôi không hề chịu ảnh hưởng cái chuyện Trăm Hoa Đua Nở của Mao Trạch Đông đưa ra, mà Giai phẩm mùa xuân của chúng tôi ra là hoàn toàn tự ý muốn riêng của mình và cái ý muốn đó là muốn cách tân thơ ca, đem lại luồng gió mới, không khí mới cho thơ ca chứ không chịu ảnh hưởng ai cả. Đó là một cái mà hôm nay, nhân thể đây tôi nhấn mạnh như vậy.

T.K.: Thưa anh, còn tờ Nhân Văn đã ra đời trong hoàn cảnh nào?

H.C.: Nhân Văn ra số đầu tiên khoảng tháng 9 năm 1956 tức là cách Giai phẩm mùa xuân 8, 9 tháng. Làm Giai phẩm mùa xuân, Giai phẩm mùa thu, Giai phẩm mùa đông cũng là do tôi và anh Lê Đạt làm là chính. Thế rồi đến Nhân Văn thì anh Nguyễn Hữu Đang là người sinh ra báo Nhân Văn, tôi là người đặt tên cho tờ báo. Nhưng đồng thời sau đó cũng lại chính mình và Lê Đạt phải làm tất cả mọi viêc của tờ báo. Thế còn anh Trần Dần thì vì anh ấy cũng yếu và những công việc của một tờ báo thì anh ấy cũng không làm được.

Việc mà tại sao nó ra, tại sao lại xuất hiện tờ Nhân Văn, lúc đầu nó như thế nào, thì tất nhiên là sau này tôi cũng sẽ thuật lại, lược thuật thôi. Chuyện đó nó phức tạp và sau này dù có thuật lại thì chúng tôi cũng chỉ thuật lại những nét chính. Cái tôi đi sâu vào vẫn là những bước đi của thơ ca, nó gặp những trở ngại gì, những trắc trở gì? Có những thuận lợi gì? Và những anh em nào hoan nghênh, anh em nào tán thành, anh em nào phản đối? Nhưng cái chính vẫn là vấn đề thơ ca thôi, thơ ca của chúng tôi. Thơ ca của cái nhóm anh em thân với nhau đấy, nhưng tất nhiên mỗi người một phong cách và có nhiều quan điểm cũng không giống nhau đâu. Thế nhưng mà cái thống nhất với nhau được là thơ ca một thời gian bị trì trệ bởi ảnh hưởng của Tự Lực Văn Đoàn và Thơ Mới trước cách mạng tháng tám, vẫn còn nặng nề. Nhất là ý anh Trần Dần và anh Lê Đạt là từ lâu, ngay từ năm 54 trước khi về Hà Nội, rồi sau khi về Hà Nội, hai anh ấy là hai người hăng hái nhất trong việc muốn đổi mới thơ ca, làm cho nó đừng trì trệ nữa, dù rằng ta phải học tập ở các nhà thơ bên Châu Âu mà thay đổi cái của mình, miễn là mình giữ được cái độc đáo riêng của mình.

T.K.: Thưa anh, tóm lại là mục đích chính của các anh trong thời điểm Nhân Văn Giai Phẩm là làm gì? Là đòi hỏi tự do sáng tác hay là cái gì khác?

H.C.: Lúc đầu chúng tôi vẫn chủ trương là không nói chuyện gì về chính trị, cũng không có bài báo nào bàn về chính trị lắm. Nếu có thì chỉ nhắc qua vài chuyện có liên quan đến văn nghệ thôi. Còn cái chính là đấu tranh để làm thế nào xây dựng được một nền văn nghệ dân chủ. Có dân chủ có tự do trong giới văn nghệ. Cũng như là có dân chủ trong hoạt động văn nghệ. Chúng tôi chỉ nhằm mục đích ấy thôi. Mục đích là đấu tranh để đạt được dân chủ và tự do trong sáng tác văn học và nghệ thuật. Thế nhưng tình hình thế giới lúc bấy giờ rất phức tạp và trong nước có những vấn đề rất nghiêm trọng, cho nên báo Nhân Văn cũng không thể tồn tại lâu được, mà chỉ ra được 5 số. Đến số 6, xong bài cả rồi nhưng mà cũng không in nổi, không in được và không ra được. Thế rồi thì bị đóng cửa. Nhưng đóng cửa xong thì mọi việc vẫn trở lại có vẻ như là bình thường. Bởi vì đóng cửa Nhân Văn xong, thì sang năm 57 thành lập Hội Nhà Văn riêng, Hội Nhạc Sĩ riêng, Hội Sân Khấu, Hội Mỹ Thuật và tháng 4 năm 57 thành lập Hội Nhà Văn thì tôi cũng lại được bầu vào ban chấp hành hội. Công việc thì vẫn phụ trách phó giám đốc nhà xuất bản, bấy giờ đổi tên là nhà xuất bản Hội Nhà Văn, do anh Tô Hoài, tôi và anh Đoàn Giỏi, ba người cùng chịu trách nhiệm. Thì hoạt động bình thường như thế cho đến hết năm 57.

II. Giai đoạn từ Nhân Văn đến thời kỳ đổi mới.

Thụy Khuê: Thưa anh, tuần trước chúng ta ngừng ở chỗ tờ Nhân văn ra được 5 số thì phải đóng cửa nhưng mọi việc vẫn trở lại có vẻ như là bình thường, tức là sang năm 57 thì thành lập Hội Nhà Văn mà anh vẫn được bầu vào ban chấp hành và làm phó giám đốc nhà xuất bản Hội Nhà Văn, nhưng sau đó thì tình hình xảy ra như thế nào?

Hoàng Cầm: Sang đầu 58, vì ở bên Trung Quốc có việc đấu tranh rất gay gắt chống hữu phái trong văn nghệ, nhưng chúng tôi cũng lại chỉ biết một cách hết sức sơ sài, là hình như có mấy nhà văn cũng đòi tự do, đòi dân chủ gì đó. Đặc biệt là có hai người là Đinh Linh và Trần Sĩ Hà là hai nhà văn có tiếng lúc bấy giờ coi như cầm đầu phái hữu trong giới văn nghệ của Trung Quốc. Thì có một cuộc đấu tranh gay gắt với những người cầm đầu đó. Ở bên ta, tôi nhớ chắc là anh Huy Cận và một người nữa, Lưu Trọng Lư hay là Hà Xuân Trường gì gì đó, tôi không nhớ rõ tên người thứ nhì, cũng được cử sang tham quan để rút kinh nghiệm đem về. Khi các anh ấy về thì lập tức ở bên này mở ra một lớp gọi là lớp học chính trị, nhưng chính là để đấu, đấu tranh quyết liệt với tư tưởng Nhân Văn Giai Phẩm. Tức là chống tư tưởng mà lúc bấy giờ người ta cho là “tư tưởng phá hoại chống Đảng”, mà tiếng thông thường là “phản động”. Đấy là đầu năm 58. Và sau một cuộc đấu tranh rất gay go, rất quyết liệt như thế trong vòng độ gần hai tháng thì quyết định kỷ luật một số nhà văn, một số họa sĩ và nhạc sĩ đã tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.

Riêng cái kỷ luật của chúng tôi bên Hội Nhà Văn, thì khai trừ ba năm anh Trần Dần, anh Lê Đạt, và bên Hội Âm Nhạc thì có anh Đặng Đình Hưng, anh Tử Phác cùng chịu chung một kỷ luật là khai trừ khỏi hội trong ba năm. Và trong thời gian bị khai trừ thì phải đi lao động để cải tạo tư tưởng theo giai cấp vô sản, thấm nhuần tư tưởng nông công binh, để thực hiện trong sáng tác của mình. Suốt năm 58, 59 đến 60 nữa, trong thời gian ba năm kỷ luật đó thì phải đi lao động. Chỉ có tôi và Phùng Quán, thời hạn nhẹ hơn, tức là khai trừ khỏi Hội Nhà Văn có một năm thôi. Riêng tôi thì khai trừ khỏi ban chấp hành, thôi giữ chức giám đốc nhà xuất bản Văn Nghệ. Ghi trên giấy trắng mực đen thì chỉ có thế thôi. .

Và đi lao động, thì cũng đi lao động như mọi người. Ví dụ như anh Trần Dần, anh Lê Đạt, anh Tử Phác, anh Đặng Đình Hưng, trong 6 tháng đầu tiên lao động cả ngày, tức là 8 tiếng, các anh về nông trường Chí Linh chăn bò, chăn trâu. Còn tôi, Phùng Quán, Trần Lê Văn và Quang Dũng, thì về cái tổ mà anh Hoàng Trung Thông làm tổ trưởng, tức là anh Hoàng Trung Thông là bộ phận lãnh đạo một cái đội đi về Thái Bình, ở một hợp tác xã nông nghiệp mới thành lập. Vì ở nông thôn, nhất là ở miền Bắc, sau đợt cải cách ruộng đất là đến đợt đưa nông thôn tiến lên hợp tác hóa. Lúc bấy giờ từ bắc vĩ tuyến 17 ra, là hợp tác hóa nông nghiệp. Chúng tôi đi về cái hợp tác xã như thế và lao động có một nửa ngày thôi. Còn nửa ngày thì có thể đi chơi với các gia đình nông dân, rồi đi tìm hiểu tình hình thực tế v.v… Mặc dầu cái lao động nửa ngày của tôi hay cả ngày của bốn anh kia là bắt buộc, nhưng mà bắt buộc cũng trong tinh thần văn nghệ thôi, chứ không gò bó ghê gớm như bọn bị đi tù khổ sai. Phải nói cho nó công bằng và rõ ràng như vậy. Còn những anh nhẹ nữa, như anh Quang Dũng, anh Trần Lê Văn, anh Hữu Loan chẳng hạn, thì hầu như chỉ cảnh cáo ghi lý lịch của hội viên thôi, nghĩa là một cái kỷ luật rất nhẹ. Nhưng lúc bấy giờ anh Hữu Loan có nhiều bực bội cá nhân cho nên anh ấy nhất định không ăn lương của hội nữa. Còn tôi và Phùng Quán thì vẫn có trợ cấp của hội, coi như một thứ lương nho nhỏ thôi, để đi lao động, chứ anh Hữu Loan thì thôi hẳn, không lĩnh lương và không làm gì ở hội nữa, và anh ấy lao động ở đâu thì đấy là việc của anh ấy, chứ anh ấy không đi theo các chỉ đạo của Hội Nhà Văn.

T.K.: Thưa anh, trong lúc ấy các anh có viết lách gì khôngï?

H.C.: Nội dung kỷ luật lúc đầu thì chỉ như thế thôi. Nhưng rồi cái kỷ luật đó nó kéo quá dài. Sau ba năm rồi thì anh Trần Dần và cả anh Lê Đạt nữa, có sáng tác khá nhiều, riêng tôi thì cũng sáng tác tập Về Kinh Bắc. Phùng Quán cũng viết nhiều truyện ngắn và làm thơ nữa, nhưng mà cũng không in ở đâu được cả. Không hiểu lý do làm sao, nhưng đưa đến nhà xuất bản nào hay tòa báo nào cho nó đăng thì đều bị từ chối. Rồi lặng lẽ mình cũng tự biết là có lẽ khó khăn lắm, thì mình cứ sáng tác để đấy thôi, cho vào ngăn kéo, rồi một vài anh em đọc với nhau, chứ không truyền bá đi đâu cả. Xong rồi dần dần thời gian cứ thế kéo đi, nó kéo thế nào mà cho đến năm 88. Tức là kỷ luật từ năm 58 đến khi hết kỷ luật, Hội Nhà Văn công bố hẳn hoi là năm 88. Ba mươi năm. Chúng tôi, tức là Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Hoàng Cầm, lúc bấy giờ anh Tử Phác mất rồi, chỉ còn Đặng Đình Hưng và cả những anh em bị cảnh cáo trước kia như Quang Dũng hay Trần Lê Văn… các anh ấy không bị kỷ luật gì vẫn có thể in sách, in báo được từ trước, thì Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm và Đặng Đình Hưng là bốn người đó không được in một cái gì cả, suốt từ năm 58 đến năm 88. Thế nghĩa là tròn 30 năm.

T.K.: Thưa anh, sau thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, anh đã làm gì để sinh sống?

H.C.: Tôi nhắc lại: trong vòng 30 năm, tức là kỷ luật bắt đầu từ 1958 đến 1988 thì phục hồi, nghĩa là 30 năm tôi không thể đem ngòi bút của mình kiếm được một đồng xu nào hết. Thế thì phải đi lao động chân tay. Tôi với anh Trần Dần, đã từng kéo xe bò. Lúc thì anh này cầm càng, anh kia đẩy, cứ thay phiên nhau như thế. Chỉ mới đi được hai hôm, cả Trần Dần và tôi đều ốm, tức là sốt, rồi nó đau hết mình mẩy và trận ốm ấy kéo dài có khi hàng tuần lễ. Sau không chịu được lao động chân tay nữa, đành phải đi kiếm ăn bằng cách, ví dụ như anh Trần Dần được một người bạn giúp cho đi tô màu ảnh. Lúc bấy giờ chưa có máy ảnh màu đâu. Ai thích ảnh màu thì cứ chụp đen trắng, xong Trần Dần ngồi bôi thuốc, bôi cái má hồng, bôi cái môi son, bôi cái áo hoa nọ kia, nghĩa là bôi màu vào ảnh để kiếm ăn. Mỗi cái ảnh như thế được một hào hay hào rưỡi gì đó. Nghĩa là cứ thế suốt ngày ngồi cặm cụi tô màu vào ảnh. Còn tôi thì đi làm phim đèn chiếu. Viết những lời thuyết minh để kể chuyện chiến sĩ thi đua, hoặc là người tốt, việc tốt, hoặc là an toàn lao động v.v… Những đề tài như thế thì cũng vẫn cứ làm, để kiếm được mỗi tối ba đồng.

T.K.: Xin anh cho biết anh làm phim đèn chiếu như thế nào và anh còn giữ một vài kỷ niệm gì về việc ấy không?

H.C.: Có một hôm anh Phùng Quán đến chơi vào khoảng 7 giờ. Phùng Quán hỏi: “Anh sắp đi đâu đấy?” Tôi bảo là tôi sắp đi chiếu phim đây. Thì Phùng Quán hỏi: Phim gì? Tôi bảo phim đèn chiếu. Phùng Quán cũng chẳng hiểu phim đèn chiếu nó thế nào, mới theo tôi đi. Xuống sân một xí nghiệp thì người ta mắc cái máy ở đấy, rồi thì cũng có écran. Họ bắt đóng hết các cửa ra vào nhà máy và bắt buộc công nhân phải xem. Bởi vì đây là một bài học về an toàn lao động. Phim chính tôi làm, an toàn lao động, thuyết minh bằng lời thơ, có lúc bằng văn xuôi. Đầu tiên là công nhân nó tức lắm, vì công đoàn bắt nó phải ở lại xem mà: Úi giời ơi! Ở giữa cái thành phố Hà Nội này mà lại chiếu những phim -ngày xưa người ta gọi là ống nhòm ấy mà- nó cứ keng keng keng gọi ra xem ống nhòm ở bờ hồ. Cái này nó cũng y như thế thôi. Chỉ có là nó chiếu lên màn ảnh to, chiếu ảnh lên, rồi nó phóng to lên. Thế rồi thuyết minh, y như ngày xưa xem ống nhòm ở ngoài bờ hồ, nó bảo: Này! Đây quan toàn quyền Pasquier đi kinh lý đây! A lô! A lô! Đây là Quốc Trưởng Bảo Đại… thế này thế kia… Đây! Vua Bảo Đại, hoàng đế Bảo Đại đi thăm tỉnh Thanh Hóa đây! Ngày trước thì nó như thế! Tức là mỗi cái ảnh nó bật ra, thì cứ chổng mông ra mà nhìn vào cái ống nhòm, trẻ con là thích lắm! Cứ bỏ vào đấy một xu thì được xem khoảng một vài chục cái ảnh. Còn cái này nó chỉ khác tí là nó chiếu lên écran, có lời thuyết minh một tí.

Đầu tiên công nhân họ phản đối, nhưng cũng không thể làm thế nào được, bởi vì đây là kỷ luật bắt buộc phải xem để học tập về an toàn lao động. Nhưng đến khi tôi bắt đầu cất tiếng thuyết minh và đến chỗ tôi bắt đầu cất giọng ngâm thơ lên thì họ bắt đầu chú ý và im lặng, chứ lúc đầu họ phá phách ghê lắm. Cứ ầm ầm, ầm ầm. Thế rồi dần dần họ theo dõi phim cho đến hết và khi ra về có vẻ rất mãn nguyện. Họ bảo: “Ờ, tưởng cái gì chứ phim đèn chiếu xem cũng được đấy nhỉ! Mà lại hay đấy nhỉ!” Thì đấy! Đi kiếm ăn như thế và Phùng Quán dự từ đầu đến cuối. Đến khi về thì tôi bảo: “Mình có ba đồng đây này, mời Phùng Quán đi ăn phở với mình.” Bát phở chỉ có 5 hào thôi. Phùng Quán bảo: “Không, đáng nhẽ em phải mời anh chứ! Anh làm gì có tiền, khổ thế mà anh mời em. Thôi, thế thì mỗi anh em ta làm một ly rượu suông vậy.” Mỗi ly rượu có 5 xu ấy mà. Rẽ vào một hàng, mỗi anh em uống một ly rượu suông. Phùng Quán nói một câu thế này: “Trời đất ơi! Nhà thơ nổi tiếng nhất nước thế này mà đi làm cái phim đèn chiếu! Cái ống nhòm ngày xưa! Em nghĩ nó tủi thân lắm, anh ạ”. Mình bảo: “Chả có cái gì là tủi cả! Mình lao động bình thường như một con người bình thường. Mình kiếm ăn, có cái gì mà tủi mới buồn! Chả có cái gì đáng buồn cả!” Tôi lại phải nói với Phùng Quán như vậy. Đấy là những kỷ niệm về thời bấy giờ.

T.K.: Thưa anh, việc sáng tác ở thời kỳ kỷ luật và sau kỷ luật của các anh ra sao?

H.C.: Chính lúc bấy giờ là lúc anh em lại viết được rất nhiều. Không phải là có một cái kỷ luật gì cấm sáng tác cả. Cấm không được in báo, xuất bản sách. Cấm xuất hiện cái tên của mình. Lúc bấy giờ tôi phải trông vào bà vợ. Như ở trong tập Về Kinh Bắc mà tôi đã viết đấy. Bà vợ rất tốt, chịu đựng kham khổ, hy sinh cho chồng con. Lúc bấy giờ tôi tập trung được tình cảm và suy nghĩ của mình liền trong năm tháng trời viết xong tập thơ Về Kinh Bắc. Trần Dần cũng trong vòng nửa năm ấy viết được Cổng tỉnh. Lê Đạt làm một loạt thơ về quê hương của mình, thuở thơ ấu của anh ấy tức là thời kỳ Yên Bái đấy, những bài thơ như là Lão núi, Ông lão chăn dê hay là Ông phó cả ngựa đều đã có bắt nguồn ngay thời bấy giờ. Chỉ có là về sau này anh ấy hoàn chỉnh lại thôi. Thế nghĩa là anh em không hề ngừng sáng tác, chỉ có điều là không được in thôi. Không được xuất bản. Đấy là năm 59.

Sang năm 60 trở đi thì lại bắt đầu đi lao động. Anh Trần Dần và tôi lại vào cái xí nghiệp nhà máy gỗ Hà Nội, anh Trần Dần làm thợ cưa, còn tôi thì đứng máy, ở cái máy cưa.

T.K.: Thưa anh, về công việc sáng tác sau giai đoạn 60 thì ra sao?

H.C.: Về cái việc sáng tác, thì sau khi anh Trần Dần làm xong Cổng tỉnh, anh Đặng Đình Hưng viết tập thơ đầu tiên trong cuộc đời anh ấy, đó là một tập thơ cực kỳ giá trị, tức là cái đầu ô, hay cái cửa ô, chưa xuất bản đâu, nhưng mà đấy mới thật là thơ Đặng Đình Hưng. Tôi thì Về Kinh Bắc, anh Trần Dần sau Cổng tỉnh lại tiếp tục, vào khoảng ngoài năm 60, 61-62 gì đó, anh ấy lại viết một tập thơ nữa là Mùa sạch. Và anh Lê Đạt vẫn làm những bài thơ lẻ hoặc là những bài thơ dài, tức là mới phác thảo thôi, nhưng vẫn làm việc đều đều suốt từ năm 60 trở đi. Cho đến năm 75, số tác phẩm viết ra mà chưa được in ở mỗi người dễ có là khá nhiều. Không hề là ngồi chơi không. Riêng anh Văn Cao thì lúc bấy giờ anh ấy có khuynh hướng muốn trở thành họa sĩ, anh ấy lại đi vẽ những minh họa, minh họa sách rồi minh họa trên báo. Riêng về thơ thì anh ấy không làm nữa. Cho đến khi phục hồi, lúc bấy giờ đều già cả rồi và Văn Cao thì cũng không còn một tình cảm nào say đắm về thơ như trước. Anh ấy vẫn làm thơ, nhưng riêng tôi thì mình thấy là thơ Văn Cao như thế, so với thời kỳ Cửa biển tức là Những người trên cửa biển ấy, thì xuống. Đến cái Cửa biển thì tôi cho là đến cái đỉnh cao của Văn Cao. Về sau, anh ấy vẫn làm nhưng không bằng Những người trên cửa biển.

Anh Trần Dần thì liên tục làm và anh ấy tìm tòi nhiều cách lắm. Sau đó anh ấy đi vào thơ mini, tức là có khi chỉ có một câu, hai câu, rất ngắn mà nó chứa đựng những tư duy rất hay và đặc biệt là ít lời, rất nhiều cảm xúc, rất nhiều trí tuệ.

Anh Lê Đạt vô cùng chịu khó học tập. Có khi anh ấy vào thư viện suốt cả tháng, anh ấy ở thư viện đến 10 giờ đồng hồ một ngày, đọc sách rồi nghiên cứu tìm tòi các thứ thơ văn cổ kim đông tây. Học rồi về nhà thì anh ấy lại làm. Có khi làm bài ngắn, có khi làm bài dài v.v… Và cuối cùng ra được tập Bóng chữ đấy. Nó chứng minh sự làm việc của anh Lê Đạt rất công phu.

Anh Trần Dần rồi cũng bị tật, sau khi bị cảm một trận năm 1974, anh ấy hơi liệt liệt, nhưng vẫn sáng tác thơ như thường, chịu khó tìm lắm. Gần đây, anh ấy lại sưu tập lại rút ra ở tất cả thơ của anh ấy, những chỗ nào hay nhất để đưa vào từng vấn đề của một tư duy thơ, gọi là lẩy Trần Dần. Anh tự lẩy. Anh ấy đã cố đưa ra một thế giới gọi là thế giới Trần Dần, cái univers Trần Dần, thì tôi đã thấp thoáng thấy nó hiện ra qua cái lẩy Trần Dần.

Tóm lại, sự làm việc của anh em thời kỳ hậu Nhân Văn, tức là thời kỳ 58, 59, 60 cho đến 75 gần như là không ai nghỉ một tháng, một ngày nào mà không lo về việc thơ ca cả. Chỉ có từ 75 về sau này, tình hình nó cũng có đổi khác, nhất là đến năm 88, được phục hồi, chính thức trở lại sinh hoạt Hội Nhà Văn, cái đà sáng tác ở mỗi người nó lại dâng lên, thì anh Lê Đạt cũng làm nhiều. Anh Trần Dần bắt đầu làm được một ít, thì chẳng may anh ấy lại bị bệnh khá nặng, cho nên là độ hai năm nay anh ấy không làm được gì nữa.

T.K. : Anh có dự định viết một cuốn hồi ký, thưa anh dự định ấy hôm nay đã đi đến đâu rồi ạ?

H.C.: Đầu tiên tôi cũng đã dự định, dự định từ lâu rồi, định viết một cuốn Mémoire khoảng 1000 trang từ năm 1990. Lúc bấy giờ tôi cần có một người trợ giúp mình, không những là về mặt viết lách v.v… mà kể cả về tình cảm. Bởi vì từ sau khi tôi mất người vợ năm 1985, đời sống tình cảm tôi bị hẫng hụt, phải nói là một cách ghê gớm. Sau đó, tôi bị gần như là một thứ bệnh tâm thần cho đến năm 87, thì nhờ các bạn, nhất là anh Dương Tường, anh Lê Đạt, kể cả anh Trần Dần và một số bạn trẻ nữa như là Thụy Kha, Trịnh Thanh Sơn… tôi đã dần dần hồi phục lại được sức khoẻ và nhất là tránh được cái bệnh tâm thần của tôi mà các bác sĩ cho là nó vào cái dạng trầm uất.

T.K.: Thưa anh, tại sao anh lại bị bệnh và bệnh trạng của anh, thực sự nó như thế nào?

H.C.: Tức là sau khi tôi bị giam cầm 18 tháng, (chú thích: về vụ bản thảo Về Kinh Bắc), từ đó đến khi được về thì những bác sĩ quen của tôi họ đều thống nhất một điểm là tâm thần của tôi tự nhiên nó bị ở hai dạng:

– trước tiên là hoảng loạn,

– thứ hai là trầm uất.

Thật ra thì cũng không có gì là ghê gớm lắm, cũng không xé quần, xé áo, không đi ra ngoài đường, không chửi bới hay làm những gì ầm ĩ cả, bởi vì chỉ là hoảng loạn thôi. Hoảng loạn một cách hết sức lặng lẽ. Ví dụ nghe một tiếng còi ô-tô và một cái gì như là frein ô-tô rít lên ở ngoài cửa -mà lúc bấy giờ tôi ở tít tận trong nhà cơ- nhưng khi nghe thấy như thế, vào lúc độ gần nửa đêm chẳng hạn, thì tự nhiên tôi co rúm lại và hết sức sợ hãi. Nó như là một cái bản năng đấy, tìm chỗ trốn. Quả nhiên là tôi đã có nhiều lần chui xuống gầm giường vì những hoảng loạn như thế. Hay nghe tiếng giày cộp cộp và thoáng thấy một bóng áo, như áo quân đội hay áo cảnh sát hay của một người thương binh nào đó, chỉ cần một cái bóng, một cái màu quần áo thôi, thì tôi cũng hoảng rồi. Người ta gọi là bệnh hoảng loạn. Chứ sự thực thì lúc ấy chẳng có ai dọa nạt, chẳng có ai làm gì mình cả.

Thứ hai là dạng trầm uất. Có khi cả ngày tôi không nói một lời. Bạn bè đến, tôi vẫn cứ tỉnh táo đi pha trà mời mọi người có vẻ lịch sự lắm. Nhưng đến khi người ta hỏi tôi về bất cứ một cái gì đó thì tôi không trả lời hoặc là trả lời gióng một.

T.K.: Thưa anh lúc anh bị bệnh nặng như thế là thời kỳ nào?

H.C.: Là năm 87 có độ 7, 8 anh em nhà văn trẻ như là Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lâm Thị Mỹ Dạ, Ngô Minh, v.v… ở trong Huế ra chơi, họ đến nhà anh Phùng Quán. Họ nhờ anh Phùng Quán đưa xuống thăm tôi. Tôi cũng vẫn có vẻ như vui mừng được gặp những người anh em xưa nay người ta mến mình thì cũng vẫn giữ một thái độ thân ái thôi. Nhưng đến khi Hoàng Phủ Ngọc Tường hỏi rằng: “Anh có dự định sáng tác gì nữa không?”, thì tôi lắc đầu không trả lời thành tiếng gì cả. Lắc đầu. Cứ lắc đầu hoài. Thế rồi họ hỏi cái gì tôi cũng lắc đầu. Chỉ lắc đầu mà tôi không nói gì hết. Phùng Quán thấy thế cho rằng tôi suy sụp hoàn toàn về tinh thần. Đó là đầu năm 87. Phùng Quán có vẻ bực tức cái chuyện ấy lắm mới chạy đến nhà anh Lê Đạt, bảo anh Lê Đạt: “Bây giờ anh Hoàng Cầm bị tình trạng như thế này thì chỉ có anh mới giúp anh ấy được, chứ em trông thấy thế này thì em sợ lắm, và em nghĩ rằng một tài năng như anh Hoàng Cầm mà bị như thế này thì chúng ta sẽ hết sức thiệt thòi, anh ấy không còn có thể viết một cái gì được nữa.” Lê Đạt thì vững vàng hơn. Lê Đạt chỉ bảo Phùng Quán rằng: “Rồi cái đó nó cũng sẽ qua đi. Tôi tin rằng Hoàng Cầm không bao giờ là người sẽ suy sụp.” Phùng Quán vẫn không tin Lê Đạt, bèn về viết một bài, nó cũng không phải là thơ, là một ý kiến, có vần, có điệu, coi như một bài thơ, nó thế này này:

Tôi tin núi tàn

Tôi tin sông lấp

Tôi không thể nào tin

Một nhà thơ như anh

Lại ngã lòng suy sụp.

Một nhà thơ đã từng viết những câu thơ lẫm liệt

Trong tiểu đội của anh những ai còn ai mất

Không. Không ai còn ai mất

Ai cũng chết mà thôi

Người sau kẻ trước lao vào giặc

Giữ vững nghìn thu một giống nòi.

Rồi lại đến một cái điệp khúc:

Tôi không tin một nhà thơ như anh lại ngã lòng suy sụp.

Trên thế gian có nghìn nhà thơ lớn

Trên thế gian có nghìn con sông lớn

Nhưng chỉ có một dòng nhờ thơ mà vang vọng

Nhờ thơ mà vinh danh

Đó là con sông Đuống quê anh

Mà anh xót xa như bàn tay anh rụng

Tôi tin chắc như đinh đóng cột

Sau này anh chết đi

Theo sau linh cữu anh

Ngoài bạn hữu gia đình có cả con sông Đuống.

Sông Đuống mặc đại tang khóc bên bồi bên lở

Sóng vỗ bờ nức nở

Đời đời chịu tang anh.

Tôi không tin một nhà thơ như anh lại ngã lòng suy sụp.

Phùng Quán viết to bài thơ đó lên một tờ giấy rất to như là tờ giấy lấy ở bao xi măng ra và anh ấy xuống treo ngay ở nhà tôi. Thì tôi cũng cứ mặc, thế thôi. Cả thời gian ấy tôi vẫn cứ ở trong tình trạng đó. Mãi về sau, cuối năm 87, nhất là sang năm 88, trong một cuộc họp bàn ban chấp hành hội nhà văn, có bàn đến việc phục hồi những nhà văn bị kỷ luật trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Sau đó, nhờ các bạn kéo tôi đi chơi vào những chỗ mà người ta yêu mến mình, dần dần nhờ những sự săn sóc đó mà tôi trở lại viết được. Và cái mà tôi viết được ngay là bài Mưa Thuận Thành.

T.K.: Thưa anh, nói về việc phục hồi, thì trong hoàn cảnh nào, ở thời điểm nào anh đã được chính thức phục hồi?

H.C.: Năm 1988 đấy. Hôm mà báo Văn Nghệ tổ chức 40 năm thành lập báo Văn Nghệ, lúc bấy giờ là dưới sự điều khiển của anh Nguyên Ngọc. Họ có tổ chức hai buổi ra mắt độc giả. Hôm đó tôi được mời, và họ yêu cầu anh đọc cho một hay hai bài thơ; thì phần lớn đều yêu cầu bài Bên kia sông Đuống. Bài đó bị vùi đi lâu quá, cho nên bây giờ họ hết sức tha thiết yêu cầu như thế. Nhưng mà tôi, tôi đã có chủ định rồi, tôi nhất định không đọc bài Bên kia sông Đuống và tôi đọc hai bài thơ mới là bài Mưa Thuận Thành và bài Lá diêu bông, hai bài hoàn toàn xa lạ. Tôi muốn gây một effet mới, thì họ tán thành ngay. Tôi đọc xong bài Mưa Thuận Thành, đến bài Lá diêu bông, vì muốn nhấn mạnh cho nên tôi đọc một lần và ngâm một lần. Tôi vốn cũng nổi tiếng về ngâm nữa, cho nên người ta thích. Tôi lại ngâm bài đó với một giọng vừa trữ tình, vừa mang hồn bài hát quan họ và lại pha một chút nhạc ca trù, vì từ thời niên thiếu, tôi đã quen với ca trù rồi. Đến khi tôi ngâm xong bài Lá diêu bông thì nó biến cái hội trường thành như một cuộc mít-tinh gì đó, mà tất cả nhằm vào tôi. Đến ngày hôm sau, ra cái hội trường lớn hơn tức là hội trường của Cung Văn Hóa (bấy giờ còn gọi là Cung Văn Hóa Hữu Nghị Việt-Xô), khi họ nói đến tên tôi là lại nổi lên một trận vỗ tay đến nỗi là tôi phải trốn tiếng vỗ tay đó. Không hiểu làm sao mà lúc bấy giờ tôi cứ ngường ngượng. Khi tôi lên sân khấu rồi, tiếng vỗ tay vẫn tiếp tục. Chợt có một lúc, tôi như chợt khóc lên, như là nước mắt ở đâu đó nó trào ra. Không phải là giọt nước mắt vui mừng vì cái vinh quang nó trở lại với mình. Không! Tuyệt nhiên không phải cái đó mà lại là tình cảm này: Lúc bấy giờ tôi chợt nhớ đến bà vợ tôi là bà Lê Hoàng Yến. Nếu không có bà Lê Hoàng Yến thì không có tập Về Kinh Bắc. Mà Về Kinh Bắc tôi viết ngay cuối năm 59, tức là chỉ có một năm sau khi thi hành kỷ luật (kỷ luật là 58-59), đối với tôi thì đúng là oeuvre clé. Thành ra tôi nhớ đến bà vợ tôi đã qua đời trong cảnh vô cùng nghèo đói, phải chạy ăn từng bữa một, từng dúm gạo một. Tiền thức ăn thì cũng không có, bữa cơm nào hai vợ chồng cũng phải nhịn bớt đi, nghĩa là đáng lẽ mình ăn ba bát, ăn có một bát, để nhường cho các con ăn. Bà vợ tôi chết vào những ngày như thế, mà lại chết vào năm 85 ấy, lúc tôi đang bị cái bệnh tâm thần, đang ở cái dạng trầm uất và hoảng loạn như thế. Vì bà ấy phải chạy từng ngày bữa ăn của gia đình. Gia đình thì đông. Mỗi một tháng lại phải lên trình diện một lần mới được người ta cấp cho 12 cân gạo. Rồi lại phải đi lên sở lương thực để lấy giấy chứng nhận nọ kia, rồi bấy giờ mới lại sang phòng tài chính để thanh toán tiền, xong rồi xuống chỗ bán hàng, xếp hàng chờ đợi. Tóm lại là muốn được 12 cân gạo, bà vợ tôi vất vả đến mức là nó lên một trận huyết áp rất đột ngột, chỉ mới có từ chập tối hơi sôn sốt, rồi bà ấy đi nằm, mà giữa mùa nực, bà ấy thấy có cái gì ren rét, tôi đã phải đắp cho bà ấy một cái chăn lớn. Đến 4 giờ sáng thì người cứng ra và liệt nửa người. 9 giờ thì đem đi cấp cứu và đến chiều hôm sau qua đời.

Thành ra đến lúc lên sân khấu, cái vinh quang nó trở lại với tôi một cách quá sức tưởng tượng, thì chợt hình ảnh vợ tôi đã chịu tất cả mọi khổ sở trong vòng 30 năm, tròn 30 năm, tức là kỷ luật bắt đầu từ 1958 đến 1988 thì phục hồi. Nghĩa là trong 30 năm, tôi không thể đem cái ngòi bút của mình kiếm được một đồng nào hết.

T.K.: Thưa anh, sau buổi liên hoan do tờ Văn Nghệ tổ chức đánh dấu việc anh đã được chính thức phục hồi, thì sau đó anh làm gì, và nếu anh viết thì những điều anh viết có in được không?

H.C.: Sau cái buổi ấy rồi thì tôi cũng tiếp tục sáng tác và chuẩn bị in các tập thơ. Đầu tiên là định in ngay tập thơ Về Kinh Bắc, vì nhiều nhà xuất bản đã biết tên tập thơ đó. Khổ cái là tôi mất hết bản thảo. Bị tịch thu, rồi thì chỗ nào có thì người ta cũng phải giấu đi, chứ không thì mắc tội gì đó. Tôi không làm thế nào mà nhớ hết cả tập thơ 48 bài, chỉ nhớ được độ mươi bài ngăn ngắn thôi. Thế nhưng đến các nhà xuất bản thì họ cũng không ai dám in. Nhà xuất bản Văn Học, nhà xuất bản Hội Nhà Văn (lúc bấy giờ còn tên là nhà xuất bản Tác Phẩm Mới), nhà xuất bản Phụ Nữ… tất cả đều rất quý, rất thích nhưng không ai dám xuất bản cả. Tôi mới nói chuyện chơi với anh Quang Huy, giám đốc nhà xuất bản Văn Hóa, và đưa cho anh ấy xem một tập thơ, toàn những bài mới làm, mà toàn là thơ tình thôi, chứ không có dính dáng gì đến tập Về Kinh Bắc cả, bởi vì tôi biết rằng nếu còn dính dáng đến cái tập ấy thì không ai cho mình in. Đọc xong anh ấy bảo: Thôi anh để cho tôi in tập Mưa Thuận Thành này nhưng phải yêu cầu anh cho một số bài nổi tiếng mà anh đã đăng báo rồi như Lá diêu bông, Cây tam cúc, Qua vườn ổi, Cỏ bồng thi, Tắm đêm, Về với ta, v.v…, tức là vào khoảng độ 7, 8 bài, mà là những bài anh em đã rất quen thuộc ngấm ngầm trong suốt 30 năm. Tôi bảo: “Cái này thì ông phải đối phó với cơ quan chính quyền thôi”. Anh Quang Huy bảo: “Được rồi, tôi sẽ có cách”. Quả nhiên khi anh ấy in, tôi cũng đưa vào đấy 8 bài trong tập Về Kinh Bắc. Thì cuối cùng đúng là anh ấy phải tiếp mấy cán bộ đại diện cho cơ quan công an của trung ương, hỏi anh ấy tại sao in tập này, lại có lẫn mấy bài ở trong tập Về Kinh Bắc. Rồi họ yêu cầu cho mượn bản thảo và cho xem cả bản sắp chữ, bản morasse. Anh Quang Huy vẫn thực hiện đúng ý kiến của trên, nhưng anh ấy có yêu cầu thế này: “Các anh mượn, chúng tôi rất vui lòng, nhưng các anh phải trả lại tôi để tôi in cho đúng kế hoạch của nhà xuất bản, nếu không thì nhà xuất bản chúng tôi phá sản, chúng tôi lỗ vốn đấy”.

Nhưng có một điều là anh Quang Huy, người chủ trương in tập Mưa Thuận Thành ấy, thì dù sao anh ấy cũng có cái dè dặt. Thành ra đáng lẽ có thể in được độ 2000 cuốn thì vẫn bán hết, anh ấy dè dặt chỉ in 1000 cuốn thôi. Thành ra người ta đến hỏi anh ấy quá nhiều, anh ấy lại không muốn tái bản mà còn nói một câu đùa đùa là: “Thôi thơ Hoàng Cầm thì cứ để cho người ta thòm thèm thì thích hơn.” Ví dụ như Kiều Loan là kịch thơ viết năm 1942, thì đến năm 1992 mới có thể xuất bản được, vừa đúng nửa thế kỷ! Cũng như Về Kinh Bắc viết năm 59 thì năm 94 mới xuất bản, 35 năm!

Thế còn những bài thơ mới viết từ năm 87, tức là bắt đầu thời kỳ đổi mới, và những bài thơ mới ra bây giờ thì in được ngay. Điều đó chứng tỏ rằng từ sau khi đổi mới, có lẽ sức viết của mình bị dồn nén lại trong 30 năm, cho nên đến lúc này nó lại bật ra, giống như cái lò-xo, nó bật lên thì tất nhiên nó bật mạnh. Cho nên những tác phẩm của tôi viết từ năm 87 đến bây giờ, có nhiều bài có cái sức bật mà trong dư luận anh em cho rằng tôi vẫn còn giữ được cái sức trẻ ở trong sáng tác của mình, giữ được cái thanh xuân trong câu chữ, trong nhịp điệu, trong cảm nghĩ của mình. Đó cũng là điều may mắn cho tôi. Nhưng đó cũng là đương nhiên vì nó đã bị dồn nén 30 năm thì khi nó bật ra nó phải bật được nhiều. Tôi cũng rất mừng cho bản thân mình mặc dầu tuổi cũng đã cao và sức khỏe càng ngày càng yếu, nhưng khi nào xúc cảm đến thì sáng tác nó lại bật ra như thường.

T.K.: Thưa anh, từ thời kỳ đổi mới đến bây giờ thì cuộc sống và sáng tác của các anh thay đổi như thế nào?

H.C.: Từ đổi mới đến bây giờ tức là từ 1987 cho đến nay thì tất cả mọi người lại tiếp tục đi vào con đường sáng tác và nhất là anh Lê Đạt thì cái đổi mới thơ ca ở anh Lê Đạt thấy rất rõ rệt. Người ta thấy công lao của anh Lê Đạt trong cuộc đổi mới thơ ca, về thi pháp cũng như về tư duy, cảm xúc. Thi ca của anh ấy thấy rõ ràng có nhiều đổi mới. Mặc nhiên, cũng nhiều dư luận khác nhau, có người chê, người khen thì đó là tất yếu. Nhưng rõ ràng tất cả mọi người đều thấy rằng anh Lê Đạt rất có công trong việc đổi mới thi pháp và có những suy nghĩ mới, có cảm xúc mới trong thơ. Còn riêng tôi, thì từ năm được phục hồi, tôi vẫn không ngừng sáng tác. Ngoài Về Kinh Bắc tôi viết năm 59, mà đến năm xuất bản là năm 94, tức là 35 năm! 35 năm nó vẫn nằm ở trong ngăn kéo nhưng đồng thời nó cũng không thể nào cứ ở trong ngăn kéo được, bởi vì đã là thơ thật ấy thì nó có cánh nó bay. Mặc dầu nó bay một cách hết sức lặng lẽ, nhiều khi có vẻ phải trốn tránh, nhưng nó vẫn cứ bay ở trong một số người yêu thơ, nhất là sinh viên và thanh niên ở Hà Nội, Sài Gòn, Huế. Từ năm 87, 88 tôi vẫn sáng tác rất đều.

T.K.: Bây giờ trở lại những ngày đầu mà anh bắt đầu làm thơ, thưa anh, anh đã đến với thơ trong trường hợp như thế nào?

H.C.: Bây giờ tôi mới nghiệm ra là hình như tôi là thơ bẩm sinh thì phải, hình như là thơ đã nhập vào người tôi từ lúc tôi còn là cái bào thai. Không biết là có đúng không. Mà ngay từ khi tôi biết được khách quan tức là có ý thức được rằng mình đang ở đâu, bố mẹ mình thế nào, rồi chung quanh mình thế nào, tức là từ năm lên 5 tuổi. Lúc bấy giờ gia đình tôi ở môt phố xép, bên cạnh đường số 1, còn 6 cây số nữa mới đến thị xã Bắc Giang. Nhà tôi có một cái tủ thuốc của ông bố tôi làm cụ lang chữa bệnh, với lại một cái bồ hàng xén của bà mẹ tôi, thường thường là gánh đi bán ở các chợ chung quanh mấy xã đó, là huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang. Sống nghèo nàn như thế thôi. Không hiểu sao khi tôi lớn lên một chút thôi, tức là từ năm lên 5 tuổi, luôn luôn tôi cứ mơ mộng về những đám mây, nó cứ đi, nó cứ bay rồi nó về một ngọn núi xa xa là dãy núi Nham Biền ở tỉnh Bắc Giang đấy. Đằng sau đường xe lửa đi độ vài trăm mét thì có một con ngòi, khi mùa nước lũ nó cũng to, mùa khô thì có thể lội qua được. Tôi hay ra bờ con ngòi đó. Mình cứ mơ mơ màng màng vào con sông đó, cái ngòi đó, cứ trôi mà không biết trôi về đâu. Có khi mình thả những con thuyền, lấy một cái lá đa bó bó nó lại như hình con thuyền ấy, rồi mình thả cho nó trôi. Để muốn nói rằng, thời thơ ấu của tôi cho đến khi tôi học hết tú tài thì cái nghiệp thơ đã định vào người tôi từ quá sớm. Mà tôi sống rất cô đơn, ở một xóm quê, cứ thơ thẩn trên cái đường làng hiu hắt như thế cho đến bây giờ 77 tuồi, tức là 70 năm. Bởi vì tôi cũng bắt đầu làm câu thơ đầu tiên vào năm lên tám tuổi. Cái nghiệp thơ ấy nó cứ theo đuổi tôi suốt bảy chục năm. Có thể nói là không có một ngày nào, tôi buông rời được cái hồn thơ của tôi.

T.K.: Anh có thói quen làm thơ vào những lúc như thế nào? Ban ngày hay ban đêm? Hay là phải những giờ phút đặc biệt mà anh có cảm hứng?

H.C.: Không hiểu làm sao mà cái hồn thơ của tôi nó cứ luôn luôn đêm nào cũng thế, nó cứ thao thức ở trong người. Có lúc thì bật ra được bài thơ, mà không chăng nữa thì nó cũng vẫn là những giấc mê hoặc những mơ mộng, hoặc những nguyện vọng, những ao ước. Nó luôn luôn bám lấy tôi, nhất là về ban đêm. Và cũng phải nói một điều là từ lúc biết làm thơ, chưa bao giờ tôi làm thơ ban ngày hay chưa bao giờ tôi làm thơ theo một chủ đề định sẵn. Cứ tự nhiên nó đến, rồi tự nhiên nó đi. Không hề có một sự cố gắng tìm tòi chữ nghĩa hay bố cục gì cả. Tất nhiên là cảm xúc đầu tiên có ghi ra giấy, sau đó là cái thời gian phải nâng cao lên, tức là chọn chữ hoặc thay đổi chữ nọ, nhịp kia v.v… thì tất nhiên phải làm. Và cái giai đoạn này nó đã bắt đầu ngay từ lúc còn thơ ấu.

T.K.: Thưa anh, anh nhận xét như thế nào những sáng tác mới nhất của anh, và xin anh đọc cho thính giả nghe một trong những bài thơ vừa viết xong.

H.C.: Có điểm này là trong một vài năm nay, không hiểu làm sao thơ của tôi nó buồn một cách -tôi tưởng tượng như là cái vũ trụ này nó sắp tan đi đâu đấy- nó có cái đó thật ở trong hồn mình, cho nên bài nào cũng có vài “hơi” như thế: một cái hơi thở; không biết gọi là cái gì, nó như là một sự tan, như một cái hơi tan vào gió, một cái gì đấy tan vào nước. Và chỗ nào cũng có một cái gì như là tan. Đấy là một cảm giác tất yếu thôi bởi vì tâm hồn người già thường hay bị cái gì như tan ra như là cuộc sống, vì cuộc sống của mình cũng đã khổ quá rồi. Đến lúc già nó cũng tạm yên, nhưng đến tuổi này thì thấy cái gì cũng tan loãng hết, không đọng lại được, những cái như tình yêu, thương nhớ… nhất là những tình cảm nam nữ, tình cảm vợ chồng, tình cảm bạn hữu… Tôi cứ bị như một cái gì nó tan, không trụ lại được, cứ bị cái đau khổ đó trong vài ba năm nay. Thế tôi hãy đọc một đoạn nhé, bài này cứ gọi là vô đề cái đã:

Vô đề

Biển xanh ánh phật mười phương

Hương sen dậy sáng

Ôm trắng nghìn mây

Vạn kiếp dãi dầu

Oan nghiệt rên la bi thống

Nước mắt dàn bốn đại dương đau

Chiến tranh ư?

Bạo lực cơ cầu

Đói hành hạ

Rét dày vò số kiếp

Người với người cắn nhau đau tội nghiệp

Tình với tình biền biệt những lìa xa.

T.K.: Xin cám ơn nhà thơ Hoàng Cầm.

 

Những mối tình ‘chị – em’

Hoàng Cầm

Lá diêu bông là kỷ niệm những lần nô đùa ở cánh đồng gần nhà. Hôm đó, chị Vinh đi tìm một loại lá thuốc cho thầy u. Tôi lẽo đẽo theo sau hỏi: “Chị tìm lá gì đấy?”. Biết tôi thích, chị dõng dạc tuyên bố: “Đùa. Đứa nào tìm được lá đấy. Ta gọi là chồng”. Tôi nghe vậy, cả người rạo rực hẳn lên, thích lắm. Kỷ niệm lần đó đã thành thơ tôi. Lá diêu bông, chả biết loại lá đấy như thế nào vì nó không có thật, chỉ có cảm giác ấm áp, nhẹ nhàng, mờ ảo…Chiều Hà Nội dường như lạnh hơn. Tôi và thi sĩ Hoàng Cầm, người được mệnh danh là “gã – trai – lơ” của Kinh Bắc một thời ngồi cạnh nhau, hàn huyên trên ban công nhỏ tầng 5. Ngày. Ông chỉ ăn 2 bữa, lúc cháo, lúc cơm. Rượu uống hết 6 chén, thuốc lào vẫn rít đều đặn. Riêng anh – chàng – bàn – đèn vẫn ngả nghiêng với ông vào mỗi sáng. Giọng ông đều đều: “Mình chỉ ngủ được 3-4 tiếng thôi, còn đâu là nghĩ. Nghĩ nhiều quá lại thấy buồn. Đôi lúc không muốn nghĩ nữa, nhưng kỷ niệm vẫn cứ ập về. Mình là nhà thơ nên cảm xúc nhiều. Khổ”. Giọng ông đặc quánh mùi thuốc lào: “Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng…/Chị thẩn thơ đi tìm/Đồng chiều/Cuống rạ/Chị bảo/Đứa nào tìm được lá diêu bông/Từ nay ta gọi là chồng”. Dù tuổi đã 87, nhưng giọng thi sĩ Hoàng Cầm vẫn còn ít nhiều độ uyển chuyển, bổng trầm như vậy. Cụ ngồi vê vê thuốc lào, tìm chiếc bật lửa, lại châm đóm, lại rít một hơi dài, ánh mắt nhìn vào khoảng trời chiều, giọng từ từ…Trong cuộc đời mình, tôi có kỷ niệm đằm thắm với 13 chị. Các chị đều ở Bắc Giang, Bắc Ninh cả. Mỗi người đều là sự đánh dấu một quãng thời gian đáng nhớ trong tuổi ấu thơ hoặc thanh niên của tôi. Bây giờ tôi đã 87 tuổi rồi, nằm trên căn gác này, chả đi đâu được. Cứ định viết cái gì, tôi chỉ nghĩ được một lát là mọi thứ lại xoay tròn, mù mịt. Tôi biết, trí não mình đã yếu, nhưng cứ nhắc đến tên từng chị là những chuyện xưa lại trở về như mới hôm qua, hôm kia. Tiếc là bây giờ rất khó viết, chỉ có thể kể lại…

Mối tình lá diêu bông: “Tôi chẳng bao giờ cạn yêu”

Hồi ấy, dù chỉ mới 5 tuổi, tôi đã biết chị đẹp, làn da trắng hồng, đôi mắt to thăm thẳm. Đứng đầu nhóm trẻ con trong phố, chị đi bất kỳ đâu chúng tôi cũng xoắn xuýt theo sau. Khu phố nơi chúng tôi ở gần sân ga, bãi cỏ rộng thênh thanh là nơi để tha hồ vui nghịch. Chị tên Vinh, hơn tôi 8 tuổi, ở ngay trước nhà tôi, chung một con phố Như Thiết của tỉnh Bắc Giang. Tôi còn nhỏ nhưng đã thích gần người phụ nữ ấy. Chị đi bất kỳ đâu, tôi đều theo sát như chàng lính hầu cận. Bài thơ Lá diêu bông là sau này tôi viết tặng chị. Nếu biết tôi tặng, chắc chị cũng ngậm ngùi. Những ngày trăng sáng, chúng tôi thường theo chị ra bãi cỏ sau sân ga. Chị lớn nhất nên dẫn đầu, tổ chức hát quan họ, đối đáp, hát ví… Tôi dần quen dân ca từ đấy và thơ tôi cũng ảnh hưởng chất dân ca từ chị. Thời gian đó, tôi phải đi học xa nhà đến 3 cây số đường bộ. Tôi ở trọ nhà người bác họ. Cứ hai tuần, bố lại nhờ người lên đón tôi về. Mỗi bận về, tôi lại giúi vào tay chị lá thư với nét chữ nguệch ngoạc: “Chị ơi, em nhớ chị lắm, em muốn về, không muốn học nữa”. Đọc xong, chị chỉ cười, nhét vào túi áo.

Năm tôi lên 10, gia đình chuyển đi nơi khác. Sáu tháng sau, chị lấy chồng. Sau này, tôi có viết câu thơ về chồng chị trong bài Cây Tam Cúc: “Quan Đốc đồng, áo đen nẹp đỏ”. Chị Vinh và chồng có một cô con gái, nhưng 2 người đã chia tay. Anh chồng bắt mất cô con gái duy nhất ấy. Sau đó, chị vào Sài Gòn sống cùng mẹ, hai mẹ con bán hàng tạp hóa, cuộc sống cũng không khá giả gì. Thế rồi, tôi lại gặp chị Vinh trong một lần đi xem kỹ kịch làng bên. Khi ấy, tôi đã vào quân đội, còn chị thôi chồng. Chị héo úa nhiều, nhưng đôi mắt vẫn không thay đổi, bờ mi cong vút, ánh mắt thăm thẳm. Nhất là khi chị cười, đôi mắt luôn cười theo, cứ như là đàn bà, con gái lẳng lơ vậy. Chị kể chuyện chồng con, gia đình trên suốt quãng đường về làng. Chị cứ xưng em, còn tôi mắng át: “Sao lại xưng em? Chị vẫn là chị chứ?”. Rồi hai chị em cùng cười. Lần thứ 2, chúng tôi gặp lại nhau vào năm 1987, lúc chị ra Hà Nội chơi với người em họ. Cậu ấy biết chuyện của tôi và chị nên thu xếp để chúng tôi gặp nhau. Khi này, cả hai cũng đã 70 tuổi cả rồi. Ngồi ôn lại kỷ niệm, tôi mới dám thú thật: ‘Ngày ấy, tôi mê chị quá, nhưng còn đang học, chẳng thể lấy nhau được”. Sau lần ấy đến nay, tôi không có tin tức gì của chị nữa. Với chị Vinh, tôi chẳng bao giờ cạn yêu. Nếu có thể, giờ tôi vẫn muốn đi lại trên cánh đồng xưa, hái lá cho chị. Tình cảm tôi dành cho chị vẫn như thưở nào, như cậu bé chưa đầy 10 tuổi mơ được chị gọi “là chồng”.

Kể đến đây, khuôn mặt ông trũng buồn, rầu rầu: “Đáng ra, mình không bị liệt một chỗ, đi bộ được sẽ tốt hơn. Đây chỉ nằm với ngồi ở nhà không, buồn lắm. Mà buồn lại lôi rượu ra uống. Hay các cậu làm vài ly với mình”. Cụ chỉ mấy chai Vodka và rượu mơ trong góc nhà: “Nhớ phải ngửi đúng rượu hay không nhé! Kẻo lại nước lọc con cái nó để nhầm chỗ đấy”. Cụ rót ra 4 chén rồi nâng lên: “Nào! Chạm cái. Hồi trẻ mình uống được nửa chai Vodka này, giờ thì ít hơn, chỉ 6 chén thôi”.

Thi sĩ Hoàng Cầm cứ bảo mình quá già rồi, sống lâu, buồn chán lắm. bạn bè đi hết, còn ông cứ nằm, ngồi đây. Rồi nghĩ, nghĩ về ngày xưa, nghĩ chán đến mức không muốn nghĩ, nhưng chẳng vứt khỏi đầu được. Đầu cứ ong ong lên, rồi mọi thứ rối lùng bùng. Chân tay tê tê, buồn buồn nhưng nhức bên trong. Rồi lại… bạn bè ít qua thăm lắm, thảng mới thấy vài người đến. Ra ngoài cũng ít, vì mỗi lần đi ông lại phải nhờ vả con cái, ngại phiền chúng nó. Cứ nghĩ chúng phải bê vác mình từ tầng 5, xuống tầng 1, rồi lại cho lên xe đẩy nên ông ngại. Chỉ khi nào có việc ở Hội nhà văn, ông mới nhờ. Rồi lại… nâng ly, nâng ly, làm thêm một hớp, giọng xa xăm…

Mối tình em 17, chị 19

năm 1938, tôi mới 17 tuổi. Học cao đẳng Tiểu học ở thị xã Bắc Ninh, tôi ở trọ nhà một bà nọ. Gia đình này thuộc diện trung nông, khá giả, vẫn còn nhà ở làng Đại Tráng, cách nơi cho thuê trọ tại tỉnh Bắc Ninh 2km. Bà chủ tốt, tôn trọng các cậu học sinh, gia đình cũng vào lớp người có học nên cư xử rất lịch sự. Buổi trưa nọ, gần 11h, tôi thấy một cô gái mặc đồ nông dân, gánh gạo vào nhà. Ban đầu tưởng bà chủ mua gạo, lúc sau tôi mới biết đó là con gái chủ nhà. Lúc cô ấy vừa đặt quang gánh xuống, tôi thấy đẹp quá! Trông lại mộc mạc, quê mùa, thêm những giọt mồ hôi trên những khuôn mặt hồng hào, đôi mắt to đen lay láy, sao lại có cô gái nông thôn xinh thế! Không hiểu sao tôi chú ý và bắt chuyện rất tự nhiên. Bà chủ nói: “Em nó tên Nghĩa, năm nay 19 tuổi”. Tự dưng tôi tò mò muốn biết về con người chị Nghĩa, chị sống thế nào, đạo đức ra sao…? Nhưng biết hỏi ai? Thỉnh thoảng, tôi chỉ loáng thoáng nghe bà chủ kể thưở bé em nó thế nào, làm lụng ra sao, thoáng thoáng thôi, nhưng thấy quý lắm.

Hai người cháu gọi bà chủ bằng bác là anh Thiệu (hơn tôi một lớp) và anh Kỷ (học cùng lớp) ngày nghỉ lại hẹn nhau về Đại Tráng chơi, bàn nhau mua cái gì nấu ăn. Mỗi lần về. Chị Nghĩa lại ra đón. Chúng tôi nhanh chóng thân thiết. Muốn ăn gì, cứ nói, chị nghĩa sẽ chìu tất. Tôi chưa tìm hiểu nhiều nhưng thấy có gì đó lạ lạ, khác thường. Độ ấy mùa rét, mỗi lần tôi về, chị lại bảo:” Cậu ơi, vào trong bếp ngồi cho ấm, ngoài sân lạnh lắm”. Chị cố tình kéo tôi vào, lấy ghế hoặc rải rơm cho ngồi. Chị cứ làm, còn tôi ngồi cạnh. Trong bếp, trông chị càng xinh đẹp, lửa làm ửng hồng thêm má và long lanh thêm đôi mắt, không có gì nhiều để nói, nhưng tôi luôn cảm thấy ấm cúng, gần gũi.Có những hôm tôi đi học về lúc chiều tối, đến cổng đã thấy chị thơ thẩn ở đó, tay cầm cái liềm, hình như có ý đợi. Chị âu yếm hỏi: “Cậu về rồi à? Có rét không? Thôi vào bếp đi, mình nướng mấy củ khoai ngon lắm. Chắc chín rồi…”. Cả hai lại vào bếp, chị cời trong tro than ra củ khoai nướng còn nóng, bóc vỏ cho tôi ăn. Giờ nhớ lại, tôi như thấy hình ảnh ấy trước mặt.

Tôi ra Hà Nội học, không mấy khi về, thư từ cũng chẳng gửi, mải vui bạn bè, học hành nên nhãng đi, trong lòng lại không có ham muốn theo đuổi gì. Tôi lơ là với địa điểm ấy, ngôi nhà trọ, làng Đại Tráng. Một năm sau, khi học tú tài toàn phần năm thứ nhất, tôi gặp người bạn, anh ấy hỏi: “Dạo này có gặp cô Nghĩa không?”. “Lâu rồi mình không về đó””. “Cô ấy lấy chồng rồi, cậu biết không?”. “Vậy à, sao nhanh thế?”…Còn nhớ một lần, tôi để quên cái va li nhỏ ở nhà trọ. Nhân dịp về chơi, tôi ghé thăm, gặp chị, vẫn thấy thân quen như ngày nào. Nghe chị trách: “Sao từ lúc thôi học ở đây, anh không xuống nữa?”, tôi chỉ ậm ừ. Khi tìm thấy va li, tôi định ra về nhưng chị giữ lại: “Cậu ngồi chơi đã. Lâu lắm rồi không xuống”. “Thôi để em về. Năm nay học nhiều lắm, không ở chơi được”.Dù khá đẹp trai nhưng dạo đó tôi nhút nhát lắm, thường bị trêu là “dát gái”. Giá như hôm ấy đi với anh Thiệu anh Kỷ lại khác, đằng này chỉ có một mình, tôi bảo: “Thôi, chị về nói với mẹ, em xuống thăm nhưng mẹ không có nhà”. Tự dưng chị có cử chỉ rất lạ, cứ ôm lấy tôi: “Không, cậu phải ở lại, tí nữa cậu Thiệu với cậu Kỷ sẽ về”, rồi nắm cái va li giằng lại.” Không, em phải đi mà”. Ngôi nhà 5 gian vắng lặng, sân gạch rộng mênh mông, nếu như người khác, chắc đã có gì rồi… Giằng co một lúc lâu, dường như thấy tôi kiên quyết quá, chị đành bỏ tay ra. Tôi từ biệt, không ngờ đó là ngày định mệnh để chẳng bao giờ hai đứa đến gần nhau.

Hết nghe tin chị lấy chồng, tôi lại được tin bố chị mất. Tôi về, chị ra đón, tỏ vẻ săn sóc ghê lắm. Khoảng 7,8 giờ tối, một bà cô lấy chồng ở Phật Tích xuống lo tang ma cho anh trai chợt đứng lên, cố ý hỏi thật to: “Cậu Tân có nhà không nhỉ?”. Không ai trả lời. Bà gọi to lần nữa, một đứa cháu nói với lên: “Cậu đi vắng rồi ạ”. “Bảo cậu ấy lôi con Nghĩa ra, đánh cho nó một trận. Làm sao bố chết mà suốt ngày chỉ nhìn con giai, cứ đờ đẫn ra như thế này?”. Tôi hơi chột dạ, sao bà tinh ý thế, chú ý cháu từng tí một. Tôi xuống nhà ngang, ở đó có buồng, có bàn và giở sách ra đọc. Chị bước vào và hỏi: “Hôm nay cậu có bận gì không?”.”Không, em xuống với bác, mai lại về”. “Cậu không ở chơi được mấy hôm à?”. “Em bận học”. “Thôi, ở chơi mấy hôm đi, nghỉ hè rồi còn gì”. Tôi nói với chị là phải chuẩn bị cho việc học sang năm. Cả ngày hôm sau, chị cứ quấn quýt bên tôi như có gì hút vào. Mỗi lần bà cô vào hay quanh quẩn ở đó, chị lại lảng đi.

Đến lúc từ biệt, chị vẫn muốn giữ và tôi vẫn quyết đòi về vì phải ôn thi vào trường Bưởi. Nhưng rồi tôi thi trượt phải vào trường Thăng Long. Lúc ấy, tôi rất mê học, chẳng muốn rời sách vở và đặc biệt không ham chuyện luyến ái nam nữ. Từ đó, hầu như chúng tôi không gặp nhau nữa, chỉ có vài dịp hỏi thăm, nếu tình cờ gặp bạn cũ. Riêng lần giỗ đầu bố chị, tự dưng tôi nhớ nên về thăm làng Đại Tráng.Không hiểu sao có chồng rồi mà chị Nghĩa đối xử với tôi rất tự nhiên. Trời rét, chị thản nhiên kéo tay tôi, bảo đứng ngoài này lạnh lắm cậu ạ! Vào bếp cho ấm. Thế là lại quay về tình tứ, ý nhị hôm nào, tôi và chị ngồi bên nhau trong gian bếp ấm cúng, trước ánh lửa, chị càng đẹp, càng vồn vã, đằm thắm. Rồi mọi người cũng đi học cả, không có chuyện gì để lôi kéo tôi về nữa. Hình như dạo ấy, anh em có lờ mờ biết tình cảm giữa tôi và chị. Khi tôi gặp lại người bạn cũ, anh ấy bảo: “Chị Nghĩa đẻ mấy đứa rồi!”. Tự dưng tôi chả thấy vui…

Trời về khuya, tiếng chuông Nhà thờ lớn rung sát mái vòm, ngân nga, xa vắng. Tôi chào tạm biệt chàng Casanova một thời, tạm biệt căn phòng mươi mét vuông tràn ngập nắng gió, tạm biệt giọng thơ day dứt tê lòng của gã trai lơ thưở ấy mà câu thơ vẫn chưa thôi vương vấn: “Từ thưở ấy/Em cầm chiếc lá/Đi đầu non cuối bể/ Gió quê vi vút gọi/Diêu bông hời…/…Ới diêu bông…”.13 bóng hồng xưa ấy giờ nơi nao, hay kẻ nắm đất, kẻ phiêu bạt xứ người… Liệu có còn ai đau đáu cùng cố nhân?

 

Một vị thuốc đắng, một vị thơ…

Nam Dao
Lại gửi Hoàng Cầm, nhân 82 lần bốn mùa xanh, xanh vẫn xanh, dẫu không cùng mầu tóc.

1

Thế đấy. Anh chép miệng cười. Nụ cười rất tươi, rực lên cùng ánh mắt. Anh bảo : “…nó vận vào người”, lại rót rượu.
Đó là một loại rượu ngâm với mơ, màu vàng óng, vị hơi ngọt, uống khá đầm. “Rượu làng Vân, ngâm mơ thế này là đã cả năm rồi”, anh lại cười, tay với điếu cày. Tiếng nước reo sòng sọc. Mùi thuốc lào hăng hắc xông lên. Anh ngả đầu ra sau, mắt lim dim. Tôi ngắm anh. Những nét hào hoa nay hằn xuống, nhưng vẫn là những nét hào hoa.

Anh quả là một người hào hoa.
Chị đi đâu về. Tôi đứng dậy. Chị bảo “…à, chú đấy à !”. Rồi chị ra ngồi, tay rót nước. Tôi nhìn chị. Chị quả là một người đàn bà đẹp. So với người Hà Nội những năm đó, chị đỏm dáng. Có lẽ chị biết là mình đẹp.
Tôi đưa ly rượu lên môi, bâng khuâng nhớ người con gái trùng tên chị đã hẹn tôi rồi không đến một năm xưa. Tôi nhìn anh, vẩn vơ hồi tưởng lần đầu đến quán rượu này. Tai tôi lại văng vẳng tiếng cười ròn rã của họa sĩ Hoàng lập Ngôn “… muốn thì đi với tớ, không đi lại chê Hà Nội không có !” Ngồi trên chiếc ghế đẩu chông chênh chỉ chực đổ soài ra, tôi nghe tiếng ngâm thơ. Anh ngâm một cách ngâm lạ lùng. Ngâm như than, như khóc, như rên rỉ, như van vỉ. Như hát chầu văn. Như rủ người nghe nhập đồng.
Quái lạ. Lời thơ lại vượt khỏi tầm trí tuệ. Nó lơ lửng ở chốn nửa nhân gian nửa thần thánh. Nó chém xuống tâm linh, để lại vết cắt, thứ vết cắt hằn sâu xuống ở lớp thứ tám. Vâng, hiểu thì chỉ cần lớp một cho đến lớp ba, bốn. Sau đến lớp năm, lớp bảy là cảm. Khi đó chữ nghĩa hết là chữ nghĩa. Nó thành những tác động tâm – sinh lý. Nhịp tim không còn đều đặn đẩy máu đi như làm thứ nghiệp vụ buồn tẻ trong một cơ thể bình thường. Nhịp thở không còn đều đặn như khi người ta ngủ say đến mất hết khả năng tiếp nhận bất cứ gì. Còn lớp tám? Tôi phải nói thế nào? Tôi biết như kẻ có lòng tin vào Thượng Đế, nhưng làm sao nói đây?

Tôi lẩm nhẩm “… Ta soi. Chỉ còn ta đạp lùi tinh tú. Ngủ say rồi đôi cá đòng đong”. Ở tầng thứ tám, một bàn chân người nhỏ bé đạp vào không gian mênh mang bí ẩn đẩy lùi lại những vì sao long lanh trên dải ngân hà trong suốt. Cúi xuống, cũng ở tầng thứ tám đó, con người nhỏ bé soi mình trong lạch nước, và an bình thay, đôi cá đòng đong còn nhỏ bé hơn nữa đã ngủ say rồi. Từ vô cùng lớn, chỉ vài chữ là đến li ti nhỏ. ở giữa, con người kia cô đơn làm cái ảo tác đạp lùi tinh tú. Hình ảnh đó còn bi tráng hơn huyền thoại Sisyphe lăn đá lên cao. Hòn đá tới đỉnh lại lăn xuống như một thứ định nghiệp vô căn do, lăn xuống để rồi lại phải đẩy lên, theo cách diễn tả sự phi lý kiếp người của Camus. Lăn đá là hình phạt của Zeus, thứ thần linh hóa ra đại bàng đi đánh cắp một cô con gái nhưng bị Sisyphe – kẻ được bàn dân coi như một vì vua mong xây dựng một vương quốc có văn minh – nhận diện và tố cáo. Văn minh nằm ép dưới quyền lực. Còn luân lý, luân lý lúc nào cũng chùn bước trước sức mạnh.
Hình ảnh lăn đá của Sisyphe khắc nghiệt hơn đôi cá đòng đong ngủ say. Con người cô đơn nổi loạn đạp lùi tinh tú, nhưng hiểu ra sự bất lực của ảo tác đó nên vội quay về tìm an nhiên bằng giấc ngủ của đòng đong. May thay, đòng đong vẫn có đôi. Đó là một cách an ủi. Dĩ nhiên kém triệt để, nhưng bao dung hơn. Phải chăng Đông khác Tây là vậy? Nhưng thế thì sao “nó vận vào người” được nhỉ?

2

Buổi sáng hôm ấy lành lạnh gió. Hai mươi năm sau, cứ mỗi lần gió như thế, tôi lại nhớ, lại mang mấy tấm ảnh cũ ra nhìn. A?nh có cụ Sìn, có Văn Cao, có Thái bá Vân, những người đã khuất. Có anh. Có Nguyễn Duy. Có tôi. Những người vẫn còn. Có chị Băng, dĩ nhiên. Còn có T và M, hai cô gái nuôi của cụ Sìn, một họa sĩ đầu đàn của Hà Nội vào những năm ba mươi. M kéo violon cho dàn nhạc giao hưởng. Duy làm bài thơ khá đẹp về bàn tay và chiếc vĩ cầm. Còn T, cô dạy học ở Hải Phòng, nhưng nay đã lưu lạc đâu đâu bên Hòa Lan rồi. Duy đèo tôi bằng chiếc xe đạp Phượng Hoàng cứ dăm trăm thước lại tuột xích. Chúng tôi đi dọc đại lộ Lê Duẩn về hướng Nghi Tàm. Tôi bảo “Chẳng biết các ông ấy gặp nhau thì thế nào nhỉ?”. Khi mời anh, Duy chỉ nói “…anh lên xem bức tranh cụ Sìn vẽ anh năm tiếp thu thủ đô !”. Khi mời Văn Cao, tôi chỉ nói “…cụ Sìn nhắn anh lên, lại khà khà bảo không có anh thì thôi không đình đám nữa. Cụ yếu lắm rồi…”. Chúng tôi đều biết là từ cái thuở Nhân Văn gần ba mươi năm xa lơ xa lắc, anh và Văn Cao không gặp nhau nữa. Lý do? Tôi kêu lên “…miễn bàn !”. Cả nước hòa hợp hòa giải. Văn hóa thì thế. Một dúm tác phẩm. Dăm ba ông đứng đầu, ông nọ tránh không nhìn mặt ông kia. Con cháu sau này trông vào thì sẽ nghĩ gì? Thái bá Vân gật gù, nhỏ nhẻ “Cho tôi đi với !” rồi hồn nhiên tiếp “…cũng đến lúc các ông ấy nên gặp nhau rồi !”
Tôi không hề hỏi đến lúc là đến lúc nào. Tôi cũng vô tâm, chẳng thắc mắc thế nào là nên , thế nào là không nên . Bữa ăn nhà cụ Sìn khá vui vẻ. T và M chạy lên chạy xuống. Cụ bà đi vào đi ra. Tôi vui trong bụng, chỉ cảm thấy một thoáng sượng sùng khi hai anh bắt tay nhau, để ý các anh tránh nói với nhau, nhưng cả hai đều góp chuyện. Văn Cao thích làm dáng, đôi khi hơi gượng trong dăm ba hoạt cảnh đầy tính kịch. Còn anh, anh hồn nhiên. Cụ Sìn mang bức tranh cũ ra. Bức tranh không có khung, vải bố nhem nhuốc, nhưng anh, anh cười trong bộ quân phục màu vàng, đọ? mũ có đính sao. Cụ Sìn lại khà khà móm mém bảo “…lính Vệ quốc đẹp thế đấy !”. Anh mơ màng “…đẹp và trẻ. Có lẽ đẹp vì trẻ…”, mắt nhìn T và M đang cúi xuống thẹn thùng. Quả thế. Tôi cũng nhìn. Cô giáo ở Hải Phòng đằm thắm hơn. Cô nhìn lại rồi chạy vụt đi. Cô nhạc sĩ vĩ cầm dáng dấp có nét bốc lửa, nhưng mắt lại mơ màng chút u uẩn than tro. Cô làm vẻ thản nhiên, nhìn về phía sân, nơi nước ao đã tràn lên mấp mé bờ.
Buổi trưa hôm đó qua đi, rất nhẹ, không khác cơn gió lành lạnh chớm đông. Cõi nhân duyên chập chờn oái oăm. Hai anh lại chia chung cái chiếu rượu này. Và chia với chúng tôi. Mỗi kẻ một vẻ đời. Làm lính. Làm thơ. Kéo đàn. Dạy học. Đến từ một bờ Đại Dương xa lắc bên kia. Lên từ Cảng, quê hương của người tài tình thõng một câu thơ nhập ” Sinh ra tôi đã có Hải Phòng…” cho bản trường ca Những người trên cửa biển dính dấp đến vụ quyền lực hãm và hiếp văn học vào năm 1956. Đè xuống rồi nằm lên dăm ba tờ báo để che bớt đi cái ê chề có tên là cải cách ruộng đất, quyền lực thở phì phò, xong việc kéo quần lên, tay chùi mép dính nước bọt phán lửng một lời “…có phải con gái nhà lành đâu, quí báu đéo gì !”. Chữ đéo không thừa. Nó vạch ra tính chất của hệ tương quan giữa chính trị và văn hóa. Con gái nhà lành thì dĩ nhiên không phải là con gái tạch tạch sè thành thị. Họ dẫu còn trinh nhưng điều đó không thể bảo đảm rằng họ thuộc thành phần cốt cán của dân tộc. Nước ta vốn là một nước nông nghiệp và sẽ còn lâu vẫn là một nước có rất nhiều nông nô. Nhưng chuyện đã xưa rồi. Bây giờ khác, người cày có ruộng và công bằng ra thì người viết có giấy có bút để góp phần xây dựng một xã hội tươi đẹp. Có lẽ chính vì vậy là đã đến lúc các ông ấy nên gặp nhau? Tôi ngây thơ nghĩ thế. Còn anh, hồn nhiên như anh, chắc anh cũng nghĩ thế. Cụ Sìn, cụ chỉ cười khà khà. Cụ không nhầm, mặc dù tuổi đã cao.
Tối ăn cơm, không biết là chân ai khều nhè nhẹ vào chân tôi. Hẳn vô tình. Giá mà cố ý nhỉ. Ai biết được, lại chuyện nhân duyên. Đêm hôm đó, tôi ngủ lại nhà cụ Sìn với Duy. Hai đưa lau sàn xi măng đã lên dầu mồ hôi sáng bóng rồi mắc màn. T và M cũng thế, hai cô nằm chiếu bên cạnh.
Tiếng ễnh ương bờ ao. Vẫn gió. Gió xào xạc. Ngọn đèn hoa kỳ vặn xuống li ti sáng một màu xanh biếc. Tiếng cụ Sìn ho. Tiếng đập muỗi. Tiếng thở dài nhè nhẹ chiếu bên. Duy bắt đầu ngáy. Tôi thiếp dần đi trong mùi đàn bà bay thoang thoảng. Tôi mơ bay lên thật cao, cao đến độ trái đất ở dưới chỉ còn là một hòn bi ve óng ánh màu hy vọng một hạnh phúc trong tầm với của cả dân tộc tôi. Thú thật, tôi đã là một kẻ có niềm tin như vậy. Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn cố gắng tin và còn hy vọng nên mới viết được những giòng chữ này, dẫu rằng đôi khi bóng tối có lúc đã bao trùm cả đời tôi lẫn đời những người tôi yêu.
Hình như ai thò tay sang nắm lấy tay tôi. Tôi để yên, lòng ngậm ngùi, vờ ngủ. Cho đến nay tôi vẫn chưa biết bàn tay đó là tay M hay tay T. Tôi chỉ biết tờ mờ sáng T đã đi ra bến xe về Hải Phòng. Và rồi sau đó tôi rồi cũng phải bay sang bờ Đại Dương bên kia. Nỗi ngậm ngùi sau này đọng lại được đúng hai câu : Em đi rón rén trời chưa sáng. Bước động ao bèo bỗng hóa sông.

3

Thuở đó anh biết tôi yêu thơ. Thật ra, tôi yêu tất cả những cái đẹp. Và yêu, dĩ nhiên là mù quáng. Là như bị thôi miên. Là buông hết, và thả luôn đời mình vào cái mình yêu, hệt như những kẻ tử vì đạo. Cái đẹp, gộp luôn cả chân – thiện, trở thành tất yếu cho sự tồn sinh, thỉnh thoảng lại mập mờ mang hình tượng thánh giá cứu rỗi, mặc dầu tôi là người ngoại đạo.
Tôi đến chơi với anh như đến với cái đẹp. Người ta chặc lưỡi “…giao du phải cẩn thận.” Tôi bảo “Nếu phải xin phép thì cho tôi một cái danh sách, những ai là người không nên giao du !”. Người ta trừng mắt. Tôi quay lưng đi. Người ta cho là tôi thách thức quyền lực. Tôi thì không. Vì tôi nghĩ, rất ngây thơ, là đã “đến lúc” vì bây giờ chỉ có ta, và ta phải “cùng nhau” góp tay vào xây lại một mảnh đất đã quá đọa đầy. Đòi hỏi của hai từ ghép “cùng nhau” là phải xóa đi lằn ranh dĩ vãng đã chia nhau ra thành đôi, thành ba, thành năm thành bảy mảng. Những mảng băng rời trôi mỗi mảng một hướng. Nước ơi, chỉ có tình của nước mới làm tan những mảng băng chia cắt lạnh lẽo kia. Người ta lắc đầu nghi ngại. Tôi đến chơi với anh. Với Trần Dần, Lê Đạt. Với Đặng Đình Hưng. Người ta nhăn mặt “Trải chiếu hoa cho mà không biết lên ngồi à? “. Tôi giật mình. Thì ra phải chọn giữa mảnh chiếu hoa đã trải và cái đẹp ! Nhưng tôi đã thưa, cái đẹp là tất yếu cho sự tồn sinh rồi, và tôi xin trả lại một góc chiếu vẽ hoa đỏ không hợp tạng.
Anh biết tạng tôi, cái tạng con trẻ không làm sao cho khôn ngoan thích ứng hơn được với cuộc đời. Tôi không kể cho anh cái đêm có một bàn tay đàn bà thò qua màn nắm lấy tay tôi ở chiếu bên. Anh tặng tôi một chai rượu mơ anh ngâm, dán thêm hai chữ Men Quê và Bốn câu thơ. Anh kể :
“… Tên nàng cũng là Yến. Chúng mình lên đồi, mặt đất xanh rì, nhấp nhô mềm dịu như mông như vú đàn bà. Nắng đã bắt màu vàng tươi trên mái chùa Phật Tích ngói đỏ xa xa. Ngả mình nằm xuống thảm cỏ, nàng nhìn, cái nhìn như bảo ban. Bỗng nàng chồm dậy, hai tay bíu lấy đầu mình kéo xuống, rồi áp môi hôn những nụ hôn cuồng nhiệt. Khi buông nàng ra, mình đọc “Một con bướm lửa đậu môi”. Nàng nắm hai tay mình kéo ra, miệng thầm thì “Hai nhành hoa lửa chia đôi tay cầm”. Nhìn lên trời, những ráng mây xa óng ánh như sắp cháy bùng lên, mình tiếp “Ba làn mây lửa về thăm”. Nàng như say sóng, ôm choàng lấy mình để giữ thăng bằng trong một cơn bão biển bất ngờ ào vào thân thể, mắt nửa khép nửa mở, tay quơ lên, miệng thở dốc. Mình lao vào nàng, vào cơ thể nàng, vào tâm hồn nàng bằng tất cả sinh lực đàn ông, cứ thế cho đến khi cùng kiệt. Nàng ngước mắt, vừa cười dịu dàng, vừa đếm “… Bốn lần chim lửa đến nằm rậm hoang”.
Hai mươi năm sau, tôi vẫn nghĩ cho đến nay câu chuyện anh kể không chỉ là một câu chuyện thật. Nó có chất cốt tủy như khi anh bảo với tôi rằng nàng Thơ vốn dĩ lẳng lơ, gặp ai cũng quyến rũ, nhưng chung chạ gối chăn với nàng lại là chuyện khác… Tôi tin lời anh. Anh hồn nhiên nhận mình là người may mắn. Như vậy cái gì có thể lại “vận vào người” anh?

4

Mẹ, Chị, rồi Vợ anh và những người đàn bà yêu anh đều là cốt đồng cho anh nhập vào tâm giới với nàng Thơ. Hiện tượng này nằm dưới tầng ý thức của chính anh. Thậm chí, nó nằm ngoài anh, và chính vì thế mà anh kể là thơ anh “… vài ba câu đầu bao giờ cũng không phải là tôi nghĩ ra, mà đúng thật là những lời văng vẳng bên tai như có một giọng nữ đang hát, hay đang đọc… mà tôi xin gọi là lời của thần linh đọc cho mình chép lại được.”.
Vâng, nghe đâu anh chép được nguyên bài Lá Diêu Bông. Lần cuối gặp anh năm ngoái, anh hỏi “Thơ mình được mấy bài?”. Tôi tần ngần, đếm có Về với Ta, Đợi mùa, Cây tam cúc, Quả vườn ổi. Đó là những bài thơ lạ, ngôn ngữ thơ biết thở, biết hát và biết im lặng. Tôi đáp “năm, sáu bài…”. Anh cười “…thế là lấy của thiên hạ quá nhiều rồi !” và hồn nhiên nói tiếp “… à, em mới kể có năm thôi !”. Thật ra còn bài U gì anh làm gửi cho Đặng Đình Hưng.
Bài Đợi mùa, ít người nhắc. Tôi xin trích :
Mùa chưa về     Tu hú gọi Em đi tìm Mẹ   Dãy tre xa giấu biệt giải khăn điều Khi gậy nắng ăn mày đã quăng sau núi Hàng tre nhà     yếm trả         Mẹ về             lều dột đón mưa đêm Thì chị đi     mấy lối chân chim Để Mẹ về bao phương bèo nổi Riêng Em nằm trơ đợi giờ tu hú gọi   Câu bốn và năm trong đoạn này rủ người đọc thở một nhịp thở gấp gáp, tiếp đó, nhịp thở lại chậm lại, rồi nức nở nghẹn lại. Tôi xin trích thêm một đoạn :
Em bước vào đình     ôm cột bốn người ôm Em rẽ sang chùa     lay chân hộ pháp Sau chùa tát đêm một, chạp Gầu giai ai vớt Chị ơi lòa lõa thân trăng   Chị lỡ xe hồng Mẹ đi lấy chồng Cỗ cưới chênh vênh khoai luộc Mật vàng mọng rách vỏ nâu non   Giữa câu bốn và năm trong đoạn này, thơ chuyển mạch bằng cách im lặng. ( đọc ở giữa hai câu, nghĩa là không có chữ nào ). Và đây là đoạn cuối :

Có hôm Em lần xuống bếp Cậy cháy sành vỡ toác chôn niêu Một con mèo mướp ruỗi chân chiều Lưỡi gió liếm gio vờn tóc rụng   Tưởng như Mẹ về Vai áo toạc ba vá chằng tơ dứa   Tưởng như Chị về Tơ tóc đêm xưa giờ rễ tre   Bao giờ Chị về tóc phủ vai Em chiều hương nhu   Bao giờ Mẹ về Buộc yếm đào phai vỗ hát ru   Khấn thầm như gặp Chị Mắt nứa cứa tay Em     vẫy đón đầu làng Khấn thầm     như mẹ lỡ đò ngang Miệng hé hạt na nhòa bến vắng Cổ tay tròn đẫn mía gie   Không Bầu mẹ không tròn Bưởi Chị không hoa   Đã hết năm tu hú gọi rừng già Đã sang mùa     tu hú ngủ rừng xa   Hai câu cuối cùng, thơ là thơ biết hát. Trong đoạn vừa trích, thơ biết im lặng sáu lần và hát lên hai lần. Còn thở, thơ thở hắt ra ba lần, thở kiểu máu nhồi cơ tim một lần.
Điều tôi muốn nói bằng cách nói trên, Thơ hay là Thơ có tác động sinh lý lên người đọc qua nhịp thở và nhịp tim. Chính tác động đó ảnh hưởng đến tâm lý, tạo ra cái đa dạng của thất tình : buồn, vui, bâng khuâng, bực dọc, phẫn nộ… Đã nói đến nhịp, là nói về nhạc. Thơ hay không phải chỉ một câu hay. Thơ hay, không phải một chữ hay. Trò kén chữ cho khéo là trò kén chồng, kén để làm lễ cưới cho có pháo nổ và họ hàng hai bên cười cợt, xong lễ thì ém nhẹm đi cuộc sống lứa đôi dẫu ổn thỏa hay không ổn thỏa. Thơ hay là thơ nhìn dưới góc độ một tổng thể. Tác động câu chữ là tác động trên trí tuệ. Thêm một mức, mới tới tâm cảm, hệ quả của tác động trên nhịp thở – nhịp tim, yếu tố sinh lý gây lên thất tình. Thơ hay chính nó là Nhạc. Và thường thường, chúng ta đơn giản hóa Nhạc vào vần, vào điệu. Nhưng vần thì thật ra thừa, và điệu, rất sáo mòn, nhất là vần điệu của lục bát, tứ tuyệt hay thất ngôn. ( nhưng nói thế, không phải bảo rằng Thơ hay không có thơ lục bát, tứ tuyệt hay thất ngôn ). Thơ anh ra ngoài thể loại vần điệu đó. Thơ anh mang âm vận của Từ đời Tống và những bài Phú thời Nguyên – Minh, tự do hơn, phóng khoáng hơn, nhưng lại mang mang tính cách Quan họ đặc biệt đất Bắc Ninh. Thơ anh có Mẹ, có Chị. Những “Bầu Mẹ không tròn, bưởi Chị không hoa”. Cũng vì vậy nên thơ anh là thơ của Lỡ làng. “Chị lỡ xe hồng. Mẹ đi lấy chồng, cỗ cưới chênh vênh khoai luộc…”. Sự lỡ làng chỉ đổi lại bằng khoai, “mật vàng mọng rách vỏ nâu non”. Vỏ khoai có khác ai hơn là Em, kẻ làm thơ khóc những lỡ làng?
5

Năm 1982 là một năm đầy oan trái nghiệp nghiệt. Ngẫm lại, hình như những vết chém phi lý và vô nghĩa, những vết chém không làm sao tìm được căn do, đều chọn được loại nạn nhân riêng của nó. Cả anh lẫn tôi đều nằm ọp bốn năm liền nhấm nháp cái vị tanh của máu ứa ra từ những vết chém đó. Anh chịu cả phần xác lẫn phần hồn trong Hỏa Lò. Phần tôi, tôi chịu phần hồn trong một nhà tù không cần cai ngục vì không có cửa sắt chấn song.
Sau Tết năm Nhâm Tuất, tôi rời Sài Gòn sang Paris, ở nhà Tạ Trọng Hiệp vùng Gentilly. Nhà bị kẻ gian cậy cửa. Xe để dưới đường bị đánh cắp. Ngày đêm, tôi cứ phải trông chừng Hiệp đang bị đại nạn tình với T, nói đến cái chết rồi khóc, và dự trữ rất nhiều thuốc ngủ. Đến tháng sáu, tôi lại về Hà Nội sau khi dặn dò Hiệp là chớ chết dại. Chết dại là chết vì tình, chết khôn là chết với tình. Lời dặn đó ngây ngô : làm gì có chết khôn hay chết dại. Chết là hết, thế thôi.

Lần về này, tôi gần như tuyệt vọng : thế quyền đã “co cụm” lại sau Đại Hội IV, vẫn khăng khăng một thứ giáo điều lưỡi gỗ, ngược hẳn lại với những điều tôi đã trình bày về phương thức dùng qui luật thị trường nhằm ổn định kinh tế Việt Nam trong một đề nghị chuyên ngành với cấp cao nhất có thẩm quyền. Chống lại niềm tuyệt vọng, thấy ánh đèn là tôi lao vào, cứ như loài thiêu thân, cũng mặc. Dễ nhất lại là lao vào tình yêu. Hay bất cứ gì đồng dạng với tình yêu. Anh cho tôi một món quà mừng cái tình yêu đó : tập thơ Về Kinh Bắc anh hì hục chép tay trên một quyển vở học trò. Tôi vào Sài Gòn trước khi bay sang Pháp. Một người bạn vào báo anh vừa bị công an giữ để điều tra. Tập thơ Về Kinh Bắc tôi trao cho những người trong nước giữ lại, không mang theo khi đi, tránh không để ai kết tội anh chuyển thơ “chống đối” ra nước ngoài. Thật ra, Về Kinh Bắc chẳng chống đối gì cả : nhà xuất bản Văn Học đã in nó năm 1994. Còn bắt anh, họ bắt vì lý do gì rồi giam cầm anh liền bốn năm? Bán rượu? Hút thuốc phiện? “Hủ hóa” Việt Kiều? Trong một quán ăn gần Place Italie, tôi giở tờ Le Monde đọc. Báo loan tin anh bị tù. Hôm ấy, tôi đọc rồi nước mắt ứa ra. Cứ thế, tôi khóc. Tôi bắt Métro đến trạm St Michel, nước mắt ràn rụa. Kẻ đi qua thản nhiên hay chỉ khẽ nhăn mặt. Duy có một người da đen đến chìa cho tôi mẩu thuốc lá hút dở, và nói “Bonne chance !”
Bonne chance. Năm ấy, tôi chẳng có một thứ may mắn nào cả. Về đến chốn ngụ cư, tôi tất bật lo việc “bảo lãnh gia đình”. Tôi xin giấy nhập cảnh. Lần này là cấm. Lý do? Không ai cho tôi biết. Đơn xin, không bao giờ có phép. Cấm như thế sáu năm liền. Gia đình tôi qua. Thế là đi vay, làm một quán ăn. Tất cả mười hai nhân mạng, lấy gì mà sống. Thực tế sống ở nước ngoài khác hẳn với sự mơ mộng của thành phần tương đối “dư dả+ thời xưa ở Sài Gòn. Các cô em nhăn mặt, qua đây mà phải đi hầu người ta trong quán ăn thì thà ở Việt Nam còn hơn. Lắm bữa trưa, tôi không có tiền ăn đến độ phải nhịn đói. Các cô em tôi vẫn thì thào “…qua đây bị tư bản bóc lột lao động …” và gọi tôi là ông giám đốc. Rồi sau đó, tôi phải ra tòa vì đã ký giấy bảo lãnh mà không cung ứng tiền chi tiêu cho đủ. Người đâm đơn kiện là người đẻ ra tôi. “Anh mang gia điinh qua là cứu (sic) cả gia đình. Nhưng tôi, tôi bây giờ phải bảo vệ (sic) nó.” . Cô em dâu đến đề nghị cho một món tiền thì xí xóa giấy bảo lãnh. A, thì thế ư ! Nhưng ông tòa xét thấy tôi nợ đầy đầu, đến điện thoại cũng bị cúp vì không có tiền trả, nên tha cho. Ngoài ra, nghiệp vụ xao lãng về chuyện quán ăn, tòa án, đồng nghiệp tôi “điều đình” để tôi tự ý xin thôi việc. Lại nữa, người vợ mới qua Paris, kẹt lại vì lao phổi. Thế là phải gửi gấm. Rồi bạn phản. Tình phụ. Chỉ một năm, bằng ấy cái họa. Mất nhà, mất nước, mất tình, rồi nghề nghiệp bị đe dọa. Quán ăn phải thuê người làm, bị ăn cắp hết vì không lấy ai ra để trông coi. Lại nợ. Nợ chồng nợ chất. Nhưng ghê rợn hơn hết là sự trống rỗng.

Chính sự trống rỗng đó đã đưa tôi đến cạnh cái chết lúc ấy tôi đồng hóa với giải thoát. Tôi thức hàng đêm, nhìn ra ngoài trời tuyết trắng mênh mông, đầu óc tê điếng, vô cảm, và chỉ thấy trùng trùng băng giá, không yêu không ghét không hờn không giận. Chỉ trống rỗng. Cái trống tếch trống toác của thế gian không có một chút tình người. Tôi là tên tù nhân của cái ngục trống khủng khiếp không có cửa sắt chấn song. Lẽ sống lúc đó nhẹ tênh tênh, vậy thì tự do mà làm gì. Tôi nhịn đói hàng tuần, không thấy cần ăn, uống nước lạnh thôi là đủ. Sống chết lúc đó ở ngoài tôi. Soi gương, “kìa ai đó – tôi lạnh nhạt- chớ có phải tôi đâu”. Cho đến một hôm. Vâng, hôm đó người bạn gái gốc Chilê, kẻ đã dịch một đoạn thơ tôi ra tiếng Tây Ban Nha gửi đăng trong một tờ báo phe tả ở Salvador, đến nhà tôi với một bông hồng. Nhìn tôi, nàng nói “Không nhà thơ nào có thể chết thế được !” và cười rất tươi.
Nghe nàng nói, không hiểu sao tôi lại nghĩ ngay đến anh. Lúc đó, anh vẫn còn nằm trong Hỏa Lò. Anh là nhà thơ. Anh không thể chết được. Còn tôi, câu nói của Cecilia đẩy tôi ra khỏi một cuộc tuần du đầy ác mộng. Tôi phải sống.

6

Có sống mới về thăm anh được. Năm 1988, giải tỏa lệnh cấm. Dĩ nhiên, Đại Hội VI đã Đổi Mới Tư Duy, và thấp thoáng một nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy thì những đề nghị ngày xưa của tôi đâu là tội. Tôi, con gà gáy trước khi trời sáng, chỉ là thứ gà non, gà ngoại, gà lai giống, gà vừa đạp vỡ vỏ trứng đã vội khập khiễng đi tìm rạng đông.
Tôi men ngách vào nhà anh, số 43 Lý Quốc Sư. Nhà vẫn vậy, nhưng quán rượu thì dẹp rồi. Cháu nội gọi ông, anh từ gác xép leo xuống. Anh đây. Anh gày gò, tóc bạc gần hết đầu, mắt trũng sâu, răng cửa đã khuyết một cái. Anh ngẩn ngơ nhìn. Tôi ôm lấy anh. Chúng tôi ngồi nhìn nhau. Giữa chúng tôi là bốn năm tù của anh. Tôi nói “… có điều gì khúc mắc anh cứ hỏi”. Anh bảo “… giá em về trước hai năm thì anh em mình chẳng được thế này đâu”. Tôi im lặng. Trong tù đầy, hỏi cung, quay quắt ra biết bao nhiêu thêu dệt thực hư. Tôi hỏi “Tập thơ anh chép cho em, anh đã lấy lại rồi chứ?”. Anh cười, cái cười đau xót. Đó là cái lấy lại được, nhưng vừa ra khỏi tù thì anh mất ngay chị, rồi liền sau đó anh mất con gái anh, cũng tên là Yến. Nước mắt ứa ra, anh kể:
“… đêm hôm đó, anh đang chập chờn ngủ, sao lại ở đâu có một con bướm vàng bay vào lảng vảng quanh màn. Mở cửa màn, con bướm chui vào. Anh linh cảm, anh biết, anh khấn. Bướm bay rồi đậu lên bàn thờ. Anh lại khấn “Yến ơi, con ơi, con về đấy à, khổ thân con”. Bướm từ bàn thờ bay xuống quấn quít bên anh như không nỡ rời dẫu âm dương cách trở”.
Nắm tay anh, tôi không muốn để anh mất mát thêm bất cứ gì. Sau, tặng tôi tập thơ Men Đá Vàng, anh viết “…để cùng nhớ những năm tháng đầy oan nghiệp nhưng cũng đầy hạnh phúc”. Đấy, cặp bài trùng oan nghiệp – hạnh phúc. Và hạnh phúc của nhà thơ lúc nào cũng là một điều thật bí ẩn. Bí ẩn như ngôi sao trên kia long lanh sáng, nhưng xa lơ xa lắc, kẻ bình thường như tôi có giơ tay lên với cũng không nắm bắt được.
Có một người Anh như anh, là một niềm hạnh phúc. Anh nghiêm mặt bảo “…cái vốn từ của cậu chưa đủ. Phải đọc đi đọc lại truyện Kiều. Rồi đọc cô tổ Xuân Hương…” Tôi cãi, chữ cho đơn giản chứ bí hiểm quá, sang quá, hay điển tích quá thì đều là “quá tải”. Hôm ấy có cả Trần Dần và Lê Đạt. Anh Đạt khéo kết chữ cũ cho ra mới. Còn anh Dần, anh đi tìm chữ mới, đang thử nghiệm loại thơ cực ngắn, đôi khi chỉ đúng hai chữ. Anh quay hỏi “…nó nói thế, chúng mày nghĩ thế nào?” Anh Đạt lý giải. Còn anh Dần, anh nhìn tôi chằm chằm, buông gọn, cũng cực ngắn, “cứ làm ! “.
Cãi thế, nhưng tôi về tôi nghĩ. Tôi đọc đi đọc lại Truyện Kiều. Tôi đọc đi đọc lại thơ Xuân Hương. Tôi học chữ Hán để đọc cả Bắ? Hành Thi Tập. Rồi tôi dịch lại hai trăm bài thơ Đường mà khi chuyển sang tiếng Việt, những người đi trước tôi lại dùng thể lục bát. Rồi tôi dịch lại cả Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn cho sát lối Tập Cổ, tránh kiểu song thất lục bát của bà Điểm. Đấy, chỉ một câu anh nó thôi mà khi hiểu ra tôi đã đổ mồ hôi như vậy. Chuyện này, tôi chỉ mới nói thoáng cho anh nghe. Nay nói lại, một cách gửi lời cảm tạ anh. Quả là vốn từ của tôi nay có hơn xưa. Song có ân ái được với nàng Thơ hay không lại là một chuyện khác.
Hợp rồi tan. Tôi lại phải ra đi. Cứ mỗi lần như thế, anh nhắn nhe “…lại anh thêm dăm phút”. Lúc tôi về, anh lại đạp xe đạp theo đến khách sạn. Và khi chia tay, anh ôm tôi, anh hôn, anh khóc. Tôi nhìn theo anh trong bóng đêm. Mái tóc anh trắng bồng bềnh lồng lộng gió ven hồ Hoàn Kiếm. Bóng anh mãi cũng xa dần rồi mất tăm. Lúc ấy tôi cũng khóc.
Chúng tôi là những kẻ mau nước mắt.

7

Nhưng cũng có một thời những giọt nước mắt chảy vào trong. Và rồi một thời khóc – cười là một. Hè năm 1990, bước vào Nội Bài thì người ta đã hờm sẵn. “Xin mời ông qua bên này !”. Vâng. Cuối cùng, “Ông hiểu cho. Ông không có phép nhập cảnh !”. Tôi hỏi “… thị thực nhập cảnh đây. Giấy mời đây. Chắc là lầm lẫn gì đó…”. “Vậy ông đợi, chúng tôi điện vào Hà Nội”. Trưa hừng hực nắng. Chiếc quạt máy vừa quay vù vù, vừa lắc đầu qua lắc đầu lại. Nhìn ra sân phi trường, chiếc máy bay Air-Thai vẫn nằm lì ở đó. Một tiếng đồng hồ qua. Rồi hai tiếng. Hai vị công an cấp tá lại ra. Các vị bắt chiếc cái quạt máy lắc đầu “… Lệnh trên không cho phép. Ông thông cảm…”. Tôi nói “…cứ để tôi ở khách sạn của phi trường. Hôm nay là ngày nghỉ. Đợi đến thứ hai, ngày làm việc, tôi xin điện vào hỏi kỹ…”. Lại tiếp “… vậy, ông đợi…”. Một lát sau “… Lệnh trên không cho !”. Chiếc máy bay Air-Thai không được phép cất cánh vẫn đó. Tôi hỏi “Lệnh trên là trên thế nào?”. Đáp “…trên là cao lắm, chúng tôi chỉ thừa hành”. Tôi cũng biết vậy, lắc đầu.

Tôi bước lên máy bay, được hai vị cấp tá xách hộ va-li đi hai bên. Cô chiêu đãi viên hàng không Thái hai tay chắp, cúi đầu reo như thông lệ “Welcome to Air -Thai !”, rồi đưa lên ghim một bông lan vào áo tôi. Cô kịp nhìn ra bông lan cô gài cho tôi khi tôi sáng nay rời Bangkok bay đi Hà Nội vẫn còn đó. Cô ngại ngần, ánh mắt tối đi một thoáng, nói nhỏ “I am sorry !”
Đến Bangkok, tôi phải đợi máy bay. Tôi quyết định ra bãi biển nằm, tránh cái hừng hực hè và mùi xăng dầu sùng sục xông vào mũi. Lúc đó, tôi thừa thời giờ để tìm nguyên do cái việc thô bạo kia ở Nội Bài. Phải, thời gian đó là chưa chẵn một năm từ khi bức tường Bá Linh xụp đổ. Và chỉ vài tháng sau những tiếng hò trên quảng trường Thiên An Môn. Rồi đám Việt Kiều ngây thơ chúng tôi lại ký Tâm Thư này nọ. Rõ ghét. Và tôi, cái con gà non ngông nghênh chưa sáng đã gáy, cho vào là lại tổ bực mình rách việc !
Vâng, tôi nghĩ là chỉ có thế. Lúc ấy, khóc – cười thành một. Tôi không còn hờn oán gì nữa, chỉ thấy tội nghiệp cho quyền lực.
Những cánh phượng vĩ vẫn đỏ rực dưới nắng vàng óng ánh mật ong. Đỏ như phượng vĩ Hà Nội. Biển vẫn xanh và sóng vẫn rì rào. Xanh như biển Việt Nam, quê hương tôi. Và rì rào như đòi quyền sống. Tôi thanh thản nhìn trời, nhìn nước. Bấy giờ, rõ ràng quê hương đích thực chính là lương tâm. Và mảnh đất lưu đày nào cũng là những mảnh đất không tôn trọng nhân phẩm và quyền con người. Thôi, từ biệt nhé, ảo vọng về trí tuệ và lòng thành tín trong guồng quay của thế quyền. Từ biệt nhé, giấc mơ nóng vội đổi đời. Tôi viết một bức thư dài gửi cho cái guồng quay, khẳng định tôi tin rằng dân chủ là tất yếu, và làn gió ấy sẽ rồi thổi đến quê hương tôi như điều không khiên cưỡng được.

Ngửng mặt nhìn những cụm mây trắng thong dong, tôi biết tôi là một người có tự do. Vấn đề đặt ra : tôi làm gì với sự tự do đó. Tôi, một người may mắn, không thể vô trách nhiệm.

8

Là một người tự do, tôi lại càng hiểu thế nào là tù ngục. Bốn năm anh nằm trong Hỏa Lò lại ám ảnh tôi. Anh tội gì? Ai có quyền cướp đi bốn năm sống của một đời người? Nhân danh ai, nhân danh gì? Và hẳn anh rồi không có tội nên anh mới được phục hồi “hội tịch” vào năm 89 !
Phục hồi, chắc cũng trả cho tí tiền. Liệu tiền đó có đổi được những đêm dài lắng nghe muỗi vo ve, tiếng chuyện trò duy nhất với những tội nhân. Riêng anh, loại tội nhân có cái tội là chót làm nhà thơ. Và tội to hơn, thơ lại là thơ hay. Nhưng hình như có ai nói dân tộc ta toàn là những nhà thơ. Đó là một điều đáng hãnh diện. Đồng thời đó cũng là một điều bất hạnh trong cái cặp biện chứng oan nghiệt – hạnh phúc.
Thôi im đi, tiếng hát ngọng nghịu của thứ gió định mệnh khắc nghiệt sụp về đánh úp hạnh phúc. Thôi im đi, những lạc quan đen, những cú phất cờ hô khẩu hiệu, hoan hô và đả đảo. Hãy trả cho chúng tôi những cái tay bắt chân thành, những cốc rượu của tình bạn, những cuộc đoàn viên có tiếng cười, những phi vụ vui chơi lương thiện… Tôi bị cấm về, chỉ thỉnh thoảng nghe tin anh qua bè bạn, là ông ấy năm nọ ốm đã tưởng đi, ông ấy khỏe lại yêu, yêu PQ, yêu B.Ng, Yêu ĐĐ…, yêu vân vân và vân vân. Tôi mừng, ông ấy vẫn đó. Cho đến 1998 tôi mới lại đặt chân trở lại Hà Nội. Lần này về, về cho bè bạn. Và đi kèm có cháu Việt, con trai lớn của tôi.
Lại men cái ngách 43 Lý Quốc Sư. Ngách vẫn thế nhưng nhà anh nay khác, lên ba tầng, trước nhà vẫn còn một đống cát, xi-măng, và dăm ba chiếc xẻng. Bây giờ, không ai réo tên nhau. Phải bấm chuông. Tôi hồi hộp. Cửa mở. Anh thò đầu nhìn, mắt nhắm mắt mở. Tóc anh xù ra bạc trắng màu mây. Anh còm xuống. Răng thật rụng hết, nay chỉ có răng giả. Anh cười. ở một cái tuổi nào đấy, cười làm sao thì cũng như hơi mếu máo. Anh ngồi xuống ghế salon bọc simili-cuir. Bàn kính. Nhà lát gạch hoa. Thế thì đâu rồi những chiếc ghế đẩu nằm soài ra trên nền đất nện? Thế thì đâu rồi cái điếu cày, dăm chiếc đóm, chai rượu mơ và ngọn đèn hoa kỳ bâ? vặn thật thấp li ti đốm cháy? Tôi xin anh, thôi lên chỗ anh ở, chứ ngồi salon làm gì. Leo gác hai, anh đẩy cửa. Một cái giường đơn. Trên sàn, trải chiếu, khay nước nằm tênh cạnh ngọn đèn hoa kỳ. Và chiếc điếu với dăm vê thuốc lào. Rồi dăm chiếc đóm. Tôi ngồi xụp xuống đất. Tôi bắt đầu nhận ra anh. Anh cười. Bấy giờ, cái cười mới hết mếu máo.
Lần sau đến, tôi kể cho anh nghe ý định viết một vở kịch về quan họ. Lần ấy, có TK, rất duyên và cực xông xáo vui chơi. TK hẹn sẽ cùng nhau đi Bắc Ninh làm một chầu quan họ, dọa là “các em” bên đó “tình” lắm. Còn phần tổ chức “hành quân”, TK la “…cứ để tôi”. Về, tôi hẹn đến đưa anh đi ăn cơm trưa với Việt ngày mai. Khi bố con tôi đến thì người nhà anh bảo anh ốm lắm. Chúng tôi lại leo gác hai. Trong phòng, anh co quắp trên chiếc chiếu giải trên sàn, mình đắp chăn. Tôi cúi xuống nhìn. Mắt anh nửa khép nửa mở, trắng đục, vô hồn. Anh không nhận ra tôi.
Anh phải vào viện. Năm ngày sau, bố con tôi đến thăm anh trong nhà thương. Anh bị xưng phổi sau cái chuyến đi “trình diễn” thơ ở Thái Bình thì phải. Mỗi chuyến đi thế, cũng được thù lao một hai triệu, nghĩa là một, hai trăm đô Mỹ. Lộc thơ chỉ có thế, và phải chờ những ngày cuối năm. Chúng tôi đến thì đã có dăm ba phóng viên những tờ nhật báo của Hà Nội. Anh lại khều tôi, miệng cười rất tươi, chỉ một chị phóng viên ước độ trên dưới ba mươi, và hỏi “…trông được chứ nhỉ !”. Rồi anh víu vai cháu Việt, nói bằng tiếng Pháp, “Bác về là sẽ hỏi cô ta làm vợ”. Ngớ ra, Việt không hiểu nhìn tôi dò hỏi. Anh tiếp tục, rất chân thành, “Mais oui, je vais lui demander sa main… c est sur”. Sau, con tôi cứ cười, bảo “…quả bác ấy là nhà thơ. Un poète-fou !”

Đúng đấy Việt ạ. Có nhà thơ nào không điên? Tôi lại nhớ lời ra tiếng vào của một người bạn, bàn “Ông ấy nỡm lắm. Già thế mà lên tivi cứ nói tình yêu này, tình yêu kia… Nghe ngượng đỏ cả mặt !”. Thưa anh bạn đứng đắn, anh Cầm thế, vì anh ấy sống phút nào là chong mắt tìm một cốt đồng để nhập vào, hy vọng thêm một lần ân ái với nàng Thơ. Nỡm ử Nhưng ngẫm kỹ mà xem, cứ giả thử như chúng ta có tất cả nhưng không còn yêu thương được nữa, giả thử như trái đất này đánh rơi vào cái rọ đen – black hole – tất cả tình yêu và đam mê. Chúng ta có tất cả đấy, nhưng lại không còn gì ngoài cái hành trình của những người không tim trong thiên hà mênh mang kia. Anh bạn ơi, trong hành trình đó anh cứ đi một mình. Chúng tôi xin ở lại.
Tôi đến chào anh một lần cuối trước khi bay vào Đà Nẵng. Lần ấy, chúng tôi tẩn mẩn đếm sổ văn hóa xem có ai và đã làm được những gì suốt ba mươi năm qua trong nền Thơ – Văn của chúng ta. Lần ấy là lần anh kêu “… thế là lấy của thiên hạ quá nhiều rồi !”. Có lẽ. Huy Cận của Lửa Thiêng, trước khi làm quan thì cũng chỉ được dăm ba bài. Làm thơ, không thể làm quan. Không thể làm giàu. Làm quan làm giàu rồi, thơ chết. Nàng Thơ không ưa công đường. Không thích nhà cao cửa rộng, ngươì hầu kẻ hạ. Và nàng chúa ghét những kẻ nói khéo, nói láo, nói dai, nói ngoa, nói nhiều và nhất là loại nói-không-ai-nghe. Nàng hay ghen. Yêu, thì Nàng phải là Cứu Cánh. Không bao gờ Nàng chịu làm lẽ cho phương tiện danh lợi và quyền lực. Và ân ái với Nàng, bạn chớ lừng chừng kiểu hiện sinh, hiện thực, hiện đại hay thậm chí hậu hiện đại theo chữ nghĩa thời thượng. Trong 36 kiểu, với Nàng là chỉ có Thơ. Thế thôi.
Đếm, đếm đi đếm lại. Cuốn sổ văn hóa mỏng dần. Mỏng làm cho bật máu và chảy nước mắt. Tôi thấy dẫu anh bảo anh có lấy quá nhiều của thiên hạ, anh còn phải lấy nữa. Ngoài dăm ba vì sao lấp lánh, văn hóa của chúng ta mươi năm trở lại đây lại hụt hẫng vào cái rọ đen – cái black hole – ghê rợn kia trong một nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Tôi đả đảo cả hai, chỉ hoan hô một mình nàng Thơ.

9

Bây giờ, trên đầu hai thứ tóc nên tôi rất sợ hô khẩu hiệu. Chẳng hạn loại khẩu hiệu như *… tất cả cho mai sau”, hoặc “Tự do hay là chết”. Bây giờ, trên đầu hai thứ tóc, tôi rất do dự khi đụng vào cái chết. Tôi linh cảm rằng sự sống quí hơn tất cả. Nó đèo bồng trên lưng tự do. Và càng tự do thì gánh nặng càng nhiều. Cái gánh nặng đó nằm trong câu hỏi là ta làm gì và sống ra sao với cái tự do đó. Cho những người theo đòi nghiên bút, làm gì là viết gì. Sống ra sao đồng nghĩa với ý thức trách nhiệm thế nào với người và với mình.

Ngày bức tường Bá Linh xụp đổ, có người bạn gửi cho tôi một cục đá nhỏ. Anh viết kèm “… kể từ nay, tự do không còn là một cụm từ trong thứ ngôn ngữ chết. Con người biết tự mình cởi ra những sợi dây trói buộc, kể cả đám lính kín, công an. Chúng ta có quyền hy vọng…”. Anh ta kể ra hoài bão thực hiện một bộ tiểu thuyết về bức tường mà không còn sợ hãi gì nữa. Mươi năm qua, anh vẫn chưa viết gì được. Tôi hỏi, anh đáp hai trăm trang đã viết là viết trước ngày bức tường xụp đổ. Từ đó, anh chịu. Tự do đấy, nhưng anh chỉ thêm được vài trang. Còn hai trăm trang kia, anh đã lặng lẽ viết trong nỗi lo âu. Lo và sợ. Đến độ vợ con anh cũng không hay biết. Tôi lại hỏi, tại sao, tại sao thế. Anh buồn bã trả lời “…ngày trước, tôi viết chống một cái gì để cho một cái gì khác chưa có. Nó thật rõ ràng. Bây giờ ử Cái gì đó chưa có đã thành ra có, nhưng có đấy mà lại mù mờ nên tôi không còn định hướng viết cho cái gì được nữa. Có nhà xuất bản bảo tôi, hãy viết để giải trí cho công chúng người đọc thôi, vừa dễ viết, vừa dễ bán. Viết hay sẽ dịch ra tiếng Anh, có cả thị trường toàn thế giới. Tôi đã thử, nhưng rồi xấu hổ đem đốt cả đi. Tôi không muốn là một nhà văn vô trách nhiệm…”.
Nhưng trách nhiệm đó là gì? Có lẽ với anh là ca ngợi Tình Yêu chăng? Chỉ năm ngoái tôi mới được anh cho tập thơ Về Kinh Bắc, tập cuối cùng anh giữ lại. Sách in lem nhem, bìa photocopy đen trắng trên nền xanh lơ, mặc dầu để là nhà xuất bản Văn học in năm 1994. Tôi cầm cuốn sách, lòng ngậm ngùi. Những vần thơ mượt mà nhất trong thơ Việt Nam thế kỷ hai mươi bị tình phụ trong nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa?

Nhưng đó là những vần thơ tình rất đẹp. Tình yêu Kinh Bắc. Bắt đầu bằng năm đêm, trong ngũ hành. Rồi anh đi liề? bảy nhịp, trong một cuộc tuần du có Mẹ, có Chị và Lỡ Làng. Lỡ làng, bến tình không người đợi. Lỡ làng, mắt mỹ nhân khép đến thiên thu. Lỡ làng, những mảng hoa bèo ao cá quẫy. Lỡ làng, xin Chị một quả ương, Chị lại dối quả ương chim khoét thủng dẫu chẳng con chim nào lại chọn quả ương. Lỡ làng, cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng… Lỡ làng, quan đốc đồng áo đen nẹp đỏ, thả tịnh vàng cưới Chị võng mây trôi. Lỡ làng, em đứng nhìn theo em gọi đôi. Lỡ làng, đứa con anh thai nghén sau những đêm ân ái với nàng Thơ. Lỡ làng, cơn đau của con tằm rút ruột nhả tơ. Lỡ làng, là đời anh. Bởi anh biết yêu. Biết yêu là yêu đến cuồng dại, và mặc cho   “Hờ hững buốt căm, bờ sóng lụy Cuồng si thiên rụi bến đa tình Ba ngả sông về người bơi đứng Cợt đám hoa bèo dạt đến quanh…”
Đó là những vần thơ vụng về tôi viết tặng anh chớp mắt đã thoáng mười năm.
Để kết một cuốn sách đọc lâu rồi nên tôi đã quên tên, Albert Breton – một cột sống trong phái siêu thực – viết “Je vous souhaite d être follement aimée.” ( Xin chúc anh được yêu đến cuồng dại ). Cũng được. Cũng thú. Nhưng tôi chúc anh khác. Tôi chúc anh yêu đến cuồng dại. Anh, như chủ thể, và yêu không chỉ là động từ mà còn là một trạng thái của sự sống sáng tạo ra chữ nghĩa. Vậy thì Ta chúc nhau yêu cuồng dại. Phải thế chứ. Vì đó là trách nhiệm của những con chữ có nghĩa. Những con chữ đẹp. Những con chữ có đời sống. Muốn đẻ ra chúng, thì có hề chi những cơn đau trở dạ. Thì có hề chi những lỡ làng.

Tôi nhớ đã hỏi anh Hoàng Cầm, tại sao là Hoàng Cầm, và Hoàng Cầm có nghĩa gì? Anh cười, có chút gì như là chua xót, đáp “Hoàng Cầm là tên một vị thuốc đắng… Tên nó vận vào người”. Nó còn vận vào thành một vị thơ. Vị của những vần thơ sang nhất, đẹp nhất, nhưng cũng xót xa nhất của dòng thơ Việt Nam ở thế kỷ 20. Cơn mây mưa giữa nàng Thơ và Anh đã sinh hạ ra Lỡ Làng, dấu vết cặp oan nghiệp – hạnh phúc như vết chân con rắn và trái táo cắn dở của Eva.

Nhưng hề chi, có hề chi.

 

Chân dung Hoàng Cầm

Nguyễn Đăng Mạnh

Những tư liệu riêng của tôi về Hoàng Cầm, tôi đã đưa cả vào bài chân

dung: “Hoàng Cầm người và thơ”.

Giờ tôi chỉ chép lại hai câu chuyện Hoàng Cầm kể tôi nghe mà tôi chưa

có dịp viết ra:

1. Chuyện tiết mục quan họ bị đả đảo.

Năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ. Hoàng Cầm lúc đó phụ trách

đoàn văn nghệ quân đội thuộc Tổng cục chính trị. Ông được giao tổ chức một

cuộc liên hoan văn nghệ mừng chiến thắng trong rừng Việt Bắc. Trong chương

trình biểu diễn hôm ấy, Hoàng Cầm bố trí xen vào một tiết mục hát giao duyên

quan họ.

Đang diễn thì ở một góc hội trường, bỗng có một đám bộ đội đứng dạy

hô đả đảo. Chỉ huy đám bộ đội này là một sĩ quan nổi tiếng anh hùng lúc bấy

giờ tên là Thái Dũng. Tây rất nể nhân vật này, gọi anh là Capitaine manchot

(đại uý cụt tay). Thái Dũng hô lớn: “Trong quân đội không được hát hỏng trai

gái nhảm nhí. Đi xuống!”.

Đám văn công sợ quá, vội hạ màn. May có Nguyễn Chí Thanh can

thiệp. Ông nói đại ý: “Chúng ta chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, nhưng

cũng vì những điệu hát này đây!”. Ông ra lệnh tiếp tục biểu diễn.

Nhưng các diễn viên mất hết tinh thần, không còn bụng dạ đâu mà diễn

được nữa.

Chuyện này giải thích, trong chiến tranh, vì sao tình yêu trai gái bị coi

là lãng mạn tiêu cực, một đề tài mà văn học hồi ấy phải kiêng kị.

2. Tố Hữu ra lệnh bắt Trần Dần.

Hồi Hoàng Cầm cho in tập Giai phẩm mùa xuân, có đăng bài của Trần

Dần, Tử Phác. Tố Hữu triệu tập mấy người đến họp: Hoàng Cầm, Văn Phác

(phụ trách tổ chức Bộ Văn hoá), Chế Lan Viên… Tố Hữu cầm cuốn Giai phẩm

mùa xuân, hỏi mọi người: “Các anh thấy tập sách này thế nào?”

Không ai dám trả lời, vì không đoán được ý Tố Hữu. Chế Lan Viên

nhanh trí, đoán trúng ý thủ trưởng. Anh nói: “Cuốn sách đại phản động!”.

Tố Hữu hỏi Văn Phác: “Hiện nay chúng nó đang ở đâu?”. Văn Phác:

“Thưa, các anh ấy đang đi thực tế ở Yên Viên”.

Tố Hữu lệnh – Hoàng Cầm nhớ đúng sáu tiếng: “Gọi nó về, bắt lấy

nó!”

Thế là Văn Phác làm giấy tờ để bắt Trần Dần, Tử Phác.

Và đây là lời kể của Trần Dần, Hoàng Cầm thuật lại: Chiều hôm ấy có

một cái xe ôtô nhà binh đến Yên Viên. Họ gọi Trần Dần, Tử Phác ra và lập tức

bịt mắt. Trần Dần kịp thấy trên xe có lính mang súng, lưỡi lê tuốt trần.

Hoàng Cầm nói, Trần Dần là tay thần kinh rất vững. Anh ta bình tĩnh

lắng nghe để đoán xem xe đi đâu. Qua một cái cầu dài. Thế là vào Hà Nội.

Nhưng xe lại chạy tiếp khá lâu. Thế là đi quá Hà Nội. Đến một chỗ nào đấy, xe

đỗ lại. Người ta dắt Trần Dần, Tử Phác đi xuống một địa điểm ở sâu dưới đất –

vì cứ thấy xuống nhiều bậc, xuống mãi. Đến một độ sâu nào đấy, họ dừng lại và

đẩy Trần Dần vào một căn hầm, đóng cửa lại. Trần Dần nghĩ bụng, chắc bị thủ

tiêu. Thủ tiêu ở đây thì ai biết được? Coi như mất tích.

Anh nghĩ phải tìm cách lên được mặt đất.

Sáng ra, thấy đây là một cái hầm đào sâu dưới đất. ánh sáng lọt xuống

từ nóc hầm qua một ô cửa có chấn song, ở trên thoáng thấy có bóng một anh

lính gác.

Trần Dần thấy trong hầm có một cái phản gỗ và một bình nước. Anh

kéo cái phản ra chỗ ánh sáng từ trên nóc hầm rọi xuống, cởi áo ngoài, để phơi

áo sơ mi trắng bên trong ra, lấy một cái mince lame trong túi, nằm ngửa trên

phản , dùng lưỡi dao cạo cứa vào cổ cho máu phun ra ngực áo, rồi giẫy đạp ầm

ĩ, cốt cho anh lính gác nghe thấy. Anh lính gác nhìn xuống thấy thế hoảng quá:

Nó tự tử, phải đưa cấp cứu ngay ! Một lát sau, cửa hầm mở, người ta đưa Trần

Dần đi cấp cứu ở một bệnh viện gần đó. Té ra là bệnh viện Hà Đông. ở đây,

Trần Dần may vớ được một người quen bèn viết mẩu giấy nhờ đưa đến Tổng

cục chính trị nơi anh công tác. Nguyễn Chí Thanh lập tức đến bệnh viện và lệnh

tha ngay cả Trần Dần và Tử Phác.

Hoàng Cầm rất phục Trần Dần. Thằng cha thần kinh rất vững. Hoàng

Cầm cũng từng bị bắt giam. (ông nghe Hoàng Hưng, định đưa tập thơ Về Kinh

Bắc sang Pháp in). Ông nói: “Tôi nhát lắm, mọi tội xin nhận hết (Hết hạn tù,

người ta cho ra, còn xin ở lại viết kiểm thảo. Tô Hoài cho tôi biết thế). Sợ nhất

là trong tù cứ thấy có tiếng phát ra đều đều không biết từ đâu: “Khai thật đi!

Khai thật đi! Khai thật rồi về với vợ con!”.

Chuyện nghe khá sợ. Một hình thức khủng bố về tâm lý. Chẳng biết

Hoàng Cầm có thêm thắt gì vào sự thật không. Nhưng quả là đáng sợ. Hoàng

Cầm cũng hay tưởng tượng thêu dệt thêm ra nữa.

Ai nấy đều thấy, thế giới nghệ thuật của thơ Hoàng Cầm là Kinh Bắc

thời xưa. Đó là quê hương của ông và cũng là quê hương nghệ thuật của ông,

nơi hồn thơ ông thường lẩn quất đi về. Rời Kinh Bắc là Hoàng Cầm hết thơ. Mà

phải là Kinh Bắc ngày xưa, Kinh Bắc của núi sông, đồng ruộng miền Bắc từ

thời ỷ Lan nhiếp chính, từ thời nhà Lý mất ngôi, từ thời bà chúa Chè về với

Trịnh Sâm, sau đó lưu lạc đi đâu về đâu không rõ, khi Trịnh Sâm qua đời, kiêu

binh nổi dậy… Một quá khứ đau buồn. Một nỗi buồn vương giả. Cho nên Kinh

Bắc trong thơ Hoàng Cầm là một Kinh Bắc vàng son, diêm dúa, lấp lánh châu

ngọc, là xiêm y xanh đỏ, là vũ đạo uốn éo, là tiếng hát cách điệu ý ới ý a… (

Không phải ngẫu nhiên mà Kim Lân, Tô Hoài, Lê Đạt cho thơ Hoàng Cầm là

vàng mã, trang kim). Nhưng mà buồn, là sự tàn tạ, là cõi xa xăm của lịch sử

đau thương của những triều đại suy vong…

Một đặc điểm nữa cũng dễ thấy ở thơ Hoàng Cầm: nặng âm tính, nói rõ

hơn là rất ướt át, rất “đĩ”. Ông thường cố tình lắp đi lắp lại những hình ảnh gợi

dục: “môi trầu đờ đẫn”, “ngực yếm phập phồng”, “bầu vú lửa”, “vén xiêm”,

“tốc xiêm”… Kim Lân khó chịu, cho là thưỡn thẹo, ưỡn ẹo, già mà tình tứ, dơ

dáng…

Nhưng thơ Hoàng Cầm chỉ thật sự là thơ khi ông có cảm xúc chân thật,

lời thơ tuôn trào theo bản năng tự nhiên, hồn nhiên. Hễ ông cố gò theo lý trí thì

thơ chỉ có xác (xác Kinh Bắc và cả xác tình dục) chứ không có hồn. Nguyễn

Đình Thi, Huy Cận cho thơ Hoàng Cầm là trò chơi chữ, là chủ nghĩa hình thức.

Đọc thơ Hoàng Cầm giống như tiêu tiền. Những đồng tiên lấp lánh ánh

vàng ánh bạc. Nhưng lẫn vào tiền thật, có vô số tiền giả. Đúng thế, thơ Hoàng

Cầm có vàng bạc thật, (tôi gọi là siêu thơ) và có không ít vàng bạc giả.

Con người Trần Dần

Lần đầu tiên tôi biết Trần Dần là trong một trại hè của các đoàn văn công quân đội năm (19…) Dáng người thấp, hơi thô, tay chân chắc nịnh, lúc nói chuyện thường ồn ào, giọng cười thẳng thắn, ròn rã. Đôi mắt xếch với cặp mày rậm làm cho khuôn mặt anh dữ tợn, nhưng đến khi anh há mồm ra cười thì trông lại như một đứa trẻ con.
Tôi biết tiếng anh từ lâu – Ở bộ đội Sơn La, từ đầu năm 1947, nổi tiếng có một anh Trần Dần nào đó thường vẽ và làm thơ có nhiều cái rất lạ, anh em văn nghệ xung quanh thì rất thích nhưng đồn rằng bộ đội thì không hiểu và một số cán bộ chính trị ở đơn vị thì lấy làm bực mình.
Tới trại hè năm 1951, các đoàn văn công nỗ lực tập luyện để phục vụ một chiến dịch lớn. Trần Dần phụ trách huấn luyện cho mấy trăm anh chị em: sáng tác đạo diễn và diễn viên. Trong bóng rợp của một rừng nứa, giọng anh rủ rỉ như lời tâm sự, giảng về văn nghệ nhân dân. Văn nghệ do dân, vì dân, có Đảng lãnh đạo. Giọng anh thấm thía từng ngày lên lớp. Mấy trăm anh chị em lần đầu tiên được học một tài liệu dài đến gần hai tháng, đều vui trong lòng như một người đi trong đêm rét, chợt nhìn thấy lửa ấm của một túp nhà. Học xong tài liệu Văn nghệ nhân dân, anh chị em say sưa công tác hơn vì người giảng viên Trần Dần đã thổi vào tâm sự mọi người một cái tự hào. Đến bây giờ tôi (…) [1] Lỗ Tấn mà Trần Dần đọc ra để dẫn chứng cho tài liệu:

Hoành mi lễnh dối thiên phu chỉ
Phủ thủ cam nhi nhụ tử ngưu

Học xong phần lý luận có thể nói hầu hết anh chị em văn công đều yêu mến Trần Dần như một người bạn từ lâu lắm. Những người có chuyện riêng gỡ mãi không ra, đều tìm đến hỏi Trần Dần. Một anh sắp lấy vợ, một chị bị ép chồng, một diễn viên già có vợ ở vùng tạm chiến, đều đến tìm Trần Dần – không phải là một câu trả lời thoả đáng – nhưng chính là một sự an ủi, một câu nói chí tình, và để nghe ở anh cái giọng cười quen thuộc, giọng cười vô tư, rất yêu đời.
Dần dần anh chị em gọi Trần Dần là “thày tướng” và lắm khi tin anh như một người đau khổ ngày trước tin số mệnh, đã đặt cho anh một cái tên “Trần Dần cốc tử”.
Hồi ấy Trần Dần yêu một nữ diễn viên văn công. Vốn tính cương trực, lỗ mãng, anh không biết cách nào khéo léo để lấy lòng yêu của người đàn bà. Anh không biết nói đẹp, nói hay, chỉ non thề bể, xem lá rụng, hoa tàn để vừa ý một cô gái rất đỏng đảnh. Gặp cô, anh “tấn công” luôn, rất thô kệch. Cô ấy sợ, và chạy trốn. Anh đuổi không kịp.
Rồi anh thất vọng to, và cũng biết khóc. Một lần bắt chợt anh ôm đầu khóc, tôi kéo mấy anh bạn vào xem: “Vào đây xem voi chảy nước mắt các cậu ơi!” Mãi về sau hình ảnh cô gái đó đột hiện lên, tươi roi rói, đẹp và anh dũng trong những trang đầy nhiệt huyết của cuốn truyện Người người lớp lớp [2] .
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Trần Dần thức thâu đêm suốt sáng để viết bản thảo lần thứ ba cuốn truyện về những người đã tạo ra chiến thắng lịch sử lớn lao đó. Dạo ấy tôi thấy anh gầy rộc đi, mắt trũng trong một quầng thâm rộng. Nhưng mắt anh có những tia sáng mới. Anh biết anh đang luyện ngòi bút cho thật sắc sảo, “có sác sảo mới diễn tả hết con người và cuộc đời”. Anh rất ghét lối viết dễ dãi, tạm bợ, tả bộ đội chỉ thấy súng nổ, lửa bốc, chỉ thấy uỳnh oàng mà chẳng thấy người. Anh gọi những loại văn đó là: văn chương khói lửa mịt mù. Nhìn vào những trang sách, độc giả tìm kiếm mãi mà chưa thấy một người, chưa thấy việc đời, chỉ thấy lổn nhổn những bộ máy lắp đi lắp lại và một lô danh từ, hình ảnh trống rỗng, thùng rỗng kêu to.
“Nhưng cái hướng chính của tôi không phải là tiểu thuyết. Hướng đi của tôi là thơ. Tôi sẽ tìm tòi trong thơ và cố gắng tạo ra một lỗi diễn tả riêng biệt – không phải lập dị- nhưng độc đáo.”
Trần Dần đã nói với tôi như vậy sau khi anh viết xong Người người lớp lớp. Hồi đó, anh có đưa tôi xem tập thơ làm đã lâu: Tiếng trống tương lai [3] .
Đọc lần đầu tiên, tôi không thích. Tôi cho Trần Dần là lập dị. Đọc lần thứ hai, thứ ba, tôi vẫn không thấy thích, nhưng dần dần tìm ra được nhiều cái mới lạ, khác với nếp cũ thông thường. Tuy nhiên, tôi vẫn không thấy thích cái lối thơ ấy. Dần dà đọc nhều bài thơ anh làm về sau, tôi càng thấy “cái anh chàng này khác thường”. Khác thường theo ý tôi chưa chắc là đã hay. Dù sao do thơ Trần Dần, tôi suy nghĩ nhiều về trách nhiệm người làm thơ trước cuộc đời: đi sâu vào đời sống có suy nghĩ của con người, tìm cách diễn tả riêng, tạo ra một thế giới riêng cho mình. Tôi thấy thơ Trần Dần có phần đau xót, u ám, nhiều khi rất buồn, vừa cộc cằn lại vừa có cái tự hào sôi nổi, nhiệt tình thẳng thắn, táo bạo.
Nhưng giọng thơ của anh, vẫn không lọt được vào tâm hồn tôi – một người làm thơ theo một dòng khác. Dù sao tôi vẫn trân trọng và quý mến những cái tìm tòi của Trần Dần trong thơ. Tôi cũng nghĩ như anh thường nói: Mỗi người làm một kiểu. Có thơ như tiếng sáo, có thơ như tiếng kèn, có thơ như tiếng trống. Đừng bắt thơ ai phải giống ai. Có thế mới thành một cuộc “hoà âm” lớn của thi ca. Độc giả thơ cũng ví như người xem xiếc. Có người thích kiểu tung cầu, kiểu đứng trên lưng ngựa. Lại có người thích xem dạy hổ, leo dây. Nhiều khi sợ đến rùng mình, nhắm mắt. Mỗi dòng thơ thích hợp cho một loại độc giả. Có thế mới trăm hoa đua nở được. Gò bó theo ý thích chủ quan của một vài người, thơ sẽ thành hoa giấy đóng hộp bày trong tủ kính.
Hồi đó, tôi chưa biết Mai-a-cốp-sky. Khi hoà bình lập lại, về Hà Nội, đọc Mai-a, tôi thấy hơi thơ và cách diễn tả của Trần Dần có nhiều chỗ giống Mai-a. Tôi trách anh:
“Sao cậu lại bắt chước Mai-a? Bắt chước thì không thể nào độc đáo được.”
Trần Dần nói:
“Tâm hồn có giống nhau thì mới ảnh hưởng sâu sắc được chứ! Mình bị ảnh hưởng Mai-a thực, nhưng cái chính là mình chịu ảnh hưởng thực tế cách mạng Việt Nam. Do đó mình sẽ dần trở thành mình.”
Viết xong Người người lớp lớp, Trần Dần được phân công viết thuyết minh cho cuốn phim Chiến thắng Điện Biên Phủ và anh được cử sang Trung Quốc làm nhiệm vụ đó. Nhưng đi kèm bên cạnh anh là một cán bộ chính trị có quyền tối hậu quyết định [4] . Anh cán bộ này, đáng lẽ phạm vi công tác là góp ý kiến vào nội dung bản thuyết minh và bảo đảm cho nó không phạm những sai lầm về đường lối chính sách của Đảng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, thì đã lợi dụng uy quyền của mình đi quá xa vào phạm vi văn học, bắt Trần Dần phải viết như ý mình, từng câu từng chữ, lạm dụng danh từ chính trị khô khan rỗng tuếch để nhét cho kỳ được vào bản thuyết minh.
Đầu tiên, Trần Dần rất phục tùng người cán bộ chính trị khi dự thảo thuyết minh, và hoàn toàn theo sát những vấn đề chính trị sẽ đặt ra khi thuyết minh. Đến khi thấy anh cán ấy “lên gân” và thọc bàn tay cứng lạnh vào phạm vi viết văn thì Trần Dần bắt đầu có phản ứng. Nhưng anh vẫn bình tĩnh, đề nghị cấp trên xét lại vấn đề. Đến khi “anh cán bộ vẫn là tối hậu quyết định cả từng câu chữ” thì Trần Dần thôi không làm công việc đó nữa, nhường cả phần “văn chương” cho đồng chí cán bộ.
Sau việc này sự mâu thuẫn giữa văn nghệ sĩ và cán bộ chính trị bắt đầu phát triển khá mạnh trong con người Trần Dần. Anh vẫn cố dẹp đi, nhiều lúc anh thẫn thờ ít cười ít nói nhưng vốn là con người chân thực – cái chân thực nhiều khi đến thô lỗ – lắm khi anh đã cục cằn, thốt ra những lời gay gắt thiếu lịch sự. Anh thường bàn với anh em, khi thấy nhiều thắc mắc quanh việc này: “Ôi già! Cái con số cán bộ chính trị bóp chết nghệ thuật thì không ít đâu. Làm thế nào để Trung ương Đảng biết rõ tình hình và đề ra những chính sách cụ thể cho văn nghệ sĩ, đó là nhiệm vụ của mỗi đứa chúng mình. Tin Đảng, yêu Đảng, đi theo Đảng đến cùng thì phải có phần góp ý kiến cho Đảng. Đảng cần nhiều khối óc, cần nhiều bàn tay, cần nhiều trái tim, chứ Đảng không cần đến những con người máy, giật thế nào làm thế ấy”.
Đó là động lực thúc đẩy Trần Dần, rồi đến Tử Phác, Đỗ Nhuận, Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Hoàng Tích Linh, và rất đông anh em công tác văn nghệ trong bộ đội dự thảo ra bản “Đề nghị Chính sách Văn nghệ” trình bày với cấp trên hồi đầu năm 1955, tại Hà Nội.
Bản dự thảo sắp được thông qua. Một vài cán bộ cao cấp trong quân đội tỏ ý tán thành những điểm chính trong bản đề nghị đó, và nhất là hoan nghênh tinh thần xây dựng của bản đề nghị.
Trong thời gian bản dự thảo còn bàn đi bàn lại, thì bỗng có một người đàn bà đến rất nhanh chóng trong đời sống của Trần Dần. Một chị ngoài 20 tuổi, đi đạo, ở Hà Nội mới giải phóng. Trần Dần gặp người đó và hai người yêu nhau. Lúc mới yêu người ta dễ say. Trần Dần lại là người chưa từng được yêu bao giờ, dù anh đã gần 30 tuổi. Anh mê man với mối tình đó buổi đầu và đã đôi ba lần làm trái với nội quy sinh hoạt của bộ đội. Cái tật xấu nhất của Trần Dần là bừa bãi trong sinh hoạt: quần áo, sách vở, vứt lung tung, bạ đâu ngủ đấy. Trong sự giao thiệp với người đàn bà này, anh cũng rất bừa bãi. Mới quen lần đầu đã nghiễm nhiên vác ba lô đến ở chơi nhà người ta vài ngày, rồi cười đùa ầm ỹ. Anh đã sấn sổ đòi tình yêu. Người thiếu nữ có lẽ vì sợ đôi mắt xếch đã đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác, và đến lúc nhượng bộ cuối cùng: chị đã trao cả cuộc đời mình cho anh. Nhân lúc đang ốm yếu, được phép nghỉ, anh đã đến nhà người yêu ở hàng nửa tháng liền. Và anh đề nghị cấp trên cho anh được cưới.
Một người con gái mới lớn, đã sống trong không khí tôn giáo, sống trong vùng tạm chiếm lâu năm, lại có được uỷ quyền cho thuê mấy cái nhà, bây giờ bỗng dưng yêu một anh cán bộ quân đội. Vấn đề gì đặt ra đây?
Trần Dần vẫn yêu đắm đuối và ngang ngạnh. Anh đề nghị đơn vị đi sát giúp đỡ anh. Lý lịch người thiếu nữ, theo anh, không có gì là mờ ám. Một công dân còn trẻ, chưa hiểu việc đời nhiều lắm, trình độ chính trị rất thấp, nhưng biết yêu lá cờ vinh quang của Tổ quốc, ngày giải phóng thủ đô, cũng chạy ra đường vẫy quân đội, miệng hoan hô không biết mỏi.
Trần Dần ngày càng không thể dứt ra được tình yêu dù anh biết mối tình đó sẽ gặp nhiều trắc trở. Quả nhiên, không ai “tán thành” tình yêu của anh, trừ một vài người bạn thân. Có người lên giọng đạo đức: Thằng Dần sa ngã rồi. Mới về Hà Nội đã hư hỏng, hoà bình chủ nghĩa thật.
Có người nghiêm nét mặt, đề cao cảnh giác: Cẩn thận! Kẻo sa lưới địch! Nó đang âm mưu tấn công vào hàng ngũ ta.
Tình yêu của Dần với cô gái Hà Nội đã làm cho anh em chung quanh bàn tán sôi nổi. Nhưng không ai chịu khó đi tìm chân lý. Những câu chuyện nói cho vui mồm, những lời dèm pha, chế giễu, những “nhận định” cao siêu, những “lập trường” “quan điểm” giai cấp tính, tư tưởng tính, “tư sản” và “vô sản” v.v… Người ta rút những câu to lớn nhất trong hàng chục pho sách chính trị để quy kết cho một mối tình.
Trần Dần đã gục mặt vào tay đau đớn. Tôi đã gặp anh ngồi lặng hàng giờ trong một căn phòng quần áo bàn ghế bừa bãi ở nhà người thiếu nữ đó. Giữa anh và chị, có một niềm tủi cực, cay đắng, xót xa. Chị đã thôi không trang điểm, xếp áo màu vào tủ, có cái thì đem cắt ngắn, nhuộm nâu. Đã tan đi từ lâu lắm tiếng cười ròn rã. Trong giọng nói đã thấy ngấn nước mắt. Có vài căn nhà được uỷ quyền cho thuê, chị đã nghe lời anh đem giao lại cho Ủy ban nhà cửa. Đầu tiên, khi nghe người yêu bàn việc đó, chị K. ngạc nhiên mắt đen tròn mở to:
“Thế rồi sống bằng gì hả anh? Sao lại giả nhà cho Chính phủ hở anh? Chính phủ có kết tội những người có nhà cho thuê không hở anh?”
Rất nhiều câu hỏi. Anh đã bàn:
“Không! Chính phủ vẫn bảo đảm cho người có nhà cho thuê. Nhưng chúng mình phải làm lấy mà sống. Không nhờ vào đâu cả, ngoài bốn cánh tay mình, đủ sống thì thôi.”
Trần Dần hết sức giải thích cho người yêu và hướng người yêu vào cong đường “làm lấy mà sống” “đừng nhờ vả ai”. Hình ảnh người con gái đi tìm việc làm trong mưa, về sau tôi lại gặp rất đau xót, trong bài thơ “Nhất định thắng” in trong tập Giai phẩm mùa Xuân 1956.
Mối tình đó kéo lê những ngày lo sợ, buồn phiền. Trần Dần không ngờ yêu lại khổ đến thế này. Cùng một thời gian đó, bản “Đề nghị Chính sách Văn nghệ” thảo luận chưa xong. Giời sang hè, mùa mưa tầm tã. Trần Dần và người yêu vẫn sống trong một góc nhà tối thiếu ánh sáng. Bữa cơm không vui. Bụi phố Sinh Từ rắc vào nhà như sương, bụi phủ trắng mặt bàn ghế. Ăn vội vàng, Trần Dần lại về đơn vị để rồi lại được nghe những lời phê phán, những tiếng xì xào. Và người thiếu nữ lại chân đất, áo ngắn, đi tìm việc làm, có hôm từ sáng đến tôi mới về:

Em đi trong mưa… cúi đầu… nghiêng vai

Đến ngày họp bàn về dự thảo chính sách, Trần Dần được anh em cử ra trình bày. Nguyện vọng của bao nhiêu văn nghệ sĩ trong quân đội. Làm thế nào để sáng tác hay, phục vụ được sâu sắc. Anh nói say mê, nhiệt tình. Trong cách nói nhiều khi bốc. Mặt anh khi đỏ gay, khi tái lại:
“Giả văn nghệ cho anh em văn nghệ sĩ! Phân rõ ranh giới giữa cán bộ chính trị và văn nghệ sĩ. Văn nghệ sĩ phải có sự lãnh đạo của Đảng, nhưng không thể biến thành cái máy v.v…”
Đột nhiên trong không khí hào hứng của gần ba mươi anh em văn nghệ sĩ đang sẵn sàng cởi mở hết để xây dựng một trong những chính sách lớn của Đảng, bỗng có một câu quật lại:
“Tinh thần bản đề nghị này chính là một thứ tư tưởng tự do của tư sản. Nó chứng tỏ tư tưởng tư sản đã bắt đầu tấn công vào các đồng chí!”
Giá câu nói ấy ở mồm một người thường thì cũng sẽ thường thôi. Nhưng lại ở một cán bộ có đủ thẩm quyền xét lại hay bác bỏ những đề nghị của văn nghệ sĩ, thì bắt đầu có một sự động cựa lớn. Những người trước kia tán thành bản dự án thì bắt đầu trở nên hoang mang.
Thêm vào đó, câu chuyện tình chưa được công nhận. Bóng người con gái hiền lành, hay khóc, người yêu của Trần Dần bỗng trở thành một thứ gì ám ảnh: Một bóng ma đáng sợ. Người nào muốn tỏ ra “lập trường tư tưởng vững chắc” không bị “tư tưởng tư sản tấn công” đều phải ghét người con gái ấy đi. Tình cảm day dứt đến cực độ, như một cành cây non bị quật lên quật xuống trong trận bão khổng lồ, Trần Dần không còn biết bộc bạch cùng ai. Nói gì bây giờ cũng khó lọt qua tai những người “vững lập trường lòng lim dạ sắt”. Trần Dần gần như phát điên. Hết đứng lại ngồi, lại chạy ra phố, lại về đơn vị, ở đâu anh cũng thấy như có những dây trói vô hình mỗi ngày một thít chặt vào trái tim anh.
Cùng một thời gian ấy, những sự kiện lớn trong phong trào văn nghệ dồn dập tới: Phê bình tập thơ Việt Bắc, Trần Dần nhận định tập thơ Tố Hữu nhỏ bé nhạt nhẽo trước cuộc sống vĩ đại và mắc một sai lầm nghiêm trọng là sùng bái cá nhân, thần thánh hoá lãnh tụ.
Và truyện Người người lớp lớp phát hành hàng vạn cuốn, được hoan nghênh. Và cuộc phê bình Vượt Côn Đảo [5] cũng sôi nổi không kém cuộc phê bình Việt Bắc. Trần Dần viết một bài phê bình Vượt Côn Đảo giọng châm biếm cục cằn, khiến nhiều người phản đối. Trong một không khí hết sức căng thẳng của văn nghệ bấy giờ, lại bị quy kết là thoát ly chính trị, tư sản tấn công, hoà bình chủ nghĩa v.v… rất nhiều anh em bị cuốn vào một chỗ mịt mù, chân lý gần như bị ngập bởi các thứ thành kiến, chụp mũ hung hăng.
Con giun bị xéo mãi cũng quằn lên. Trần Dần có lúc oang oang ăn to nói lớn, có lúc tranh luận sôi nổi, có lúc nóng nảy văng tục, có lúc lầm lì ngồi một xó, khi thì ngâm thơ giọng buồn thấm thía, khi thì cao đàm hùng biện, khi thì lại vò đầu bứt tóc, nhiều lúc ứa nước mắt, ôm mặt nằm cò queo một mình, có lúc nấc lên, đầu bù tóc rối.
Tấn thảm kịch đã đi đến một chỗ thắt nút quằn quại. Người yêu của anh bắt đầu có mang. Và đột nhiên anh bị giữ ở đơn vị để kiểm thảo cùng với Tử Phác, quanh quẩn trong một gian phòng. Một tháng, rồi hai tháng, ba tháng. Những ngày đầu tiên, như cơn sốt rét đột ngột, anh kêu lên:
“Tôi có tội gì? Tôi có tội gì mà giữ tôi ở lại?” Người yêu anh bỗng thấy anh không về nhà nữa. Nhưng trận ốm nghén đầu tiên đã quật chị xuống như một con bệnh nặng. Mặt choắt lại, người chỉ còn da với xương. Một mình ở một căn nhà bừa bộn với một con chó gầy còm, không cha mẹ, không anh em [6] , không bạn bè, chỉ có bà hàng xóm bán guốc thỉnh thoảng chạy đi chạy lại nấu cho bát cháo. Tôi đến gặp chị mếu máo, trông già đi hàng chục tuổi. Chị hỏi:
“Sao anh Dần không về với tôi nữa hở anh?”
Tôi giải thích: “Anh ấy bận công tác ít lâu thôi. Chị đang ốm, có cần gì, chúng tôi sẽ giúp chị.”
Chị oà lên khóc:
“Bộ đội có cho tôi lấy anh ấy không?”
Tôi lại khuyên nhủ:
“Có chứ! Ai cấm đâu!”
Chị bỗng khóc to hơn:
“Phải rồi, không ai cấm tôi và anh ấy lấy nhau. Bộ đội người ta không cấm nhưng anh Dần bỏ tôi rồi! Tôi bụng mang dạ chửa thế này, anh ấy bỏ tôi trốn rồi!”
Rồi chị gào lên:
“Bạc như vôi ấy giời ơi! Anh ấy không muốn ăn ở với tôi nữa thì cứ bảo tôi biết, việc gì phải lấy cớ công tác này công tác nọ.”
Tôi thấy chua chát lạ lùng, nhưng chỉ nói tránh đi:
“Anh ấy bận công tác thật đấy mà!”
Chị vẫn một mực:
“Anh ấy nói dối! Cả anh nữa cũng nói dối. Thôi tôi chết đi! Tôi chết đi cho anh ấy đỡ bận! Mà đỡ phiền cả các anh…”
Một số bạn thân của Trần Dần phải cắt nhau đến canh ở đấy, giải thích an ủi, giúp đỡ một người con gái mới yêu lần đầu mà đã bị dao cắt ruột gan.
Trong những ngày u uất đó, anh không được biết tin người yêu, ngồi vò võ trong phòng kiểm thảo. Qua lúc đầu tiên đột ngột, tâm trí anh dần dần bình tĩnh lại. [7]
Ba tháng hết nằm lại ngồi, anh đã trải qua một đoạn đời đau khổ. Nhưng ở Trần Dần luôn luôn có tình yêu sự sống rất mãnh liệt nó đã ngăn không cho anh đến chỗ huỷ hoại cuộc đời còn rất trẻ của mình. Anh viết bài thơ “Nhất định thắng” (vào khoảng tháng Tư 1955).
Lần đầu tiên tôi vào thăm anh, với một món quà nhỏ: Một túm nhãn tôi mua ngoài phố. Anh vồ lấy ăn ngấu nghiến rồi cười oang oang: “Thi đua với các cậu làm thơ nhé!”.
Thấy tôi rơm rớm nước mắt, anh bỗng hạ thấp giọng:
“Đừng buồn cho mình. Mình cũng nhiều khuyết điểm lắm: có tự kiêu, có nóng nảy, có tự do vô kỷ luật thật. Nhưng không bao giờ không trung thành với Đảng, dù bị mắc tiếng oan, dù bị kỷ luật. Và mình tin những cái độc đoán của một vài cá nhân rồi đây sẽ không còn nữa. Đảng là một khối sáng suốt. Tương lai chúng mình, Đảng sẽ đảm bảo, dù bây giờ Đảng có thể chưa hiểu mình.”
Anh lại đọc Mai-a, đọc Sê-cốp, Goóc-ki. Anh lại nằm nghiền ngẫm Đất vỡ hoangTrên sông Đông êm đềm của Sô-lô-cốp.
Cánh cửa có chấn song sắt khép lại, tôi lùi ra và cảm thấy gian phòng kia không còn chật hẹp, tù hãm nữa đối với một con người đầy lòng tin như Trần Dần.
Hết 3 tháng kiểm thảo, anh lại được về với người yêu. Chị ấy lúc đầu còn giận dỗi:
“Thôi anh đi đâu thì đi, mặc xác tôi.” Nhưng chẳng bao lâu, mắt lại sáng, tiếng cười lại trở về trong căn nhà bề bộn những bàn ghế quần áo và ống chỉ, dao kéo. Chị đã bắt đầu may sẵn áo cho đứa con đang cựa trong bụng. Chị đã xin được việc làm:

Trời đã thôi mưa… thôi gió
Đã thấy nắng lên trên màu cờ đỏ

Rồi Trần Dần đi tham quan Cải cách Ruộng đất [8] . Bài thơ “Nhất định thắng” gửi Lê Đạt giữ từ lâu, anh cũng gần như quên đi, óc còn mải nghĩ về những mặt khác của cuộc sống để chuẩn bị cho những bài thơ khác sẽ ra đời.
Đã gần đến Tết ta. Một số anh em đã thấy say sưa sáng tác. Tôi chạy đi chạy lại gom góp sáng tác của dăm ba người bạn và nghĩ rằng phải xuất bản một tập văn thơ mùa Xuân để đóng góp với mùa xuân mới của văn nghệ đang sắp nở.
Và nhận thấy cái kỷ luật “cấm sáng tác” do một vài người công bố đối với Trần Dần là một điều vô lý, sai chính sách của Đảng, và đang lúc Trần Dần đi công tác xa xôi không biết anh có sáng tác gì mới không, tôi bèn tìm lại bài thơ “Nhất định thắng” và cho đăng vào cái Giai phẩm mùa Xuân mà tôi là người soạn bài.
Cứ để bông hoa đó nở thì đã hại gì ai mà có thể có lợi. Nhưng hoa chưa kịp nở, thì đã bị dập vùi. Giai phẩm mùa Xuân bị kết tội, bài thơ “Nhất định thắng” bị kết tội. Người ta cho rằng cái bè phái độc quyền trong giới văn nghệ bị công kích (bắt đầu từ cuộc phê bình thơ Việt Bắc) đã tìm cách trả thù:
Trần Dần, Tử Phác đều bị tống giam [9] .
Cái nút thứ hai khốc liệt hơn, của tấn thảm kịch Trần Dần.
Những ngày mùa xuân 1956, tôi đau đớn như có búa nện vào óc, có đinh đóng vào tim, và có dây trói chặt vào chân tay.
Mùng hai Tết, tôi ăn bữa cơm cuối cùng với Trần Dần. Giữa hai tợp rượu, đã thấy những cơn bão đe doạ, mà lần này chắc ghê hơn lần trước. Chị K. không biết gì vẫn vui vẻ ngồi bóc bánh, rồi xếp dọn ba lô cho chồng để anh ăn xong thì lại đi công tác.
Không khí văn nghệ như sắp sửa có trận bão. Không biết từ đâu cái tin “Trần Dần phản động” “Trong Giai phẩm có mấy tên phản động” bỗng truyền ra rất nhanh. Những tin không hay dồn đến, bổ vây tôi và anh Trần Dần còn đang ăn dở miếng bánh chưng Tết. Chị K. tái mặt, để rơi đôi đũa, nước mắt đã vòng quanh:
“Thế là thế nào hả các anh? Phen này lại bị bắt nữa thì tôi sống thế nào được? Các anh rủ nhau làm những chuyện gì mà khổ sở thế không biết!”
Trần Dần cũng tái mặt, anh cắn chặt môi, xốc ba lô lên vai, an ủi vợ:
“Em đừng lo. Tin đồn bậy bạ đấy thôi. Anh đi công tác đây, gần đến tháng đẻ, em đừng lo nghĩ gì cả.”
Nhưng chị K. không thể bình tĩnh được. Chị tiễn chồng ra cửa khóc oà lên:
“Anh ơi… Anh có về nữa không, anh ơi!”
Cổ tôi bỗng nghẹn nước mắt. Tôi cố cười:
“Ồ cái chị này lẩn thẩn. Thôi để anh ấy đi nào…”
Trần Dần ngửng mặt bước đi, ruột tôi bỗng thắt lại: Chuyến này mà nó có làm sao thì chỉ tại mình. Đang tự dưng bày ra cái Giai phẩm. Tuy chưa phải là những sáng tác xuất sắc, nhưng ít ra nó cũng nêu được vấn đề gì. Có vấn đề xã hội trong thơ Văn Cao, có vấn đề chống công thức trong thơ Lê Đạt. Và tuy tôi không hoàn toàn thích bài thơ “Nhất định thắng” của Trần Dần, tôi cũng đưa in, vì tôi thấy ít ra nó cũng khác với lối làm thơ một chiều. Dù sao thì cũng có ít ra vài ba con cá quẫy mạnh trên mặt ao tù bấy lâu phẳng lặng.
Từ những ngày Tết mưa lã chã, cái bè phái độc quyền trong văn nghệ bắt đầu họp đứng họp ngồi để tìm cách đối phó với cái Giai phẩm. Một không khí ngạt thở đè nặng lên những anh em có bài trong tập sách đó. Rồi đến một đêm, bài thơ “Nhất định thắng” bị đem ra luận tội.
Y như một xóm đang đêm tối bỗng có tiếng kêu “Cướp! Cướp! Cướp đã đến”. Lập tức mọi người mắt nhắm mắt mở, vớ lấy giáo mác, gậy gộc, chạy xô ra ngõ, gặp một cái bóng đen. Cả làng hầm hè đánh. Roi gậy, giáo mác, gạch củ đậu thi nhau nện xuống cái bóng người. Một trận đòn nhử tử. Cái tâm lý đánh cướp này là tâm lý chung của nhưng người muốn bảo vệ nhà cửa, xóm làng của mình. Cái bóng đen gục xuống. Mọi người lại về nhà đi ngủ. Sáng hôm sau, mặt trời mọc, đi ra ngõ, thì ra cái “bọn cướp” đó chỉ là một anh đang đêm nực nội mò đi hóng mây gió.
Những người đã cầm gậy đánh, đều rất có lý:
“Hô lên là cướp thì ông đừng giã bỏ mẹ đi à?”
Họ là những người yêu làng yêu nước, họ không có lỗi gì. Nhưng lỗi ở những ai hô cướp?
Kẻ nào hô ra hai tiếng “phản động” đầu tiên để gọi cả làng ra đánh chết Trần Dần?
Tôi cố suy mãi, lòng như dao chém. Thôi thế là đêm luận tội đã đóng án tử hình xuống một bài thơ; xuống một con người, đồng thời là một sự đe doạ nặng nề chung cho anh em văn nghệ sĩ đang muốn tìm những lối sáng tác khác với bè phái bên kia.
Sau cuộc lên án đó, tôi không được biết tin gì về anh. Tôi đoán biết được lần này thì anh sẽ thực sự ngồi tù. Vợ anh gần đến tháng ở cữ, vật vã khó suốt ngày suốt đêm vì quả nhiên, sau cái ngày mùng 2 Tết ấy, anh đi không về nữa.
Tôi cũng ân hận hết ngày ấy qua ngày khác, luôn thấy mình là thằng làm hại bạn: “Dần ơi, bây giờ mày nằm trong nhà tù nào, mày có trách tao không?”
Lần này tôi lo sợ hơn lần trước anh bị giam lỏng hơn 3 tháng. Lần này cái bè phái độc quyền văn nghệ kia nó quyết liệt hơn trước, trong không khí văn nghệ đã nghe thấy máu lửa. Tôi lo ngày lo đêm đến con người anh. Lần trước, anh còn chịu được và còn có thể bình tĩnh. Đến lần này, liệu anh còn có đủ can đảm chịu đựng hay không? Tôi đã nghĩ đến cái phút đau đớn cực độ, anh không thiết sống nữa thì một lưỡi dao, một cái đập đầu vào tường… tôi sẽ mất một người bạn, và chúng ta mất tác giả Người người lớp lớp, tương lai mất một nhà thơ.
Khi chị K. ốm nghén, bơ vơ trong một căn nhà, chống gậy sang hàng xóm xin từng ngụm nước, là lúc người yêu của chị đi ba tháng không về.
Khi chị K. đau quằn quại, cho ra đời đứa đầu tiên của một mối tình cay đắng, là lúc người yêu của chị lại đi… không biết bao giờ về.
Đứa bé ra đời, còm rom như một con mèo ốm. Nó quặt quẹo, sài đẹn mấy lần tưởng chết. Chị K. nuôi con bằng nước mắt nhiều hơn bằng sữa.
Tin anh vẫn mịt mù. Lần này chị không còn hiểu lầm anh là “phụ bạc” mà chị đã biết thực sự. Chị không oán thán nữa, chỉ ôm con mà khóc. Có lần tôi đến thăm, chị kể lể:
“Giá đừng biết nhau, đừng yêu nhau thì anh ấy đỡ khổ, tôi cũng đỡ khổ và không đến nỗi phải cho ra đời một đứa bé khổ sở thế này. Liệu nó có mất bố không hở anh? Liệu tôi có goá chồng sớm không hở anh?”
Tôi như bị chích vào vào gan. Bế đứa bé thấy nhẹ bỗng, mặt mũi nó nhăn nhúm, méo mó, tôi đã khóc và suy nghĩ rất lâu về giá trị con người. Đặt tên cháu bé là gì để kỷ niệm những ngày bố cháu và nhân phẩm văn nghệ sĩ bị trà đạp xuống bùn đen? [10]

Hôm nay
Trời đã thôi mưa thôi gió
Nắng lên đỏ phố đỏ nhà
Đỏ mọi buồng tim lá phổi
Em ơi! Đếm thử bao nhiêu ngày mưa…

Sau khi học tập nghị quyết của Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, cái tin vui từ lòng tôi tự dưng toả ra: Trần Dần chắc sẽ được về!
Quả nhiên, một buổi chiều sang hè anh đã về. Tin đó đến với tôi không đột ngột lắm, vì tôi tin chắc ở ánh sáng Đảng Cộng sản Liên Xô, tin ở chân lý mà Đảng ta nắm rất vững.
Anh đã về. Gặp anh, tôi không nói gì được. Vẻ mặt anh vẫn vui, nhưng có hằn thêm những nét khắc khổ. Da mặt xanh, người gầy gộc. Nói chưa được một câu, anh đã cười, vẫn giọng cười hồn nhiên, khoe với tôi bốn bài thơ anh làm trong lúc bị giam, và khoe rằng sở dĩ anh được về là nhờ có sự sáng suốt của Trung ương Đảng.
Tôi đọc kỹ bốn bài thơ đó, và nhìn anh, kinh ngạc. Tôi không thể nghĩ được rằng trong hoàn cảnh bị giam đau đớn thế, anh lại có đủ bình tĩnh làm những bài thơ sáng sủa chan chứa lòng yêu đời, yêu Đảng như thế này. Tôi thấy quí và kính phục người bạn mà tôi cho là rất anh dũng. Tôi khoan khoái đọc to mấy đoạn thơ của anh, anh ngửa mặt lên, tôi chợt nhìn thấy ở cổ anh có một vết sẹo dài nằm ngang cuống họng, thịt mới liền, còn đỏ tươi.
Tôi hiểu cả, không hỏi thêm anh điều gì… Trước mắt tôi, là một người có sức mạnh chống chọi với tủi nhục, với thành kiến, cả đến những lời vu cáo đanh thép nhất cũng rụng dưới chân anh như cỏ héo.
Trước mắt tôi là một người chí tình, tha thiết, đã có những giây phút bốc lên quá nóng nảy cục cằn, đã tự do bừa bãi nhưng không lúc nào ngừng hoạt động vì tiền đồ rực rỡ của văn nghệ.
Trước mắt tôi là một con người dũng cảm của Đảng, có thủy có chung, biết tin yêu Đảng vô bờ bến, biết căm ghét những cái thối nát đang làm hại đến uy tín của Đảng, của quân đội…
Trước mắt tôi là Trần Dần.
Trước mắt tôi lúc viết bài này là một chuyện kéo bè để vu cáo trắng trợn, một vụ án văn chương vô cùng oan ức, một tài năng và một tâm hồn trong sạch bị giày xéo.
Trước mắt tôi là lòng tin vào ánh sáng của Đảng. Ánh sáng đó sẽ soi rọi vào bất cứ chỗ nào đang cần bảo vệ giá trị con người.

[1]Thiếu vài chữ, do bản gốc bị thủng không khôi phục được (các chú thích trong bài của Phạm Thị Hoài)
[2]Trần Dần viết xong tiểu thuyết Người người lớp lớp cuối tháng 9.1954, trước khi lên đường đi Trung Quốc.
[3]Bài thơ dài “Tiếng trống tương lai” hoàn thành tại Bắc Kinh tháng 10.1954
[4]Chuyến đi Trung Quốc kéo dài 2 tháng, từ 10.10 đến khoảng 10.12.1954. Trong đoàn công tác của Trần Dần còn có nhạc sĩ Đỗ Nhuận.
[5]Tác phẩm của Phùng Quán
[6]Gia đình bà Bùi Thị Ngọc Khuê, vợ Trần Dần, đã di cư vào Nam năm 1954.
[7]Trần Dần bị giam kiểm thảo theo kỉ luật quân đội từ 13.6 đến 14.9.1955
[8]Đó là chuyến đi tham quan Cải cách Ruộng đất đợt 5 tại Bắc Ninh, từ 02.11.1955 đến tháng 2.1956.
[9]Trần Dần bị giam 3 tháng tại nhà tù Hoả Lò, Hà Nội năm 1956. Trong tù, ông đã dùng dao cứa cổ toan tự tử.
[10]Con gái đầu của Trần Dần là Trần Thị Băng Kha.

 

 

Tâm sự đôi tất niên

Hoàng Cầm – Dương Tường

(bài đã đăng trên báo Đoàn Kết số tháng 2.1985,
bản mới đăng ở đây đã được tác giả sửa chữa và bổ sung)

Một kỉ niệm với Hoàng Cầm

Cuối 1988- đầu 1989, Hoàng Cầm và tôi có một chuyến Nam du đầy ý nghĩa đối với cả hai chúng tôi, nhất là với Hoàng Cầm. Trong hơn nửa thế kỉ bạn bầu với nhau, chúng tôi đã cùng chia sẻ biết bao buồn vui, hoạn nạn, nhưng đây có lẽ là kỉ niệm sâu đậm nhất giữa hai chúng tôi. Chuyến đi, kéo dài hơn hai tháng, có một ý nghĩa đặc biệt với hai chúng tôi, nhất là với Hoàng Cầm. Bởi vì nó diễn ra vào những ngày đầu đổi mới, ngay sau khi TBT Đảng CSVN Nguyễn Văn Linh tuyên bố “cởi trói” cho văn nghệ. Hơn ba mươi năm bị cấm xuất bản, cách biệt hoàn toàn với công chúng, giờ trở lại trong sự yêu mến chân thành của những người hâm mộ (vốn cũng bị ức chế bao lâu không được bộc lộ công khai, hồn nhiên tình cảm ấy). Hoàng Cầm cảm thấy một cú sốc lớn êm ái, hay như anh tâm sự với tôi, “một cuộc hồi sinh.” Trong hơn hai tháng đó, chúng tôi đã gặp gỡ nhiều nhân vật kì thú, gặp lại bạn bè cũ, làm quen với nhiều bạn mới tuyệt vời, đã tổ chức được 3 đêm thơ Hoàng Cầm tại Thành phố Hồ Chí Minh và Tiền Giang (Mỹ Tho cũ) – 2 ở Tp Hồ Chí Minh và 1 ở Tiền Giang – trước hàng nghìn khán giả cuồng nhiệt, điều mà trước nay anh chưa từng thấy. Đặc biệt, đêm thơ ở Tiền Giang đến một cách hoàn toàn ngẫu hứng, không định trước. Nhà báo Hà Giang (tên thật Nguyễn Đình Soạn), thư kí tòa soạn báo Ấp Bắc, chỉ định đón chúng tôi xuống thăm, nhưng rồi trên bàn trà, từ ý kiến khởi xướng của anh Quý, một thày giáo yêu văn chương nghệ thuật, mọi sự được quyết định trong không đầy nửa tiếng đồng hồ. Thành thử đêm Hoàng Cầm ở Tiền Giang lại đi trước đêm Hoàng Cầm ở Nhà Văn hóa Thanh niên Thành phố Hô Chí Minh đã được lên kế hoạch từ trước! Dễ hiểu là Hoàng Cầm đã thốt lên: “Lúc này, tôi là người sung sướng nhất thế giới!” Và thổ lộ cùng tôi: “Giá lúc giời gọi về cõi, mình được ra đi trong trạng thái này!” (Tôi không chắc sáng ngày mồng 6 tháng 5, anh có ra đi trong trạng thái ấy?). Không hiểu do một xui khiến định mệnh nào mà ngay từ khi viết những trang thơ đầu, chàng thiếu niên Bùi Tằng Việt đã chọn cho mình cái tên của một vị thuốc đắng làm bút danh. Cho nên những ngày ngọt ngào tôi vừa nhắc ở trên là điều cực hiếm trong cuộc đời đầy cay đắng của anh.

Kết thúc chuyến đi này, cuối một buổi tiệc tiễn do báo Tuổi Trẻ mời, hai chúng tôi đã viết chung một bài lấy tên là TÂM SỰ ĐÔI TẤT NIÊN. Nó gần như một thứ tổng kết chuyến đi. Tôi vừa tìm lại được…

Dương Tường

Dương Tường: Thấy không, Hoàng Cầm, đường phố Sài Gòn đã xuất hiện nhiều dưa hấu, dấu hiệu sắp Tết, có nghĩa là Hà Nội chắc cũng đang chuẩn bị cho chợ hoa truyền thống ở Hàng Lược. Đã đến lúc chúng mình kết thúc chuyến đi này. Ông có nhớ cái rét giáp Tết Hà Nội?

Hoàng Cầm: Ờ, cái rét Hà Nội… tất nhiên là nhớ rồi. Nhưng có lẽ khi nào về Bắc, lại nhớ cái nồng ấm phương Nam – không phải chỉ cái nồng ấm của thời tiết, mà còn là cái nồng ấm của tình cảm nữa. Phải, chuyến đi này đối với mình là một vụ gặt bội thu về tình cảm – tình cảm bạn bè, cả bạn cũ lẫn bạn mới, và tình cảm công chúng. Và trong cái nồng ấm ấy, hơn hai tháng trời vèo qua như một giấc mơ đẹp. Mình đã chẳng có lần nói với Dương Tường – hình như bữa ấy có cả một số bạn bè khác – rằng: “Lúc này, mình là người sung sướng nhất thế gian” đó sao?

DT: Tôi chia sẻ với ông niềm sung sướng ấy. Dĩ nhiên, hạnh phúc này không bắt nguồn từ một chút vinh quang phù du. Ông đã dẫn Maïakovski khi trả lời tạp chí Sông Hương: “Tranh nhau danh giá làm gì!” Giờ lại phải nhắc lại… Chúng mình, hai thằng thơ, đi nhẹ về nặng – hành trang tâm linh. Ông tự cảm thấy những vỉa quặng thơ của ông dưới tầng sâu ra sao?

HC: Trữ lượng chưa vơi, có lẽ còn đủ để khai thác cho đến hết đời. Chuyến đi này cũng kể như một đợt nạp nhiên liệu mới. Nhiên liệu ấy là những cuộc gặp gỡ khó quên với bạn bè, với những nhân vật kỳ thú như anh Năm Phước, con người thao lược, chú Hạc, chủ tịch Tân Long, Cồn Rồng…, với công chúng Mỹ Tho – Tiền Giang và Thành phố Hồ Chí Minh. Cảm xúc ăm ắp, chộn rộn, chưa kịp lắng xuống. Nếu sau đây không làm được cái gì thì chỉ nên tự trách mình mà thôi.

DT: Chúng mình ban đầu dự định đi từng chặng lần lần ghé Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha

Trang rồi Thành phố Hồ Chí Minh. Cơn bão đã làm đảo lộn kế hoạch. . Vậy là ngoài Thành phố Hồ Chí Minh, mình chỉ có dịp thăm Mỹ Tho (Tiền Giang) và Vũng Tàu.

HC: Dù sao đi nữa, mình cũng rất thỏa mãn. Còn hơn cả thỏa mãn nữa. Mình có cảm giác đây là một cái gì giống như sự hồi sinh. Đêm thơ đầu tiên ở Mỹ Tho đối với mình là một bất ngờ thú vị. Mọi sự được quyết định trong dăm mười phút, từ ý kiến khởi xướng của anh Quý, Trần Bửu, Hà Giang. Sau đó, trở về Thành phố Hồ Chí Minh, cái đêm ở Nhà Văn hoá Thanh niên, ngay trước khi khai mạc khoảng nửa tiếng…

DT: … ông bị một cơn sốc do quá xúc động và tôi đã lo ông bị ngất xỉu, làm lỡ đêm thơ. Ông có nhớ những người yêu mến ông đã đỡ ông vào nơi kín gió và chạy đi tìm thuốc và dầu xoa. May sao ông hồi lại khá mau…

HC: Ờ, hơn ba mươi năm không ra mắt một đám cử toạ đông, mình bị déshabitué (mất thói quen). Vả chăng chính ông cũng nói mình là hypersensible (siêu nhạy cảm) mà. Có lúc mình nghĩ giá khi nào rời khỏi thế giới này, mình cũng ở trong trạng thái như vậy!

DT: Khoan nói chuyện ấy vội. Cuộc đời đến như thế nào, ta hãy đón nhận nó như vậy. Một anh bạn nhạc sĩ trẻ Hồng Đức phổ nhạc bài thơ mới Anh đứng đây là… của ông gần như đồng thời với người bạn cũ Hoàng Hiệp của chúng ta, một chị Tâm Vấn từng đóng vai Sơn Nữ trong vở kịch thơ Hận Nam Quan cách đây 38 năm, giờ mới gặp tác giả, một cô gái từ xa về mang theo thư và ảnh của Kiều Loan đến cho ông trúng vào kỷ niệm sinh nhật của cháu…, hãy coi đó là những quà duyên của từng ngày. Hãy nhận và tạ lại bằng những gì ta có thể làm bằng phương tiện riêng của ta.

HC: Và cảm ơn cuộc đời, cảm ơn xu thế đổi mới đang có đà trên đất nước ta. Mình quên chưa kể với Dương Tường là hôm vừa rồi, mình trở lại Mỹ Tho chơi với anh Năm Phước vừa đi họp Quốc Hội ngoài Hà Nội về. Con người ấy, với cơ sở chăn nuôi hiện đại và xí nghiệp đông lạnh, mỗi năm đem lại cho Nhà nước không dưới bốn triệu đồng.

Thật tình, mình bây giờ như cái cây qua mùa đông, lại bắt đầu dâng nhựa.

DT: Vậy đó, tác giả Bên kia sông Đuống giờ lại Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.

Có lẽ ông nên gửi lời tạm biệt công chúng Thành phố Hồ Chí Minh bằng những câu thơ mới nhất của ông trên mặt báo Tuổi Trẻ, tờ báo mà chúng ta yêu.

HC: Đồng ý. Đọc để Tường và các bạn cho mình thêm dương tính nhé.

Nhánh mai vàng đón cửa
Cỗ Tết Tuổi Trẻ mời
Diệu kỳ đi kẽ tóc
Nao nao tình bén hơi

Mắt trẻ nhìn em mãi
Tóc thẹn trắng mây êm
Hồn xanh thành phố cưới
Vào tranh nép dáng hiền

Em cứ mười hai tuổi
Cây – Lá – Quả lành duyên…

(Thành phố Hồ Chí Minh
những ngày giáp Tết Kỷ Tỵ)

 

Phụ đính:

Mưa Thuận Thành

Sau chuyến đi xa lần thứ nhất
Anh về
Hỏi sao em còn búp nõn
Miệng cười mụ dạy bé nằm mê
Nhìn mắt anh ao mưa nhoè nắng
Em nói :
– Vì em mới biết yêu anh
Sau chuyến đi xa lần thứ ba
Anh về
Hỏi sao em phơi phới rừng sơ xanh
Mắt trong lòng sáng rạng đồng quê
Nhìn nếp nhăn vầng trán anh
Ngang tầm bão biển
Em nói :
– Vì em chỉ biết có anh
Sau chuyến đi xa lần thứ chín
Anh về
Sao tơ tình em càng óng mịn
Môi thơm mận tía vườn quê
Nghe tóc anh xào xạc lũy tre mờ khói tím
Em nói :
– Vì anh đã biết xót thương mình

Bâng khuâng

Lần thứ nhất gặp anh em nói
– Chỉ xin làm em gái của anh
Lần thứ hai gặp em anh nói
– Muốn xin em làm vợ của anh
Lần trước, anh cười chẳng nói
Lần sau, em cười quay đi.
Hôm nay
Họ xa nhau từ lâu
Còn lại tiếng mưa ngâu
Gõ nhịp giọt gianh thềm đêm vắng
Và một dòng thơ
Trang trải nợ ban đầu.
Đi bên em
Hỡi em khua guốc ưu phiền
Chìm trong mặt đá nét hiền dáng quê
Trăng đêm qua chẳng nhớ về
Áo mong manh cởi chiều mê mải sầu
Em đi chân lạnh từ đâu
Chắt chiu quấn lụa càng đau ruột tằm
Nhớ em gió nhẹ nhàng thăm
Em đau sao ruỗi dáng nằm nhẩn nha
Tiếng cười hay tiếng xót xa
Tiếng yêu hay tiếng khóc òa vì thương
Em chia khế ớt tẩm đường
Môi tê hé gọi mười phương ngọt ngào
Hàng mi em rớt ánh sao
Em đi chân đất khuất vào cõi anh.
Khấn hương hồn con gái
Bùi Hoàng Yến
Con đi xa về phía ấy
Bao năm già trước tuổi
Một đồi thông
Dòng chữ cuối :
Yên Kỳ
Đứa con trai cứ thoai thoai
Cười nói
Bên lề đường
Đánh bi
Hòn bi ve lia tia máu rọi
Cứ thẳng đường lăn đi
Nó đá bóng
Hình như bong bóng xà phòng
Cọng rơm khô tung quả cầu nhiễu sắc
Cười ngoan không
Mà khóc có hư không
Con đi xa về gần
Trang đời khô nước mắt
Quê Tản Đà
Người bán than khóc hão Chiêu Quân
Cỏ viết chữ ngút trang âm
Khó đọc
Tà áo hương mê
Xua con đi nhanh
Đi nhanh đầu ghềnh
Đi nhanh cánh bướm
Con về ngày giỗ bày cỗ trăng rằm
Đứa chồng thì xóa hết nơi vợ nằm
Đứa con thì quên nơi mẹ giặt chiếu
Ở Yên Kỳ sao con vẫn thiếu
Một nơi nằm yên
Mấy kỳ nguôi quên
Trước sau
Năm ấy mẹ qua đời
Tết đến nhà ứa lạnh
Khói Văn Điển chơi vơi
Thức đầu giường đêm quạnh
Nhớ mẹ anh nằm khóc
Em xa bẵng tiếng cười
Đuổi xuân đi xõa tóc
Lược bỏ gương mồ côi
Năm sau anh cưới vợ
Năm nữa em lấy chồng
Tết đến nhà chật chỗ
Xuân rủ hương nằm chung
Mỗi năm thêm một thoáng
Anh sinh gái đầu lòng
Rồi tháng nào cuối đông
Em lo chăm nằm cữ
Bé má hồng bụ sữa
Bé mắt đen tròn thơ
Lược về xuôi tóc lụa
Lưng thon hình xuân xưa
Anh xoa tóc con gái
Hương ấm lùa kẽ tay
Em bồng bế con trai
Trĩu thơm mùa bưởi ngọt
Chợt ngước lên ban thờ
ảnh mẹ nghiêm hương khói
Một lá vàng chẳng nói
Nghìn chồi xuân không lời
Dáng thơ
Thuở ấy Chị chưa về thơ Anh
Áo tơ dính chặt bó khuôn hình
Đến khi xé lụa bừng da thịt
Ngửa mặt phù du khép gió xanh
Rung suốt dây si nhịp quá mê
Nghe nghìn thế giới trượt ghềnh V
Lung liêng hồn liệng quỳ khe núi
Van suối trần tâm khép nép về.
Anh đứng đây là đâu
Anh đứng đây là đâu
Em cười như lá mỏng
Khép cửa vào chiêm bao
Anh đứng đây từ đâu
Em nói như gió nghẹn
Chiều nghiêng mây Thị Mầu
Anh đứng đây về đâu
Em nhìn như mưa trắng
Năm năm bay ngang đầu
Anh đứng đây vì đâu
Chuyện cô đơn
Vu quy bừng xóm trống trơn
Mối vách mách nhiều chuyện ấy
Nàng dâu nhện múa chập chờn
Lật sấp mặn nồng gối nguội
Động phòng cưỡng gió ôm hôn
Rủ mưa lồng chăn lẻ chiếc
Đắp kín đồi khe nhớ tiếc
Phập phồng bóng động nguồn cơn
Nàng mây cầm mảnh trăng liềm
Cắt rốn nỗi buồn mới đẻ
Sinh đôi… Bế chị bồng em
Xin cúi mình nghe cơn giông dự báo
Sấm động tơ trời vương mắt long lanh
Nửa mảnh mây hờ
Sã cánh tìm xanh
Thành lứa đôi rồi
Âu yếm rất em anh.

Xa…

1
Nắng động bên giường lay tỉnh giấc
Lại rơi vào quạnh quẽ đêm qua
Đâu như mắt chợp mê gì vậy
Xa rồi… hôm qua… em đã xa
Mạng nhện lung lưa bên cửa sổ
Chim gì lảnh lót dãy tường rêu
Bấy nhiêu lá úa rơi ngơ ngác
Đo một giờ em xa bao nhiêu
Sợi tóc ngủ lâu màu gối lạnh
Nửa đêm qua thoi thóp cựa mình
Cõi đời loáng thoáng em về đấy
Tóc quấn vờn quanh kiếp ảo sinh
Thế nghĩa là em thực hóa mơ
Tưởng như em chẳng có bao giờ
Em đâu ai xé hồn muôn mảnh
– Tiếng mối tường bên xé tiếng mưa

2
Em đi rồi bỏ lại ngày đêm
Anh vỗ Niết bàn ran đất lạnh
Là em nằm đấy chết dài thêm
Em đi rồi để lại hương hoa
Nặng ngang đá tảng đè giun dế
Bồng tóc em vương bốn góc nhà
Em đi rồi để lại hư vô
Chiếc lá tre khô bềnh mặt sóng
Là tim anh gợn bén quanh mồ.

3
Đêm đêm hương khói ngày không nói
Trang giấy vùng âm đắp ấm êm
Ai khấn gọi gì qua mộ chí
Trời sao nuốt nghẹn khối u mềm
Bong bóng xà phòng thuở bé chơi
sắc màu rực rỡ phút buông lơi
Em đi vỡ vụn bao nhiêu nắng
Về cõi nào đây chắp kiếp người

(Ngày mất Lê Hoàng Yến
13/7/1985)

Bênh

Người mỉa em đờ… ấy đấy ru ?
Cười toe nói toét toạc sương mù
Tàn canh đứng…
Rạng đông vừa lọt
Cửa khép hờ toang hoác gió thu
Thì vâng !… em xin đừng lặng thinh
Da hồng tóc óng mỏng đường sinh
Đào nhung cánh lụa kiềng soi nắng
Gió cấp ba thổi méo thân hình
Bừng cơn sốt đến giường nan lệch
Trăng nửa mùa thay gió đỏ tơi
Phong thấp em tìm đâu thuốc chữa
Vào tim dao khía bịa ra cười
Từ đó môi em đuôi ớt ngậm
Hai gò tịch mịch má hồng ngâm
Mua son đắt rẻ tùy phiên chợ
Phấn mốc nhồi quanh ngọc chuốt thầm
Cột đèn phố Zét hẹn duyên Tê
Lại cuối vườn Thờ ngóng dáng Bê
Ngày ve đêm vãn mười cơn gió
Mười cái ô trần nghiêng ngửa mê
Lĩnh tía hoa thâm kín sự đời
Thèm vui xao động phố phường ơi
Chiều em chưa nhắp bia bèo bọt
Ai đã nhờn đưa mắt thịt ôi
Lũ lượt ngày đi xám lạnh dần
Mùa nào đất lạ cũng thanh tân
Em run ngực lép tê chân bước
Đi quá đông già chẳng thấy xuân
Ấy đấy là em. ấy thế oan
Trở về quê quạnh lánh mây tàn
Đàn treo chéo mộng dây dơ dáng
Cố nảy tình tang mấy phím hoang
Thôi em xin tắt cơn cười nghẹn
Nỗi nhục ngồi cao hơn nỗi đau
Em cậy người thơ vườn ổi cũ
Gửi bùa mê lịm lúc say nhau.

Tìm

Ngày tôi mới biết em
Trông đã già trước tuổi
Những loài hoa nở đêm
Thường biết chờ biết đợi
Ngày tôi chợt biết tin
Em lấy chồng lần cuối
Lan hương đêm biết gọi
Những người tình xa nhau
Cứ tìm rồi sẽ tới
Mai sau… rồi mai sau…
Biết tìm em ở đâu
Trong chiều dâng vời vợi
Ai biết chờ biết đợi
Bằng nắng pha cạn màu
Em đi thì đến đâu
Gặp gió nào cũng hỏi
Chuyện ngày xưa mở đầu
Em lấy chồng lần cuối
Em đi thì nằm đâu
Phòng khuya nào le lói
Mở khuôn trăng hồng hào
Khép cánh màn xanh xao
Biết tìm em ở đâu
Lan hương đêm cứ gọi
Những người xa thương nhau.
Khi em đi xa
Khi em đi chưa mưa
Mới thấy mình vô lý
Sao dám gửi đăng thơ
Lên trang chiều ủy mị
Khi em đi mưa rơi
Lại thấy mình có lý
Vì phút giây bồi hồi
Biết nhìn sau giọt lụy
Khi em đi xa quê
Mới hiểu lòng ngõ vắng
Nghe bánh xe nặng nề
Nghiến phương mây thầm lặng
Khi em đi mịt mùng
Lại thấy mình bão táp
Đặt câu hỏi cuối cùng
Bao giờ em giải đáp
Em đi xa quá xa
Mới thấy trời mây hẹp
Có phải trong hồn ta
Em vẫn ngồi khép nép…
Có đi đâu mà xa

Ngẩn ngơ


1
Đêm phương Bắc khi sao hôm nhẹ khóc
Hương tím em về đậu giữa trang thơ
Thả cô đơn gió xanh lùa mái tóc
Dìu em đi từng bước ấm sương mờ
Ngày em ngủ bến mi anh nắng đọng
Chiều em đi không quá một vòng tay
Tối em về gió ru em vỗ sóng
Trên ngực tròn hương tím thức đêm say

2

Bỗng giã biệt. Em không buồn khóc nữa
Trời phương Nam hối hả trận mê cười
Đài hương tím bỗng uốn hình nở rộ
Những bông gì chao chát rụng lung lơi
Anh gió xanh tìm em đâu – Sợi tóc
Đã sang mùa… Biền biệt những chiều mưa
Trong náo động đô thành ta gạn lọc
Tiếng trong ngần suối Bắc gọi em xưa

3
Nhiều nửa đêm chợt bồng bềnh giọng hát
Thoảng đài hoa tím đậu mắt treo ghềnh
Ta bật dậy và lạ lùng kinh ngạc
Ô hoa vàng ! Quay úp mặt buồn tênh
Em thay tím vì phương Nam lửa đỏ
Chiều nơi đây không lặn cõi sương lam
Hay bởi hồn xanh vụng về tuổi nhỏ
Để sắc vàng choáng ngợp cả nhân gian

4
Em không nói. Chiều nay không bóng tím
Tiếng xe đời thét gọi mưa sa
Gió nguyên hình. Đêm mê gì ngất lịm
Trăng Tây Hồ sao tuyệt mù xa
Em không đến. Thế là anh đã ngủ
Ngậm hình em lá ngọt tím môi chì
Em xa quá. Anh càng xa nữa
Cười ngây qua phố ngợ ngàng đi.
Mưa chiều nắng chếch
Tình nuột bến son
Hẳn còn vướng tội
Tóc cước măng non
Bi bô bé con
Thay màu nóng lạnh
Thức ngủ hao mòn
Ngày xanh tuổi trắng
Tâm sáng mắt lòa
Nhìn kim đáy giếng
Ngón tay chạm hờ
Sợi cỏ đau điếng
Khát em đầy miệng
Bập bồng phun mưa
Quên đi nỗi mình
(nói vô lý vậy)
Còn duyên gặp tình
Hết duyên chống gậy
Nẻo về hư linh
Mưa chiều nắng chếch
Về phía không em
Tội tình đi chệch
Về phía trăng lên
Chân mây xô lệch
Những mùa không tên
Ánh đèn
Sương đêm
Nhiều chớp mắt vô tình
Sợi cỏ phương nào ơi
Đừng soãi tóc đứng nghiêng bờ cách trở
Làm gió vương mây gợn kín bưng trời
Mắt úa nắng đừng lẻ loi rạn vỡ
Về mắt anh thành chan chứa mưa rơi
Thương em từ hàng mi ngậm ngùi hé mở
Hồi chuông rung chiều khép lả ân tình
Thương em từ nếp áo băn khoăn đi về gõ cửa
Một căn phòng đầy tiếng lặng lời thinh
Đường anh đến tìm em tre rấp ngõ
Rừng cỏ may khâu chật áo se tơ
Vì duyên phận im lìm gài chặt cửa
Đành cỏ may giàn trấu cắn khắp thân hờ
Nẻo em lại tìm anh rừng lá dứa
Gai châm thương bằng mấy cỏ may yêu
Khi rớm máu tường vi
Làn da tê lệ ứa
Nhổ gai ngầm thẩm thấu giọt nâng niu
Anh đâu biết buồn vui nào chỉ dẫn
Tìm giọt sương lỡ hẹn mấy bình minh
Vạch tia chớp đêm mù đi lận đận
Xót xa em nhiều chớp mắt hóa vô tình.

Gọi đôi

Cùng Em ngửa mặt lên xanh
Lá thông kim tỏa đôi mình ươm gai
Tê tê ngực nở bồi hồi
Gió thơm tóc cuốn nắng cười Em chi
Dưới kia sông chẳng quay đi
Mười hai tuổi cũ biết gì Chị ơi
Một con bướm lửa đậu môi
Hai nhành hoa lửa chia đôi tay cầm
Ba tầng mây lửa trầm ngâm
Bốn con chim lửa đậu nhầm cỏ hoang
Trời quê Em vẫn thênh thang
Chiều mê bến lịm bàng hoàng chớp đông
Em cầm lấy cõi mưa nhung
Miên miên tơ óng xuôi vùng khe sâu
Em ngồi đâu chị đứng đâu
Bỗng dưng hai đứa hai đầu hư không
Em cầm được cõi mưa nhung
Mờ chênh gối Chị đôi dòng vu vơ
Em chìm chưa Chị nổi chưa
Bỗng dưng hai đứa hai bờ tháng năm
Đêm qua hỏi có trăng rằm
Đêm nay ai biết nơi nằm trăng thu
Em mê ru Chị mộng du
Đêm qua tàn lại thèm ngờ đêm mai
Áp môi bỏng cõi mưa dài
Khát thêm từng trận
Khát hoài tuổi xưa
Em về chưa ? Chị đến chưa ?
Bỗng dưng hai đứa khóc mờ đêm trăng
Chị đây có phải Em chăng
Em đâu có thật Em rằng Chị không
Xiết tay kết một vô cùng
Lơi tay lại vẫn đôi dòng lửng lơ
Song song có gặp bao giờ
Hai dòng lệ chảy, hai bờ sông trôi
Mưa nhung áp má bồi hồi
Nghe khô từng sợi mưa dài lặng im
Em không nổi, Chị không chìm
Chị tung gió tím Em tìm sang xuân
Nằm trong mắt bão tuyệt trần
Mưa nhung tung cánh trắng ngần…
Em bay…

Ngày giỗ

Nhớ em từ một đường khâu
Hai năm vai áo toạc đau xé lòng
Nhớ em từ miếng cơm không
Hai năm bát mẻ đũa còng chia nhau
Em ở đâu Tôi ở đâu
Hai năm cỏ bén rễ sâu trên mồ
Đi thăm bụi đất chiều mưa
Giun kêu thăm thẳm cứ ngờ tiếng em
Về đâu tiếng nói em hiền
Thảo thơm biền biệt điệu kèn hư vô
Tôi còn sống gửi ở nhờ
Cõi thơ có phút nào ngơ tội tình
Nghiệp oan từ thuở sơ sinh
Gọi nguồn dương chảy đến mình biển âm
Em đi một loáng trăm năm
Nơi đâu em ngủ tôi nằm lênh đênh
Đầu nghiêng gối nặng tay mình
Cùng nghiêng mắc áo dáng hình cheo leo
Về khuya mê bóng bóng theo
Nhìn chênh thế kỷ bóng vèo qua mi
Ngày giỗ hết Lê Hoàng Yến
Kỷ niệm
Đi tìm kỷ niệm bên nhau
Sao không gặp mắt ai đâu mà tìm
Phút nào tơ tưởng thành em
Nghìn năm nhớ dáng tô-tem dập dìu
Giạt về bến lặng thương yêu
Nợ nần chất đống củi rều trôi sông
Cái bèo nước chảy ngược dòng
Rủ rê cái bọt xoáy vòng khe sâu
Muốn tìm kỷ niệm bên nhau
Trơ trơ mặt giấy sạm mầu cô đơn
Mặt đường mưa lạnh rêu trơn
Mặt trăng héo úa chập chờn mặt sông
Mặt bùn vũng tối bập bồng
Mặt nào sấp ngửa ló trong sương mờ
Mặt ai chìm nổi em thơ
Soi gương tóc trắng bơ phờ mặt gương
Lá xanh đổ góc vườn hoang
Hỏi thăm chi mảnh lá vàng héo đau
Muốn tìm kỷ niệm bên nhau
Lên sao Mai gọi con hầu Hằng Nga.

Chùa Hương

1
Em trẩy chùa Hương phía giải oan
Mắt nghiêm màu Phật chật đò ngang
Phải cô công chúa con vua Lý
Khép áo kinh kỳ mấy cửa hang ?
Đã hẳn đi tìm mây ngũ sắc
Chập trùng đá động biếc thời gian
Gót chân hết lạnh đường tiên cảnh
Có lạc vào đâu buốt ngực tràn ?
Chuông sớm có nghiêng về mộng cũ
Nhường em vướng tóc sợi mây xa ?
Bàn tay chắp cánh chưa nguôi nhớ
Có buộc làn hương thoảng lướt qua ?
Em ngủ về đâu chùa Cửa Võng
Bến Trong bến Đục bến nào xa ?
Với ai em nói đêm mê ấy
Sao tiếng đau em động khói nhòa ?

2
Anh trẩy chùa Hương phía xót thương
Bến Trong bến Đục nửa chia đường
Thiên Trù chợt lắng chuông buông tím
Bỗng gặp em nằm đắp khói sương
Em hỏi sao anh cứ đến tìm ?
Thuyền nào đưa lối chật khoang tim ?
Nhưng anh nín lặng dìu em bước
Lên hết bầu xuân tiếng mõ chìm
Anh hái mơ chùa cả chín xanh
Chua bừng men nhớ đắng đôi cành
Nhân gian là thế sao thành mộng ?
Ngơ ngác chùa Trong em vắng anh
Anh giải oan em chẳng hết oan
Suối khuya cắt xé tiếng kêu than
Hỏi em xứ Phật nào yên tĩnh ?
Em gượng cười soi bóng đá vàng.
3
Nửa đêm mùng bảy lặn trăng non
Anh hẹn em về cõi sáng hơn
Cầm tay em lạnh đưa đi m•i
Mê mải rừng mai thấp thoáng hương
Ôm em đỉnh núi sao buông thấp
Hai ngực hòa tan một tiếng chuông
…………………………………………………
Tỉnh ra đắng chát tràn môi cháy
Em đâu rồi ?
– Vãn hội chùa Hương
Một phương
Bao năm và mấy phương
Cứ thương thầm nhớ vụng
Gió thốc bao dặm đường
Sao em còn chập chững
Theo mây chiều lững thững
Lũy tre gầy nhuốm sương.
Mấy phương và bao năm
Sợi tóc đã sa sầm
Nét gầy lây nét trắng
Đã mấy cười mấy đắng
Sao em còn đăm đăm
Trên trang tình phẳng lặng
Nói những gì biệt tăm
Vẽ bóng gì đi vắng
Trên bức tường không câm.
Tóc ly thân sao Hôm
Mắt cưới tròn sao Mai
Sao em không thở dài
Khi khăn vuông buông lạnh
Những đêm dài trĩu vai.
Nến khuya loang vũng máu
Vùi chuông giờ mười hai
Chỉ một phương trăng rằm
Biết em đang gọi thầm
Khi sao Mai rực sáng
Anh biết đường sang thăm
Chỉ một phương một lòng
Vỗ yên nguôi sóng gió
Miệng em cười lấp ló
Trong ửng hồng bên sông.
Chị em xanh
Vẫn cầm lá Chị
Chiều Diêu bông
Chị đi một chuyến chơi xanh cỏ
Quay bánh linh xa miết triệu vòng
Nhặt sợi-vô-cùng thêu áo gối
Mau về mừng cưới..
(nhớ Em không ?)
Đón Chị hồn chênh
Lệch bóng đêm
Chân không dìu dặt cánh tay mềm
Tóc buông đổ thác về vô tận
Bát ngát mùa
Đương độ tuổi Em
Vậy thì Em ngắt qu•ng tân hôn
Theo Chị lùa mưa đuổi nắng buồn
Hai đứa lung linh lơi yếm áo
Thuyền trăng dềnh
Sã cánh cô đơn
Chị vỡ pha lê. Bùn vấy tay
Hồn trong Em chuốc Chị chìm say
Là Em cưới Chị xanh thiêm thiếp
Sinh một đàn con
Mây trắng bay.

Xanh xưa

Thương em sóng cuốn mà quên
Dọc đê toàn ớt chỉ thiên tía hồng
Đôi ba năm khép một vòng
Vòng cay xé lưỡi mắt ròng tuổi mưa
Chợt nghe sông cạn bao giờ
Đắng cay đứng sững mấy bờ nhân duyên
Đáy bùn quẫy mạnh ngó sen
Hỡi ơi ! sông Sở sông Tiền đó chăng
Sương mù dóng chắc giá băng
Vùi trong trắng xóa vĩnh hằng thơ ngây
Để em đau nỗi riêng này
Chỉ thiên cứ mọc ngón tay nguyện thề
*
Thôi em ! Cỏ mịn chân đê
Anh đưa em nhẹ gót về xanh xưa
Chỉ tay xuống đất làm mưa
Mát chân em khỏa lững lờ nguồn xuân
Tan rồi hạt bụi ái ân
Vướng mi em một đôi lần… phải không ?

Đêm 25-8-1990

 

Về Kinh Bắc

(1959 – 1960)
Nhịp một
Khấn nguyện

*
Bưởi Nga My sao mẹ bắt đèo bòng
Đêm Thổ

Cúi lạy Mẹ con trở về Kinh Bắc
Chiều xưa giẻ quạt voi lồng
Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc
Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông
Đê mười tám khúc Văn Giang
Chuông Bách Môn đổ xô gò má
Mây thành thổi lửa
Nẻo Đông Triều khép mở gió kỳ lân
Chớp rạch dáng tiên vén xiêm xõa ngủ
Thoắt chìm
Gấu đẩy đá Thiên Thai
Đi đâu
Tràng mày xếch vòng cung
Bắn nát chiều mai ráng đỏ
Châu chấu ma vờn cổ yếm xây
Không gặp người quen
Hờ
Ngõ cũ
Đêm xuống
Làm lầu hoang
Trò chuyện gì ai đâu
Mồ tháng giêng mưa sũng
Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu
Bưởi Nga My sao mẹ bắt đèo bòng
Đêm Kim
Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc
Con không cười
Con thoảng nhớ thoảng quên
Hình nhân má điệp tóc mực tàu
Mắt nghiêng dựa liếp
Mai nhảy vào đám lửa giỗ đầu
Gấm Song Cầu khoác lại áo ngày xưa
Da trứng bóc
Phủ bụi tàn nhang
Phía đông kéo cưa xẻ gỗ
Phía tây chầy nện ván thiên
Ông phó may già mười đêm chẳng ngủ
Rũ xô gai biển động tìm kim
Kèn già lam ai tập thổi
Gió mất chồi xuân đay nghiến lũy tre dầy
Năm ba gã trai tập bài lưu thủy
Một trẻ sơ sinh đuổi giọng mèo hoang
Qua miếu mưa phùn
Giặc bên sông đã cắm cờ hạ trại
Mẹ đón con rung gậy mía Đường Trèo
Đêm Mộc
Về Kinh Bắc phải đâu con hé miệng
Khế chua vôi bột lòng tay
Tràng pháo ròng thân cau mới bói
Tênh tênh chở đá Ba Vì
Tiếc gì nhau nữa
Lứa ong bầu châm lửa gót chân
Cói Thanh ép mỏng
Bao giờ lim gãy đá tan
Ngủ lại giấc mơ dang dở
Chũm cau căng nứt mạch tằm
Yếm may ba ngày mẹ vá lại
Khuya nghe buồng động bóng đêm rằm
Súng lệnh gươm đao rậm rịch
Thua
Lá màn lay
Muỗi ngủ mê
Đêm Thủy
Về Kinh Bắc phải đâu con nhắm mắt
Gài mảnh gương giàn thiên lý đợi tua rua
Chùa Phật Tích ruỗi trong màn lụa bạch
Tượng Quan Âm má ửng bồ quân
Chuông chiều cởi yếm
Chuông sớm đội khăn
Câu kinh tê tê mười ngón tay măng
Mõ đêm hè cuốc lội
Ao mưa dằng rịt lá trường sinh
Gió vào trăm cửa
Gió ra hồng da trinh nữ
Gió vào xanh quan lục
Gió ra vàng thớ mít
Ong bay vai áo tiểu thon mình
Thập điện Diêm vương mở hội
Trong mắt trẻ lên năm
Trưa hè gãy rắc cành hoa đại
Mái hậu cung bồ các tha rơm
Liếu điếu vỗ hoa xoan lả tả
Lụa sồng nén nghẹn búp thanh xuân
Tờ kinh đắp mặt ru bươm bướm
Chuối chín cây đổ gục đứt dây bìm
Đêm Hỏa
Về Kinh Bắc tìm chơi đàn kiến lửa
Ngón tay di sợi chỉ nâu
Mây nồi rang úp chụp đỉnh đầu
Giun đất lòng thòng mỏ con gà trụi
Võng mắc cành hồng chạc ổi
Kiều khàn
Dứt giọng nho sinh
… “buông mành…
… Con oanh học nói…”
Vợ xách giỏ cua đồng nghén nước
Hoa thui ngọn bí lông tơ
Đại hạn tháng ba
Lá lúa rang châu chấu
Mải dỗ con
Mắt cua nghênh giã cảnh giã người
Càng hy vọng tủa lên trời đợi bão
Chiều cơm suông
Năm ngón tay lằn mông trẻ nhỏ
Trăng lên chém đầu ngọn gió
Cành si bưng chậu máu chát chao
Cuối năm rì rầm tiếng khóc
Chàng ôi ngựa tía võng đào
Chợt mê thét giữa sân
Nét mác chữ thiên toạc lưng trâu mộng
Máu đổ
Mây đùn
Gió lộng
Sớm mai đi
Nhịp hai
Kiếp trước
*
Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử
Nắng phù sa
Người thơ kể
Ướm vết chân bãi phù sa sông Đuống
Dựng tre làng Cháy
Sạt năm tầng mây lửa rực Phong Châu
Chuột thành than
Đen xạm dọc sông Hồng
Kẻ cướp run dưới Rạng-đông-thần-thoại
Người thơ kể
Thiên vương chẳng nói
Lúc gật đầu
Vó ngựa đào ao hồ
Liên tiếp mãi Đông Anh
Thiên vương chẳng nói
Lúc nghiêng tai
Cò chở nắng tề phi điệp điệp đằng ngà
Hoa gạo các triền sông
Giải lối Sóc Sơn bay
Người thơ kể
Thiên vương chẳng nói
Chân Mẹ còn đê mê cát mịn
Hội Gióng dong chiêng
Bé em về nằm khoanh lòng mẹ
Nghe nghìn muôn năm sau
Xoa nắn đôi bầu vú lửa
Sông dài
Cát bỏng
Nắng hồng hoang
Gió lông ngỗng
Lông ngỗng trải bờ lau
Sông Cầu xuôi bến Hát
Rập rềnh Mộ Dạ chiếu tân hôn
Chuỗi ngọc trai ai gửi lễ mừng
Vỏ ốc đổ bờ ao sờ sẫm tối
Bè lông ngỗng ngược sông Hồng mưa lũ
Cổ Loa cú rúc chòi canh
Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử
L…i…m…m
Ứ… !
L…i…m…m
Ứ… !
Mất rồi
Mười bảy mười ba
An Dương Vương ôi
Bọt bể bồ hòn
Sương Cầu Lim
Chấp chới lá chè non
Cầu Lim Nội Duệ
The Hà Đông đón kiệu
Bỏ quê Xim
Ếch Quế Dương xếp đùi tròn gõ trống
Sáo sậu Phù Ninh
Rợp nắng
Về Thăng Long
Đá nghển trông con
Gục đầu sườn núi Dạm
Lụa vàng xé lộc rắc tro tiền
Đè ngang khói bếp
Bặt mùi khoai nướng
Đầu rau nằm sấp toạc môi
Trống Chờ thúc chín tiếng
Chuông Trõ nện ba hồi
Mõ Phù Lưu khua bến đò Lo
Thấy phẩm Huệ xênh xang năm sắc áo
Biết lòng chim sáo chim ri
Gái Cầu Lim Nội Duệ đã đi
Khói Yên Thế
Ngựa Ô-truy lao cầu vồng Yên Thế
Râu cắm rừng quanh ánh mắt sao bay
Ngựa Ô-truy phi một đêm đến cửa Bồ Đề
Bờm nhả khói
Đuôi dựng mây
Hí lửa dài
Vó chồm nghiêng soái phủ
Nhe răng cười
Trai Cầu Vồng Yên Thế đã đi
Nhịp ba
Rũ bụi gia phả


Bình pha lê nghiêng rượu
liệm đêm tàn
Đèn nhang 1:

 

Ông già thả gậy
Bắc cầu phao vượt bến
Bạc đầu lên núi thổi cơm chiều
Tay rẽ lá giở trang vàng diễm sử
Áo Hai Bà dăng mắc
Rừng liên miên chi chít mộ Hùng Vương
Gia phả rũ bụi bay mịn chuốt Dó Vân
Cụ tổ mười lăm đời
Cùng ngửa mặt với Trần Bình Trọng
nhận gươm phương bắc chém
Cụ tổ mười đời
Lăn đá Chi Lăng
Chẹn ngõ Đông Quan cứu viện
Gõ ba hồi trống
Tuyên giờ tuyệt mệnh Liễu Thăng
Cụ tổ chín đời
Mở trang Bình Ngô Đại Cáo
Nơi thôn xa ba chén chúc mừng
Chợt thấy mấy hài nhi khăn trắng
Xẵng canh gà thét đuổi đêm đông
Ông tổ năm đời
Cáo quan dưỡng bệnh
Tóc trắng bồng bênh trước án
Câu thơ chểnh mảng gối đầu tay
Tia hoàng hôn xuyên kẽ liếp
Dở khóc dở cười
Đứa cháu đích tôn vừa qua cơn sốt cuối răng
Ngựa cố tri buộc ngoài ngõ trúc
Hũ rượu hoàng hoa
Hịch bốn trấn
Xé trang Luận Ngữ
Lau gươm
Lên đường
Đời cha tiến sĩ năm Nhâm Thân
Kéo quân về cửa khuyết
Hỏi tội nghịch thần
Mắt Chúa đảo thiên
Kéo áo che ngai
Né mũi kiếm vô hình xốc tới
Phanh hầm nhét vội một vầng dương
Cắn nhọn móng tay
Thơ cùm lim khắc máu
Chợt nghe tin giặc dữ
Lấp sông san núi ùa sang
Vùng chặt xích bẻ gông
Phá cửa
Cướp ngựa Hình Tham tri
Phóng lên ải bắc
Dù nghẹn ngào thuốc độc tam ban
Đã ngấm tủy xương từ chén rượu đêm qua

Đèn nhang 2:

Dó lụa lật trang
Sang chữ triện quan tài
Bóng người cô ruột
mMây uốn hàng cau cúi ngó vành môi
Sông trôi xa còn ngoái về
Xem gót chân uyển chuyển
Bao nhiêu núi đồi Kinh Bắc
Dịch sườn thông sang xúm xít
Quanh hàng mi
Nắng đọng hồ trong
Một sớm đi làm vương hậu
Cười rũ cỏ hoa
Rè tiếng trống chấp đòn khênh
Xà tích dấu đưa em
Nâng lụa ngang mày câm tiếng khóc
Nhìn mây về ngọn cau
Mái rạ thiu thiu
Đi
Bứt lá xanh giữ cỗi cành gầy
Níu cuộng lá vàng qua trận b•o
Phân kim hạ kiệu
Khói ly đoài thoai thoải khúc hành vân
Mấy chục nguyên tiêu
Thời trân thưa thớt
Cơn trái nắng kén gì
Đúng lúc quả đào rơi
Vua băng hà
Đời hậu tắt sao băng
Sợi tóc trắng quấn vòng Khiêm lăng
Chẳng dứt
Rêu lầy vầng trán thuở nào xưa cấy lúa
Nghểnh xem diều tầng xanh đảo cánh
Đêm ngủ gối đầu cẩm thạch
Hồn ma đế bá cũng lang thang
Đói khát tình thương
Đá Quảng Nam quen lệ nghìn năm lấp sống
Đêm doang tay
Mời vương hậu
Ngủ chung giường
Chợt nghe tin giặc dữ tràn sang
Bàn tay quấn tóc khô
Che mặt
Về quê
Chết bên cây ngâu nhòm bể nước mưa đầy
Ngựa 1:


Trấn Kinh Bắc vua nuôi đàn lính ngựa
Trăm trận đông đoài chập vút bì tiên
Cắt thịt chia da
Nhai cỏ úa lối mòn đường quê chát đắng
Cô gái nhà ai đến đây cắt cỏ
Ngửi hơi chồng quanh quất cửa đông nam
Dù gục khóc dưới chân thành
Đã mất giải khăn đào hứng lệ
Người đổi kiếp ra mô đất xám
Đắp thêm cho vững mái lầu hoa
Chiều nổi cung đàn phỉ thúy
Thong dong
Trận mạc võng lưng Phiêu-kỵ-tướng-quân
Phóng giữa Trường Sơn lớp lớp
San bằng đồi núi lô nhô
Vó sắt lún ba năm cỏ bồng chẳng mọc
Tiếng hí dài
Ba lần triều đại đổi ngôi
Khoét thủng sáu lần nhung phục
Đập rập tám lọng vàng đô đốc
Cha truyền con nối
Đã xơ lơ
Bên cầu lếch thếch trẻ mồ côi
Nhớ sữa mẹ gặp con ngựa út
Bờm lông còn ướt
Đã vểnh tai nghe động trống doanh lâu
Nếp nếp áo chầu
Ngã rạp
Chiến thư
Dùng dắng
Tử sinh
Ai gặp lúc tuổi măng háu đá
Óc ngu phu giám mã
Chạm yên
Đau rức xương hông
Quằm gót
Thốc ngang sườn quật thây tổng quản
Hỏng rồi
Chiến trường không dụng
Đeo thẻ bài nhà Chúa
Ngẩn ngơ gặm cỏ
Quanh quanh cửa bắc cửa đông
Nhìn tít mù xa khanh tướng
Cờ bay bụi lốc
Nghe tin về lái ngựa quận công
Xiêm quận chúa tung rung kỳ ngộ
Tiếng hí khải hoàn chìm lịm
Bình pha lê nghiêng rượu liệm đêm tàn
Xương vụn kéo lên gò đống
Cháu bốn đời vỗ mả áp tai
Nghe tràng đạc rộn hoang vu
Còn thoảng khét mồ hôi
Ngày huyết chiến năm Thân
Những Việp-Quận-công Bằng-lĩnh-hầu
Đổ xuống bủng beo da thị rụng

Ngựa 2

Có một thời
Tin lửa đến giục thôn vàng ngái ngủ
Giặc tràn sang cỏ rạp ải quan rồi
Đàn lính ngựa vua nuôi
Bỗng lừ đôi mắt mỏi
Phi dài vệt khói
Cánh dăng dăng quan lộ
Áo nẹp vàng lên chín ngọn Hùng Sơn
Đường nắng bay từng đám hoả hoàng
San sát rừng gươm
Gia Bình Bạch Hạc
Tràn lên thốc ngược cờ đốc đồng Kinh Bắc
Trước mặt cào cào rộn cánh
Tốc xiêm y trăm sắc cung tần
Trên lưng nắng hạn xém yên cương
Dưới bụng dầm dề cỏ rướn mình
Uống nước mưa thổ hoàng bách chiến
Giặc cuồng vắt chân tháo chạy
Đầu lâu lăn lóc vó
Vụn xương hàm cắm mốc biên thùy
Tít tắp
Từ Tiên Yên Hà Cối
Đến Hà Giang dựng Cổng Giời xanh
Cũng từ thuở ấy
Cô gái quê thả tấm khăn điều
Bay nối đường tre liền ngọn thác
Bạc phau đổ xuống tự vòm mây
Mắt ướt môi se không nức nở
Răng đen rưng rức
Nghiến oán thù tím ngắt
Nắng Phong Châu
Cũng từ thuở ấy
Lính – ngựa vua nuôi gọi lính – người
Hội vật
Trống lớn Giảng Võ đường
Đội bổng vòm trời cao vót
Gió thượng du dội lại
Mưa trung du thốc sang
Bão hạ du dồn vang
Ba hồi chiêng lảo đảo các toà lầu
Cong mái đỏ quanh thành
Kỳ xí đêm qua ủ gió
Sớm nay thả hết về nam
Săn đàn mây bò mộng ngổn ngang
Loa khua nắng thét mời đô lực sĩ
Hiệp trấn rón hia lên đài khảo sát
Tuốt gươm trần trăm vệ sĩ
Hai hàng tăm tắp võ hoàng môn
Lệ ba năm nức lòng dòng võ tướng
Vua kén người giỏi tiên phong
Vật núi núi lăn
Ngáng sông sông gãy
Gái thường dân Kinh Bắc
Tìm ai đây giỏi phận làm chồng
Hai tay căng sợi chỉ
Quỳ ba đêm không mảy động đường tơ
Các ngả đường bụi đùn lốc nổi
Thác người đổ qua cửa ngọ
Cờ xua hết mây đi
Toà biếc lắng xem
Trống vẫn thúc
Sạt sườn Tam Đảo đổ nghiêng
Loa vẫn rải
Núi đồi trùng trùng đi bốn hướng
Chiêng lê thê sông Nhị
Dăng dài bãi mía bờ khoai đi
Một khắc cờ im gió đợi
Trai đô ùn đọng ngã tư thành
Ai từng buôn ngược bán xuôi
Chiều hoang rừng xế gặp hùm
Liều thân cứu mạng
Tránh hổ vồ học được miếng lèo đuôi
Ai xuống bể mò ngọc trai
Tặng người yêu dấu
Né đuôi cá mập
Bỗng nên tài dụng phép thúc sườn
Ai lên núi chặt ngà voi tiến cống
Giỏi khoa vặn chệch hàm răng
Lại kìa ai thuở bé thích trèo cây
Giỏi môn vặn cổ
Ai vượt thác tìm vợ xưa tu chùa Yên Tử
Tài ngậm hơi phồng bọng ễnh ương
Ai vào núi ba ngày ăn một hạt vừng khô
Chân nhái bén ngáng khoeo mất cựa
Lại kìa ai quen trộm gà bà thím
Miếng nấn đùi trùng tuột các đường gân
Lại có ai từng quen tranh nhan đoạt sắc
Tài dùng phép “Chiết yêu điểm huyệt”
Cò bợ tháng tư mổ rút ruột voi già
Loa càng dóng dả
Võ nghệ mười phương
Hồi hộp bắc đồng cân
Đây Tổng Dong Võ Giàng vào trước nhất
Nhiễu xanh vắt hông
Cử vạc ba trăm cân
Nước đầy
Không sóng sánh
Rồi Bá Ngạc Tiên Du
Tư Đang Yên Dũng
Bóp tay vỡ toác đốt tre ngà
Nghiêng mình thi lễ
Mắt trầm tư ngó vội khảo đài
Mấy giải hồng y phơ phất phấn vua bay
Kia Bảy Kình khét tiếng Yên Phong
Gạt dóng tre ngà
Cầm tấm mía nhai ròn
Thổi bã ngất trời bụi trắng
Đến Ba Ngư Siêu Loại
Trề môi khinh vạc lớn
Đứng tấn đại bàng
Lay voi đá cửa dinh
Nhấc bổng
Diễu hai vòng bãi rộng
Phong ba động biển reo hò
Gái nhà quan bố nuông
Cho giữ dịp
Bỗng để rơi dùi trống
Nín hơi nghe rần rật
Bão liên hồi
Trong búp lá măng tơ
Hồi cồng buông trấn lệnh
Từng đôi vào
Sư tử vờn quanh
Lên điệu “Bạch hầu đoạt trái”
Sang điệu “Hồng hạc tề phi”
Gái Tam Sơn đờ đẫn môi trầu
Ngực yếm phập phồng bưởi ngọt
Nhiều nho sĩ bút gài tai nghển ngó
Lòng run nghiêng thời vận Trình Chu
Thùng thùng trống chuyển nhịp tơi bời
Nhiễu đỏ bên trái lên
Nhiễu xanh bên phải xuống
Nhoè bụi cuốn
Cột đồng dựng
Núi đá mọc
Ngón chân cày đất ba gang
Vạt cỏ đuôi gà bật rễ
Đất võ đài nhô lên lõm xuống
Chòng chành vạn chiếc mắt thuyền
Cờ xoay hướng chỉ lên tây bắc
Vảy tê tê gạt gió
Xô về xem cuộc giao phong
Đã vào trận léo tay tư
Chùm trống rụng rã rời từng quả mõm
Ối thôi
Bá Ngạc cắn môi vít gót
Bảy Kình nhắm mắt xuống bò
Ba Ngư bạnh quai hàm chơi miếng hiểm
Tổng Dong nghiến răng ken két
Giật ngang mạng mỡ
Tử sinh là lúc này đây
Phẩm tước tay vua khua lủng lẳng
Cồng chiêng thoi thóp
Dựng giăng chưa dứt miếng kỳ phùng
Đốt hồng lạp hai hàng cột cháy
Ánh lửa loáng lưng gò cật thắt
Mồ hôi người máu nến
Rụng song song
Rạng đông
Người toàn thắng bước ra
Ức vạn người xem khiếp sợ
Cuộc tàn tản mác cát lòng sông
Đô nhất là ai
Quê vùng đâu đó
Vươn tay chạm giời
Tóc hất sao mai
Quỳ xuống
Vọng về cửa khuyết
Lạy hai lạy
Lưng vàng rạp cỏ
Nàng chấm thi khép mắt ngoảnh đi
Kén được một người
Nụ cười chếch đôi mắt lạ
Vồn vã đến
Thong dong thua
Rồi lửng lơ đi
Vua kén đủ mười hai đô uý
Triệu về kinh ban yến năm đêm
Giọt rượu hồng hoen bố tử
Nâng ngự tửu xuống án rải thây trăm họ
Một lời khảng khái tung hô
Mai sớm kéo quân đi
Nghìn dặm lấn thành xa
Khúc quân thiều còn múa lượn
Vành tai sương cóng
Chiều tím bặt sa trường màu giun chết
Thân mười thước đổ ngang rụng ngửa
Phơi mồi quạ xúm đen ngòm
Bắp thịt đường gân ngày thí võ hôm xưa
Thoắt đã bầy nhầy phân ngựa
Đêm vàng Kinh Bắc
Thuyền ngự đè sen chồm sóng rượu
Phi tần dâng hoa ngoài Thuỷ tinh cung
Lính thú
Lá cơm nếp dâng hương ngày giỗ mẹ
Mười lần khấn gửi nước về xuôi
Lính thú đèo Mây
Vươn tay chém nứa
Xọc ngang sườn
Gục bên khe Vân tuyền nước đọng
Rừng khô thoảng động gót chân người
Quẩy gạo thăm chồng đồn thú đèo Mây
Cô hàng xóm cũ ở riêng
Lạt cánh sen buộc nem lá chuối
cũng gửi quà xưa hội tháng giêng
Góc tuần trăng chưa vợi mặt sông
Đòn gánh đã theo củi giạt
Thúng Nha Kiều nghe nghé mắt xuôi
Cụm tóc lá sung lạt mở
Bến về nghe sợi đập làng xanh
Thôn cũ
Đầu sân guốc chiếc nằm nghiêng
Cung quăng đo thân cau
Vại nước lưng chừng
Đuôi nắng quệt ngang cành ớt
Lưng trâu mười tuổi ngủ đồng xa
Nhịp bốn
Rồi cùng đi tất cả
Những cuộc dọn nhà
Tuần du trang sử rách
Trai đời Trần
Các con trai đi cả
Nợ nước xóa ơn vua
Một đứa cắn đứt dây buồm
Thuyền giặc đang xô bờ Hàm Tử
Một đứa theo lốt chân hươu chạy
xục bóng thù g•y nát rừng Tuyên
Một đứa cưỡi cá voi quá đảo Cô Tô
Lùng mạch sóng đoạt lương
Nghìn hộc thóc
Một đứa ngâm thơ đàn gảy Vũ Hầu
Hổ báo cúp đuôi lè lưỡi máu
Lê thê từng vệt đến Yên Kinh
Riêng một đứa gánh đôi bồ xiêm áo
Tìm ẩn nẻo Chí Linh
Gặp mũi tên lạc gió
Chết trong xó núi
Vợ không kịp chôn chồng
Lại lõng thõng đôi bồ chạy giạt
Còn đứa cuối cùng mười bốn tuổi
Gói rau xam rau má
Ruộng nhà chấm muối
Côn Võ Tòng thẳng tới miệng beo gầm
Gái Hậu Lê
Dây lạc tiên vắt qua tường đổ
Đuôi cằn nắng xế ngựa lưu ly
Sợi tóc ba nghìn dặm
Ôi giải xiêm đào ngày tuyển lựa hoàng phi
Một nắm cơm khô rạn túi gương tàu
dùng dắng bẻ đôi chiều nắng quái
Sét đánh phía kinh kỳ
Biến mất Vọng Tiên lâu
Qua núi Tam Tầng nghe tiếng hát
Cô gái điên
Ôm xác chồng
Lội đồng chiêm
Đàn quạ khoang mang vệt bóng trăng thừa
Ném xuống cầu em cởi áo chiều xưa
Hoàng phi bện dây đay chằng lụa thủng
Từng đêm vuốt bụng
Nổi vết bào thai
Khóc âm y trước lúc ra đời
Đứa trẻ
Mẹ đắp vai con mảnh chăn rách
Bụi dứa dại đầu bờ rẽ lối
Thôi con về ở với cha
Con về
Giấu giếm những bàn tay
Nâng vú
So đũa
Lau mắt
Phơi dây áo thềm sân
Bố chặt cây sung cây khế
Cắm mía mía không lên
Nắng bừng lùm ớt chỉ thiên
Ai trồng mà mọc
Đến một ngày nhà đông khách
Khen con ngoan
(… con ngoan !)
Kiến mở cờ trên mẹt đường phên
Gấc đỏ mặt ngoài vườn
Gặt non nếp dự
Con trẻ tung tăng nhà đám
Nấp chân cây rơm
Dùi xe điếu
Trợn mắt
Thổi căng tròn bong bóng lợn
Cười nô ngoài ngõ
Nhận chị nhận em
Nhận thêm chú bác ông bà
Những người đâu ta
(…đâu xa…)
Thoáng đã chiều hôm thảng thốt
Lạnh so

Em gánh gạo về dinh phú hộ
Nứt vai thành sẹo lá lan đao
Em chở nứa sang bờ duyên phận
Tay đóng bè chân xuôi thác ghềnh
Tuổi đã rách vá gì cho kịp
Da mỡ đông tuốt sẹo ngang thân
Tung toé dội gầu trăng nước giếng
Mát lùa kẽ tóc
Còn bủn rủn sẹo ngang sẹo dọc
Vắt áo nghe thầm tiếng vải kêu
Dòng dây vục m•i đêm hồ tinh
Ấp vú mình trần con dế trũi
Cành tre trải áo nép thân hình
Phấn mùa trăng thoa mờ sẹo tuổi
Ai rình Em
Ai ngó Em
Chợt rùng mình níu đêm trần trụi
Gai đâm xiên mười ngón ân tình
Đếm sao

Mài cạnh mảnh gương mới vỡ
Đến bao giờ tròn
Đừng cứa tay mình câu hát ơi
Một tiếng buông khoan giữa nhịp
Vì chơi với điệu lúc tàn trăng
Ai ngờ để lòng Em muối đổ
Đông đoài đuổi mãi sao Hôm
Một thoáng gật đầu
Giữa trời gãy cánh
Nửa mắt nhìn chênh
Giếng cạn mùa mưa
Một ông sao sáng
Hai ông sáng sao
………………………
Đếm chưa xong
Em chớ
Gật đầu
Câu hát theo người leo ngọn thác
Đếm nắng
Sơn ca chắt nắng
Chuỗi trân châu trút xuống mâm vàng
Tiếng gì dưới ấy
có phải tiếng vang
Tìm tiếng vang mình
Chui vào cửa hẹp
Cửa khép
Trách gì ai sáo trúc gây mê
Trách gì ai cặm cụi vót tre
Đan lồng vàng tía
Ngỡ trời mây trăm sắc ước ao
Chị bỏ Em đi
Cánh nhẹ trên sông
Chiếc lá mơ rừng
Hát lừng ngọn gió
Khóc đỏ chiều quê
Nhớ về mắt Em
Ới thương là thương
Động gót mưa xuân
Cưới mặt trời hè
Ới thương là thương
Gà con nhớ mẹ
Cỏ vàng rung chân
Ới thương là thương
Đếm giờ


May cho Em tấm áo sồi non
Làng không mở hội
Cất cho Em hương quế nước trầm
Thẫm đường má răn
Chim vàng phải tên dưới bụng
Giận mình bay quá cao
Bướm ngũ sắc rã rời tay trẻ xé
Trách mình quá lộng nắng tàn xuân
Trốn tiếng Chị cười
Nấp mắt Em trông
Trèo ngọn núi Neo đá chởm tai mèo
Mát chân rời rợi
Đừng ví thân Em hạt gạo tám xoan
Đừng vẽ hình Em hoa đào hoa lý
Đừng hát tình Em sóng vỗ mưa về
Đừng tạc mặt Em lệch mái thùy cung
Đợi sau khi Em qua đời
Sẻ đồng thành phượng núi
Cây đa đường xứ
Lớn lên ai hay
Vẫn cơn gió cũ
Bao nhiêu chiều vụn đá
Mắt nắng thay mùa mở lộc non
Theo đuổi


Em ơi thử đếm mấy giêng hai
Đêm hội Lim về
Đê quai rảo bước
Đuổi tà lụa nhạt
Ánh giăng đầm thấm đường sương
Ấy bởi thương Em
Vườn khô bỏ ngỏ
Gió vào ra bưởi trụi hồng thui
Ấy bởi thương Em
Mái nhà um cỏ
Chim vào ra vách đứng cột ngồi
Em về đồng chiêm đất rạn chân chim
Em đi mưa ngâu nước ngập đồi chè
Hồ nghe đêm hội ới a
Lại xót mắt Em mi trường khép bóng
Lòng tay êm mát rừng tơ xa
Lại xót tay Em đêm trường ru võng
Rừng chân mây chưa động sấm quê nhà
Chân Em dài đi không biết mỏi
Má hồng Em lại nổi
Đồng mùa nước lụt mông mênh
Lưng thon thon cắm sào Em đợi
Đào giếng sâu rồi
Đừng lấp vội ngày xanh
Lý lý ơi khát khô cháy giọng
Tình tình ơi chớ động mành thưa
Chìa vôi quệt gió hững hờ
Bờ ao sáo tắm bao giờ…
…hở Em
Nhịp sáu
Điểm trang


Những Hội hè Kinh Bắc
Những hội hè Kinh Bắc
Có thi nhau giật giải pháo toàn hồng
Thi sợi bún
Thi sợi bún
Khi quất
Quấn năm vòng cột đình
Không đứt
Giã bột mười đêm
Pháo nổ không nâng hai hàng mi mọng
Mai về vỡ vại long chầy
Đứt quãng hoa niên
Mai về lại dựng giường dựng chiếu
Lúc dựng giăng
Tóc quấn cột nhà
Con trăn đen thoi thóp
Ơi đêm Đông Hồ
Nát nhầu thân tố nữ
Sợi bún ngà vá lại dung nhan
Thi ăn mía thổi cơm
Thi ăn mía thổi cơm
Bụng đâu chứa hết những bãi sông xanh ngắt
Lửa đâu xém cánh tay bột nặn
Cháy phù sa ngọt sắc Yên Viên
Cơm vừa chín tới
Má xuân hồng
Lồng khói tím
Lịm sang thu
Bãi mía sông Cầu reo đáy bát
Ngửa mặt hứng mưa đồi cỏ ngát
Nguôi dần cơn sốt bỏng môi hoa
Thi đánh đu
Luồn tay ôm say
Giấc bay lay đỉnh núi
Tuột hàng khuy lơi yếm tóc buông mành
Đùi chảy búp dài thon nhún vội
Bàng hoàng tia chớp liệng nghiêng xanh
Thi hát đúm
Chiếc pháo xì loay hoay
Thềm gạch vỡ Bát Tràng
Chuỗi pháo đùng thèm bay
Bùng giấy đỏ liều thân
Lụa xé đôi tay
Bến nhức gan tằm
Người bỏ chồng vào thi hát đúm
Chệnh choạng lối mưa
Nón quai thao úp bụng
Người chồng bỏ cũng thi hát đúm
Gót chân bùn ngõ tối
Tuổi lội
Tầy đường mới sống trâu
Trăng khuya các bờ sông
Chụm sao mai soi hai mái đầu
Thi dệt vải
Lòng Em phau phau
Tìm đâu mấu sợi
Một tấm trường giang
Đèn rọi võ vàng
Thoi chim khách đếm năm đi vút
Vải gột hồ hai má gột môi hoang
Thi thêu gấm
Từ thuở bé biết đâu
Chim uyên chim thúy
Kim se dây mà rẽ thúy chia uyên
Một mái rạ vàng ấm Châu Long Dương Lễ
Ngơ ngẩn đường khâu áo lạnh Lưu Bình
Ai luồn kim giải áo dở dang mơ
Chàng Lưu ứa nước mắt
Bước ra thềm hong mưa
Hội chen Nga Hoàng
Chen Nga Hoàng
Len chèn nguyệt tận
Phụt nửa đêm đèn nến lặn
Ba hồi trống giãi dầm dề
Lim dim bao dong ba nghìn mắt Phật
Tóc tung tình bờ xôi ruộng mật
Quanh co toả bốn hướng đình
Từng ngôi sao mắt người lung linh
Ai gọi… im lìm
Í ới… sao chìm
Đôi đôi ú tim… tìm
Oà ập… cánh chim… e ấp
Hỗn mang mê vô cùng
Địa đàng say tới tấp
Không giờ không
Thăm thẳm nguyện cầu hơi em nồng
Nhẩn nha thôi
Ôi dùi nhẹ buông tênh… tang vờ câm
Ai nện xin thương ngầm
Gõ hờ đôi ba tiếng cuối buồn vang âm
Vì tay ải tay ai
Chưa nguôi tê mê thầm
Chợt bừng nghìn cây nến đỏ
Như sững sờ nghìn tội
Biết lội về đâu
Cho qua cơn thịnh nộ sầu
Cụ Tiên chỉ già tuổi tình cạn kiệt
Tóc héo bưng đầu
Lùi lũi tiếc thời xa
Khua gậy cùn rập mấy thời sau
Tơ xanh ngây ngây đêm sông Cầu
Em anh giờ lẩn trốn bụi bờ đâu
Thì trói cả đôi
Xin trói cả đời
Cột lim ư gãy rồi
Giường nhung ừ sóng đôi
Sân đình
Lại Thị Mầu í a tung tình
Rung rinh
Chờ
Hội Gióng
Mùng Tám tháng Tư
Không về hội Gióng
cũng hư mất đời
(Ca dao)
Trăm đôi gái trai anh tú
Ngựa lồng bãi rộng
Gươm thần phun lửa đốt môi
Chú bé lên ba là tướng võ nhà Giời
Ai ngờ đã bốn nghìn năm manh mối
Xuân đến lụa the
Cầm gậy tre đi se duyên cô Tấm ông Hoàng
Vớt Trương Chi về gấm đỏ lầu Tây
Hội Long Khám
Hội Long Khám đêm sao chi chít
Bồ đề mở lá thả ni cô
Thiện nam vin khói đi quanh chùa
Mơ Từ Thức
Gặp ngay quan huyện khác
Mẫu đơn một nhành rơi
Ngọc lan mười búp chắp
Nến tắt sao không tắt
Giải Ngân hà giải chiếu nâng hoa
Hội vãn rồi quan huyện về nhà
Quan-huyện-khác lại làm Từ Thức
Ni cô ơi
Hội Vân Hà
Lợn ba trăm cân
Kềnh xuân lún ngõ
Khói bếp lun phun mưa
Mép chàng trai lún phún đương thì
Tết Vân Hà làng mở hội thi
Núc ních từng đôi chật đường nghẽn lối
Cỗ ba tầng
Giò lụa nổi
Giò mỡ chìm
Nem bối rối
Lá sung bay rụng đầy nong
Vại bỗng ngất ngư cười cải mả
Bát bỗng lim dim
Tìm mắt gái muộn chồng
Sân một sào xôn xao
Sồi lụa thưởng
Mười lợn thi đi chật cổng đình cong
Đêm phường chèo trống giục
Vùi lấp nồi niêu
Hồi tiếu cùng eng éc
Khúc giáo đầu bi tráng lợn nhà kêu
Ba ngày tiếng dao phay liếc nhanh thành vại
Ba đêm chim lợn toác sương gieo
Chai đại lăn kềnh giữa chiếu
Chai bố chéo khoeo
Vật vờ góc ban thờ
Chai con gậm giường rụt cổ
Tuý luý mềm soải tóc khóc ngu ngơ
Hội tàn men
quẩn quanh nghiêng ngửa
Giật yếm đào túm vội đôi bầu
Bỗng đốp chát mắt đom đóm nổ
Mịt mù hơi rượu miếu cô Mau.
Hội đền tám Vua triều Lý
Hội đền tám-Vua-triều-Lý
Còn đau thớ gỗ phượng rồng
Chen chúc khoảng trời thương nhớ
Tạnh thời gian
Tám tượng ngồi mê tà khói mỏng
Để thạch sùng vào bụng rỗng
Chép miệng vàng son ngút khói tan
Đôi lính Chiêm Thành canh cửa Việt
Quê hương quê hương xa không về
Tù binh gửi máu vào tay chạm
Đứng cửa còn trông thấy đất Chàm
Bát đế ngoái nhìn trang sử ố
Nghìn năm sao chẳng tuyệt nòi tham
Giá như tế lễ uy linh thế
Được tái sinh nhiều đấng minh quân
Hẳn Công Uẩn đã tâu Thượng đế
Treo trống hồn vua lắng tiếng dân
Hỡi ơi Chiêu Thánh sao không nói
Người ta lo dựng nghiệp lâu dài
Ai lo việc cưới chồng công chúa mồ côi
Ví như không có Trần Thủ Độ
Mắt dại Vua Bà biết chọn ai
Quân cờ chí chát đêm Kinh Bắc
Mấy ngón tay tính nước vào ra
Vân vê nhẵn nhụi cạnh ngà
Tròn lăn cung cấm trẻ con chơi
Nhịp bảy
Rồi lại đi
Bước sắp qua cầu nghẹn tiếng
Luân hồi
Con đấy ư
Con đã về Kinh Bắc
Những cỏ Bồng Thi
Với dế đầu si
Những lá Diêu Bông
Với đôi xe hồng
Luân lưu thụ thai qua chín đời
Đằng đẵng
Đến khi con lọt lòng
Cây đu đủ sau nhà vừa bấm ngọn
Đội mũ niêu đen
Đi trong đêm mưa dầm
Mẹ đau trở dạ
Sinh con ra
Tiếng tù và xé canh ba
Báo hiệu cơn giông nín lặng
Trống liên hồi ra đi
Ngăn trận bão bao la
Trong giọt lệ cuối hàng mi
Con đấy ư
Mười ngày không khóc
Mười thày lang dờ dẫm
Ven giường ẩm ướt
Mười đêm
Tiếng trống chèo vuốt ngực Châu Long
Bước “sắp qua cầu” nghẹn tiếng
Đợi mùa
Mùa chưa về
Tu hú gọi Em đi tìm Mẹ
Dẫy tre xa giấu biệt giải khăn điều
Khi gậy nắng kẻ ăn mày đã quăng sau núi
Hàng tre nhả yếm
Trả mẹ về
Lều dột mưa đêm
Thì Chị đi mấy lối chân chim
Để Mẹ về bao phương bèo nổi
Riêng Em nằm trơ đợi mai tu hú gọi
Như không có Mẹ từ năm biết gọi gà
Chiêm chiếp xó nhà mưa mọt
Xanh gì chỏm tóc lên ba
Khi cọc cầu ao dứ mắt chuồn chuồn
Buồn ngủ rã rời cánh mỏng
Em đi mãi những đường làng ngơ ngắt
Nhặt lá đa đan mũ Chiêu Quân
Hát vẩn vơ lời sẩm chợ
Gậy mù ngửi hơi đường lạ
Bóng cây rợp mát lưng gù
Chiều lá dứa tít mù chong chóng
Gió mát này Mẹ quạt
Từ chênh chếch nẻo tàn trăng
Có cô láng giềng trái đào vắt vẻo
Hỏi đằng ấy đi đâu
Em lên núi xa hái cỏ thiên đồng
Cài tóc Chị sênh tiền gõ nhịp
Đánh bồng trên mái đình cong
Em bước vào đình
Ôm cột mấy người ôm
Em rẽ sang chùa
Lay chân hộ pháp
Sau chùa tát đêm một chạp
Gầu giai ai vớt Chị ơi
Loà loà thân trăng
Chị lỡ xe hồng
Mẹ đi lấy chồng
Cỗ cưới chênh vênh khoai luộc
Mật vàng mọng rách vỏ nâu non
Cắm bốn que tăm
Khênh nhị hỉ đẫy lưng lợn béo
Phần Mẹ khúc đuô


1-

Có nét buồn khôi nguyên
Chìm sâu vào đằng đẵng
Có tiếng ca ưu phiền
Chìm sâu vào lẳng lặng
Và dai dẳng em ơi
Là cơn say khát lá
Cứ thon mềm xanh lả
Trong men quê bồi hồi

2- Ngõ

Sao không thể khép cửa buồng thương nhớ
Còn phong phanh manh áo
Dắt về những ngõ làng xưa
Sao không quên chiều đổ mưa
Con rô rạch ngược
Nướng cong mùa thơ
Cơm nghèo thuở trước
A bê nghé ơi
Mưa Thuận Thành
Nhớ mưa Thuận Thành
Long lanh mắt ướt
Là mưa ái phi
Tơ tằm óng chuốt
Ngón tay trắng nuột
Nâng bồng Thiên Thai
Mưa chạm ngõ ngoài
Chùm cau tóc xoã
Miệng cười kẽ lá
Mưa nhoà gương soi
Phủ Chúa mưa lơi
Cung Vua mưa chơi
Lên ngôi hoàng hậu
Cứ mưa Thuận Thành
Hạt mưa chưa đậu
Vai trần ỷ Lan
Mưa còn khép nép
Nhẹ rung tơ đàn
Lách qua cửa hẹp
Mưa càng chứa chan
Ngoài bến Luy Lâu
Tóc mưa nghiêng đầu
Vành khăn lỏng lẻo
Hạt mưa chèo bẻo
Nhạt nắng xiên khoai
Hạt mưa hoa nhài
Tàn đêm kỹ nữ
Hạt mưa sành sứ
Vỡ gạch Bát Tràng
Hai mảnh đa mang
Chiều khô lá ngải
Mưa gái thương chồng
Ướt đằm nắng quái
Sang đò cạn sông
Mưa chuông chùa lặn
Về bến trai tơ
Chùa Dâu ni cô
Sao còn thẩn thơ
Sao còn ngơ ngẩn
Không về kinh đô
Ơi đêm đợi chờ
Mưa ngồi cổng vắng
Mưa nằm lẳng lặng
Hỏi gì xin thưa
Nhớ lụa mưa lùa
Sồi non yếm tơ
…………………..
Thuận Thành đang mưa…
………………………
Nhịp cuối
Về với ta
Ngủ say rồi đôi cá đòng đong
Về với ta

 

Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh
Đi mãi tìm sim chẳng chín
Ta lên đồi thông nằm miếu Hai Cô
Gặm cỏ mưa phùn
Dóng dả gọi về đồng sương
Đôi ba người lận đận
Đêm nay mẹ chẳng về chuồng
Ta con chào mào khát nước
Về vườn xưa hạt nhãn đã đâm mầm
Cây ổi giơ xương
Chống đỡ mùa đông xập về
Đánh úp
Ô này tám đỏ ra hoa
Ta con chim cu
Về gù dặng tre
Đưa nắng ấu thơ
Về sân đất trắng
Đưa mây lành những phương trời lạ
Về tụ nóc cây rơm
Ta ru em
Lớn lên em đừng tìm mẹ
Phía cơn mưa
Ta con phù du ao trời chật chội
Đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao
Uống nước mắt con vành khuyên nhớ tổ
Vừa rụng chiều nay
Dềnh mặt nước hương sen
Ta soi
Chỉ còn ta đạp lùi tinh tú
Ngủ say rồi
Đôi cá đòng đong


Xong cuộc tuần du
Tuần du chưa vợi khối ân tình
Vĩ thanh
Thai nghén quê xưa
Về kinh bắc lọt lòng
Qua tám nhịp tuần du dạ khúc

Ngộ Không

 

 

 

 

 

©T.Vấn 2014

Bài Mới Nhất
Search